Luận văn Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trong luật hình sự Việt Nam

pdf 69 trang vuhoa 25/08/2022 6280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trong luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_toi_van_chuyen_trai_phep_hang_hoa_tien_te_qua_bien.pdf

Nội dung text: Luận văn Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trong luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ HỒNG HẠNH TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HÓA, TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ HỒNG HẠNH TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HÓA, TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS.LÊ ĐĂMG DOANH Hà Nội – 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo trung thực, tin cậy và được tham khảo, trích dẫn đầy đủ theo quy định. TÁC GIẢ Đinh Thị Hồng Hạnh i
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT iv MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HÓA, TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI 6 1.1. Một số vấn đề chung về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới 6 1.2. Lịch sử lập pháp về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. 7 1.3. Pháp luật hình sự nước ngoài quy định về tội vận chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới. 17 Kết luận chƣơng 1 20 Chƣơng 2 TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HÓA, TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 21 2.1. Dấu hiệu pháp lý về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. 21 2.2. Hình phạt đối với người phạm tội, pháp nhân phạm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới 28 2.3. Phân biệt tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới với một số tội phạm có dấu hiệu vận chuyển hàng hóa qua biên giới. 32 Kết luận chƣơng 2 35 Chƣơng 3THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HÓA, TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI 36 ii
  5. 3.1. Thực tiễn xét xử tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới và một số vướng mắc, bất cập 36 3.2. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới 47 KẾT LUẬN 58 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 61 iii
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự TAND : Tòa án nhân dân TNHS : Trách nhiệm hình sự VKSND : Viện Kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện Kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa iv
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, tự do thương mại hiện nay, các hoạt động kinh doanh thương mại diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, nhất là hoạt động xuất, nhập khẩu. Tuy nhiên, do cơ chế thị trường, do lợi nhuận nên các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới có sự gia tăng làm ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh quốc gia, thực thi các chính sách thương mại cũng như việc thu ngân sách, đảm bảo lợi ích của cộng đồng. Để đấu tranh phòng, chống các tội phạm về kinh tế nói chung, tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới nói riêng, các lực lượng chức năng như Bộ đội Biên phòng, Công an, Hải quan, Quản lý thị trường (trong đó lực lượng Hải quan có vai trò quan trọng) đã tổ chức thực hiện nhiều biện pháp có hiệu quả nhiều biện pháp trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn lậu và vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Tuy nhiên, theo đánh giá của Tổng cục Hải quan, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới thời gian qua có xu hướng tăng dần về cả số lượng vụ việc lẫn tính chất, mức độ với những hành vi, phương thức, thủ đoạn tinh vi, có tổ chức, thậm chí sử dụng giấy chứng nhận kiểm soát và chứng thư giám định đối với hàng nhập khẩu sai quy định; làm giả các giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức để vận chuyển, nhập khẩu trái phép hàng hóa, tiền tệ. Chỉ tính riêng 10 tháng đầu năm 2018, lực lượng kiểm soát hải quan đã đấu tranh phát hiện, bắt giữ, xử lý 14.109 vụ vi phạm pháp luật hải quan (tăng 1
  8. 12,49% so với cùng kỳ năm 2017); Tổng trị giá hàng hóa vi phạm ước tính hơn 1.172 tỷ đồng (tăng 118,76%), thu nộp ngân sách hơn 287 tỷ đồng; Cơ quan Hải quan đã khởi tố 60 vụ án hình sự, chuyển nội dung tin báo, kiến nghị khởi tố đến cơ quan khác đề nghị khởi tố 81 vụ án hình sự, trong đó có khoảng 20% các vụ án hình sự về Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới [23]. Nguyên nhân của thực trạng vi phạm nêu trên là các biện pháp phòng ngừa chưa được sử dụng một cách triệt để, hiệu quả còn hạn chế, tỷ lệ tội phạm ẩn vẫn còn cao; công tác phát hiện, điều tra khám phá còn gặp một số khó khăn, vướng mắc cả về thể chế và thực tiễn. Ví dụ như: thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính với hình thức “phạt tiền” và “tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính” của cơ quan Hải quan còn bị hạn chế; thủ tục thành lập doanh nghiệp hiện nay thông thoáng nên cũng bị lợi dụng để thành lập các công ty “ma”, hoặc mua lại công ty đã thành lập để làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa Đặc biệt là, việc xử lý về hình sự đối với các hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới còn chưa được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng thống nhất và còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tế. Từ đó, tác giả chọn đề tài "Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trong Luật Hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến đấu tranh phòng, chống hành vi phạm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới theo Luật Hình sự Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu được công bố ở những góc độ khác nhau. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây: - “Đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới” của tác giả Nguyễn Đức Bình, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường đại học luật Hà Nội, 2000; 2
  9. “Thực trạng xét xử các vụ án về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ II, số 24 (12/2004); - “Một số vấn đề về định tội danh trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Trịnh Quốc Toản (Sách chuyên khảo sau đại học), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội (2013); - “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (Phần các tội phạm)” của tập thể tác giả (Trần Văn Luyện, Phùng Thế Vắc, Lê Văn Thư, Nguyễn Mai Bộ, Phan Thanh Bình, Nguyễn Ngọc Hà, Phạm Thị Thu), Nxb Công an nhân dân, 2017; - “Quy định về pháp nhân thương mại phạm tội” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, cập nhật ngày 27/02/2018; - “Buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới: Nóng bỏng và phức tạp” của tác giả Quang Minh ( Ngoài ra, liên quan đến đề tài cũng còn một số công trình nghiên cứu được công bố trên các báo, tạp chí, trang web Nhìn chung, các công trình được công bố đã đề cập đến một số vấn đề về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trong Luật Hình sự Việt Nam, tuy nhiên, số lượng các công trình nghiên cứu về tội phạm này không nhiều. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa, tham khảo các kết quả nghiên cứu đã công bố, luận văn tiếp tục làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật để đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm này ở nước ta trong thời gian tới. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận 3
  10. và thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý hành vi phạm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn xét xử tội phạm này ở nước ta trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới như: khái niệm, bản chất, các dấu hiệu pháp lý và phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác. - Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong xử lý đối với Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ở Việt Nam trong thời gian qua, những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. - Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng trong xét xử tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ở nước ta trong tình hình mới. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới dưới gốc độ luật hình sự, trong đó luận văn tập trung nghiên cứu các quy định hiện hành về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới và việc áp dụng quy định của tội phạm này trong xét xử trong thời gian từ 2015 đến năm 2018 ở một số địa phương. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Từ mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng của triết học Mác- Lênin; quan điểm, chính sách pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước, đồng thời sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê để rút ra các kết quả nghiên cứu của mình. 4
  11. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn làm sáng tỏ nội dung pháp lý của tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Đồng thời, luận văn cũng góp phần luận giải những đặc thù của việc áp dụng pháp luật hình sự trong xử lý tội phạm này trong từng thời kỳ phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Mặt khác, luận văn còn là tài liệu khoa học tham khảo bổ ích cho sinh viên các trường chuyên ngành luật. - Ý nghĩa thực tiễn: Việc nghiên cứu tội phạm này dưới góc độ thực tiễn áp dụng pháp luật trong xét xử sẽ góp phần đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự, đảm bảo hiệu quả hoạt động của các cơ quan tố tụng hình sự nói chung, tòa án nói riêng trong việc xử lý hành vi phạm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ở nước ta trong thời gian tới. Kết quả nghiên cứu còn góp phần đưa ra các giải pháp phòng chống hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ở các địa phương giáp biên giới một số nước ngoài tiếp giáp với Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Két cấu luận văn gồm: ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Chương 2: Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015. Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới 5
  12. CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HÓA, TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI 1.1. Một số vấn đề chung về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới 1.1.1. Khái niệm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới Hàng hóa và tiền tệ có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở các góc độ khác nhau trong đời sống xã hội, nhưng theo nghĩa chung nhất, có thể quan niệm: (i) hàng hóa là sản phẩm của lao động, thể hiện sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng thông qua trao đổi mua-bán nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người; (ii) tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung thống nhất, là thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện cất giữ, phương tiện thanh toán trong đời sống xã hội của mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy hàng hóa, tiền tệ có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức, được lưu thông và sử dụng vì những nhu cầu khác nhau trong đời sống xã hội, bởi vậy, tùy thuộc điều kiện kinh tế, văn hóa- xã hội của mỗi quốc gia thì chính sách, pháp luật về quản lý hàng hóa, tiền tệ cũng có sự khác biệt. Ở nước ta, việc quản lý nhà nước về kinh tế nói chung, đối với hàng hóa, tiền tệ nói riêng được thực hiện trên cơ sở pháp luật và điều kiện thực tế của đất nước ở từng thời kỳ nhất định, nhằm đảm bảo việc lưu thông, mua bán hàng hóa, tiền tệ đảm bảo trật tự quản lý kinh tế. Về nguyên tắc, để đảm bảo quản lý nhà nước, pháp luật quy định cụ thể việc lưu thông, sử dụng hàng hóa, tiền tệ. Bởi vậy, việc lưu thông, buôn bán hàng hóa, tiền tệ trái với quy định pháp luật thì bị coi là hành vi vi phạm pháp luật, trong đó có hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. 6
  13. Vận chuyển hàng hóa, tiền tệ, theo nghĩa chung nhất là hành vi đưa hàng hóa, tiền tệ từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào. Thực tế cho thấy rằng, việc vận chuyển hàng hóa, tiền tệ có thể thực hiện thông qua các phương thức khác nhau như: mang theo người, vận chuyển qua các phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy, đường biển, đường sắt, đường hàng không hoặc qua đường bưu điện. Từ đó, việc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới có thể được thể hiện qua những hành vi như: hành vi vận chuyển nhưng không có giấy phép, không đúng nội dung giấy phép, không khai báo với cơ quan chức năng tại khu vực biên giới, trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan chức năng (không làm thủ tục hải quan theo quy định pháp luật, khai báo gian dối số lượng, chủng loại hàng hóa hoặc không có hóa đơn, chứng từ hợp pháp; hàng hóa nhập khẩu nhưng không có tem dán vào hàng hóa theo quy định hoặc có tem dán nhưng là tem giả, tem đã qua sử dụng v.v ). Việc vận chuyển trái phép nếu có mục đích buôn bán thì được coi là tội buôn lậu. Theo quy định tại Điều 189 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Người nào hoặc pháp nhân nào vận chuyển trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại các loại hàng hóa, tiền tệ có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên bị coi là tội phạm hoặc dưới 100 triệu đồng mà đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án về tội phạm này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 188, 190 chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc đối tượng hàng hóa là di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia cũng được coi là tội phạm. 1.2. Lịch sử lập pháp về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa ảnh hưởng đến an ninh biên giới và chủ quyền Quốc gia nên được nhà nước quản lý chặt chẽ. Vì 7
  14. vậy, việc quy định hành vi vận chuyển hàng hóa, tiền tệ trái pháp luật là tội phạm tùy thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn nhất định. Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của việc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới đối với trật tự quản lý kinh tế về xuất khẩu, nhập khẩu và tiền tệ nên Nhà nước ta luôn có chính sách xử lý tương đối nghiêm khắc đối với tội phạm này. 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Trong giai đoạn này, Nhà nước ta đã quan tâm ban hành nhiều văn bản pháp luật để đấu tranh, phòng chống tội phạm, trong đó có các hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Cụ thể như một số văn bản quy phạm pháp luật sau đây: - Sắc lệnh số 50/SL ngày 09/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa. Theo sắc lệnh này quy định thì Nhà nước cấm hẳn việc xuất cảnh ra ngoại quốc thóc, gạo, ngô, đỗ hoặc các chế phẩm thuộc về ngũ cốc. Vì vậy, có thể hiểu rằng việc vận chuyển "thóc, gạo, ngô, đỗ hoặc các chế phẩm thuộc về ngũ cốc” qua biên giới là trái pháp luật và người có hành vi vi phạm sẽ bị phạt theo quân luật và tài sản sẽ bị tịch thu. Từ đó, Sắc lệnh này có thể coi là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định về hành vi vận chuyển hàng hóa qua biên giới - Sắc lệnh số 160/SL ngày 21/8/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cũng tương tự Sắc lệnh số 50/SL nêu trên, Sắc lệnh này cũng cấm hẳn việc xuất cảng ra ngoại quốc các máy móc, các đồ vật bằng kim khí, xe hơi và các đồ phụ tùng về xe hơi. Vì vậy, máy móc, các đồ vật bằng kim khí, xe hơi và các đồ phụ tùng về xe hơi đã được bổ sung danh mục hàng cấm xuất cảng và người nào người nào có hành vi vận chuyển trái phép các hàng hóa này thì bị phạt theo luật lệ thuế quan hiện hành. 8
  15. - Sắc lệnh số 202/SL ngày 15/10/1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định việc buôn bán vàng bạc. Theo Sắc lệnh này thì Nhà nước "cấm hẳn việc xuất cảng bạc nén, bạc thoi, bạc vụn, tiền tệ bằng bạc, đồ bạc, nếu không được Bộ trưởng Bộ Tài chính cho phép” (Điều 6). Điều này cũng có nghĩa là người nào có vận chuyển bạc nén, bạc thoi, bạc vụn, tiền tệ bằng bạc, đồ bạc qua biên giới mà không được Bộ trưởng Bộ Tài chính cho phép thì bị coi là hành vi trái pháp luật hình sự và bị “phạt tiền gấp ba số bạc gian lậu hay định gian lậu và phạt tù từ sáu ngày đến sáu tháng, hoặc sẽ phải chịu một trong hai thứ hình phạt ấy” (Điều 8). - Pháp lệnh số PL/1982 ngày 30/6/1982 của Hội đồng Nhà nước về trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép. Pháp lệnh này chưa quy định hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới là tội phạm một trong điều luật riêng mà được quy định chung: "Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới”, theo đó: Người nào vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng phạm pháp. Nếu vận chuyển hàng hoá thuộc loại cấm xuất khẩu, nhập khẩu hoặc phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng quy định ở khoản 1, Điều 9 Pháp lệnh này (Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm; Lợi dụng thiên tai hoặc chiến tranh để phạm tội; Phạm tội có tổ chức; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước hay tổ chức xã hội để phạm tội; Có hành động chống lại cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ) thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm, bị phạt tiền từ ba lần đến năm lần trị giá hàng phạm pháp, và có thể bị tịch thu một phần tài sản. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định ở khoản 2, Điều 9 Pháp lệnh này (Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đến nền kinh tế quốc dân hoặc sức khoẻ, tính mạng của người khác; Phạm tội gây hậu quả 9
  16. nghiêm trọng đến an ninh, quốc phòng; Phạm tội tập trung nhiều tình tiết nghiêm trọng) thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, bị phạt tiền từ năm lần đến mười lần trị giá hàng phạm pháp và có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. - Nghị quyết số 68/HĐBT ngày 25/4/1984 của Hội đồng Bộ trưởng về việc đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống buôn lậu, chuyển trái phép tiền và hàng qua biên giới, theo đó nghị quyết đã đề ra những biện pháp cấp bách để nâng cao hiệu quả phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi buôn lậu, chuyển trái phép tiền và hàng qua biên giới Trên cơ sở khái quát nêu trên, có thể thấy rằng trong giai đoạn này, ngay từ khi giành độc lập, Nhà nước ta đã có chính sách hình sự kiên quyết đấu tranh với các tội phạm về vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Trong giai đoạn này, mặc dù khái niệm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới chưa được quy định cụ thể trong văn bản quy phạm pháp luật nhưng các hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới đều bị xử lý bằng biện pháp hành chính hay hình sự của Nhà nước. Các quy định về các hành vi phạm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ở giai đoạn này là chuyển trái phép tiền và hàng qua biên giới; xuất cảng (xuất khẩu) hàng hóa, tiền tệ trái với quy định của nhà nước và hàng hóa, tiền tệ chủ yếu là một số loại thực phẩm, nhu yếu phẩm thiết yếu cho tiêu dùng; vàng bạc, các kim loại quý, đá quý, ngoại tệ, vật tư kỹ thuật hoặc các loại hàng khác mà Nhà nước cấm buôn bán, tàng trữ 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 Dấu mốc lập pháp thể hiện chính sách hình sự nhất quán của Nhà nước ta đối với các tội phạm nói chung, tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới nói riêng trong giai đoạn này là xây dựng BLHS năm 10
  17. 1985. Ngày 27/6/1985, Quốc hội đã ban hành BLHS (được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997). BLHS năm 1985 được ban hành. Đây là một bước tiến quan trọng trong hoạt động lập pháp của Nhà nước ta, theo đó đã có những quy định hành vi phạm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, tạo cơ sở pháp lý cho việc phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả đối với các hoạt động vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Cụ thể BLHS năm 1985 - Điều 97 quy định: Người nào buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá, thì bị phạt tiền đến năm lần giá trị vật phạm pháp hoặc bị phạt tù từ một năm đến năm năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền đến mười lần giá trị vật phạm pháp hoặc bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: Có tổ chức; Vật phạm pháp có số lượng lớn hoặc giá trị lớn; thu lợi bất chính lớn; Lợi dụng chiến tranh; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; Phạm tội nhiều lần hoặc tái phạm nguy hiểm. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân [9]. Theo quy định của BLHS năm 1985 nêu trên, mặc dù hành vi phạm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới không quy định thành một Điều luật riêng, nhưng với tên tội danh: (Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới) thì nhà làm luật đã coi hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới là tội phạm độc lập và được xếp vào nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia. Tuy nhiên, việc xử lý hình sự đối với hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới phải trên cơ sở các quy định cụ thể về quản lý 11
  18. xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và chính sách tiền tệ của nhà nước. Để có cơ sở và thuận lợi cho việc xử lý tội phạm này, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 193-HĐBT ngày 23/12/1988 về kinh doanh thương mại và du lịch ở thị trường trong nước và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Chỉ thị số 278/CT ngày 03/8/1990 về việc cấm nhập khẩu và lưu thông thuốc lá điếu của nước ngoài trên thị trường trong nước; Chỉ thị số 330/CT-HĐBT ngày 13/9/1990 về tăng cường quản lý ngoại hối; Quyết định số 337/HĐBT ngày 25/10/1991 về một số biện pháp quản lý ngoại tệ trong thời gian trước mắt Theo các quy định ở giai đoạn này, thì hàng hóa, tiền tệ cấm vận chuyển trái phép qua biên giới là: thuốc phiện và hoạt chất thuốc phiện; vũ khí và một số quân trang, quân dụng; hiện vật thuộc di tích lịch sử; văn hóa và các sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản động; thuốc lá điếu của nước ngoài, ngoại tệ. Ví dụ như: Chỉ thị số 330-CT ngày 13/9/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quy định: Việc nhập khẩu vàng do Ngân hàng Nhà nước đảm nhận, các tổ chức khác chỉ được nhập vàng khi được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép. Đồng thời, để hướng dẫn xử lý hình sự đối với một số trường hợp, ngày 20/11/1990 Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên ngành số 11/TTLN quy định: lần đầu nhập khẩu trái phép thuốc lá điếu nước ngoài với số lượng dưới 500 bao thì chưa coi là tội phạm nhưng phải bị xử lý hành chính. Nếu số lượng hàng hóa phạm pháp từ 1.500 bao đến dưới 4.500 bao thì coi là phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp có số lượng lớn; nếu số lượng hàng hóa phạm pháp từ 4.500 bao trở lên thì coi là phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng Qua nghiên cứu quy định của BLHS năm 1985 và các văn bản liên quan, có thể nói rằng các quy định về hành vi phạm tội vận chuyển trái 12
  19. phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới đã phát huy vai trò quan trọng trong việc bảo vệ bảo vệ an ninh quốc gia và đảm bảo trật tự quản lý kinh tế, an toàn xã hội, nhất là khu vực biên giới Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng BLHS năm 1985 qua các lần sửa đổi, bổ sung cho thấy rằng các quy định về xử lý tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới cũng còn những tồn tại, bất cập nhất định. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới thì đòi hỏi phải bổ sung một số tội phạm, trong đó có các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Với yêu cầu của thực tiễn, ngày 21/12/1999 Quốc hội đã thông qua BLHS năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2000. Theo quy định của Điều 154 BLHS năm 1999 thì: Người nào vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng; vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá; hàng cấm có số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này thì bị coi là tội phạm. Như vậy, so với BLHS năm 1985, điểm mới của BLHS năm 1999 đã quy định hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới thành một tội danh riêng biệt (Điều 154), được xếp vào nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tại chương XVI BLHS (BLHS năm 1985 quy định tội phạm này thuộc nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia) nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Đặc biệt là BLHS năm 1999 đã phân định rõ hành vi phạm tội vận chuyển trái 13
  20. phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới với hành vi phạm tội buôn lậu được quy định tại Điều 153 BLHS năm 1999, theo đó tội buôn lậu là hành vi đưa hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trái phép nhằm mục đích buôn bán (mua bán trái phép nhằm mục đích kiếm lời), còn tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới là hành vi đưa hàng hóa, tiền tệ qua biên giới không nhằm mục đích buôn bán. Tuy nhiên, đối với dấu hiệu định khung, mặc dù nhà làm luật quy định tình tiết “có số lượng lớn”, “có số lượng rất lớn” trong điều luật nhưng chưa giải thích cụ thể thế nào là có số lượng lớn, số lượng rất lớn. Thực tế ở giai đoạn này chỉ có Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/12/2008 của Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn việc truy cứu TNHS đối với các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ hướng dẫn về định lượng đối với pháo nổ làm cơ sở cho việc phân định ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành chính, theo đó pháo nổ có số lượng lớn là từ 10kg đến dưới 50 kg. Đáng chú ý, BLHS năm 1999 có điểm mới so với BLHS năm 1985 là đã quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, theo đó người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 đến nay BLHS năm 1999 quy định về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới đã tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm về trật tự kinh tế nói chung và tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ nói riêng. Tuy nhiên, BLHS năm 1999 chưa thể chế hoá được đầy đủ những quan điểm, chủ trương mới của Đảng và chính sách hình sự của Nhà nước ta, nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ- TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn 14
  21. thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đặc biệt là những yêu cầu mới của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Đó là cơ chế thị trường, sự hội nhập sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam đã kéo theo những tiêu cực nhất định, trong đó có hành vi tội phạm. Vì vậy, ngày 27/11/2015, Quốc hội đã thông qua BLHS 2015 và sau đó được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018). BLHS năm 2015 tiếp tục quy định hành vi phạm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới tại Điều 189 BLHS năm 2015. So với BLHS năm 1999, về cơ bản cấu thành tội phạm tương tự nhau. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 có một số điểm mới sau đây: Một là, mở rộng hơn phạm vi xác định hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ bị coi là tội phạm. Đó là việc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại, cũng bị coi là tội phạm. Theo quy định tại khoản 1, Điều 4 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì Khu phi thuế quan là khu vực kinh tế nằm trong lãnh thổ Việt Nam, được thành lập theo quy định của pháp luật, có ranh giới địa lý xác định, ngăn cách với khu vực bên ngoài bằng hàng rào cứng, bảo đảm điều kiện cho hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan của cơ quan hải quan và các cơ quan có liên quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và phương tiện, hành khách xuất cảnh, nhập cảnh; quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa giữa khu phi thuế quan với bên ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu. Ví dụ như: khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, khu bảo thuế, kho ngoại quan, khu kinh tế thương mại đặc biệt, khu thương mại-công nghiệp và các khu vực kinh tế khác được thành lập và được 15
  22. hưởng các ưu đãi về thuế như khu phi thuế quan theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Điều 4, Thông tư 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính). Hai là, quy định pháp nhân thương mại phải chịu TNHS. Việc quy định pháp nhân thương mại phải chịu TNHS về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới là hoàn toàn có cơ sở. Bởi trong thực tế ở Việt Nam và trên thế giới có nhiều pháp nhân nhằm trốn thuế xuất nhập khẩu hoặc vì các lý do khác nhau mà có thể vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Con người trực tiếp vận chuyển, những người điều hành pháp nhân thương mại vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ không có hưởng lợi cá nhân mà hoàn toàn vì lợi ích của pháp nhân thương mại. Như vậy, hành vi của người đại diện nhân danh pháp nhân, hành vi của người được pháp nhân cho phép, pháp nhân ủy quyền sẽ được coi là hành vi phạm tội của pháp nhân. Đây là quan điểm rất mới trong việc truy cứu TNHS. Ba là, sửa đổi dấu hiệu định tội, cụ thể hóa các loại hàng hóa, tiền tệ, quy định bổ sung di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; nâng mức phạt tiền (hình phạt chính và hình phạt bổ sung); bổ sung mức phạt tiền đối với trường hợp phạm tội thuộc tình tiết tăng nặng v.v Như vậy, pháp luật hình sự Việt Nam từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến nay, luôn coi hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới là tội phạm. Từ chỗ coi là tội xâm phạm an ninh quốc gia (BLHS năm 1985) đến nay luật hình sự chỉ quy định là một trong các tội phạm về kinh tế, đồng thời nội dung, các dấu hiệu của tội phạm phạm ngày càng được cụ thể hóa như dấu hiệu về các loại hàng hóa, khu vực phi thuế quan, chủ thể có thể là pháp nhân thương mại v.v Những thay đổi trên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đấu tranh chống tội phạm 16