Luận văn Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam

pdf 117 trang vuhoa 25/08/2022 8181
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_day_nghe_doi_voi_nguoi_khuyet_tat_o_vi.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ KIM DUNG PH¸P LUËT VÒ D¹Y NGHÒ §èI VíI NG¦êI KHUYÕT TËT ë VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ KIM DUNG PH¸P LUËT VÒ D¹Y NGHÒ §èI VíI NG¦êI KHUYÕT TËT ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. MAI VĂN THẮNG HÀ NỘI - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Đào Thị Kim Dung
  4. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DẠY NGHỀ ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM 8 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về ngƣời khuyết tật và quyền của ngƣời khuyết tật 8 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm ngƣời khuyết tật 8 1.1.2. Các quyền cơ bản của ngƣời khuyết tật 17 1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 23 1.2.1. Khái niệm dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 23 1.2.2. Những đặc thù cơ bản trong việc dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 24 1.2.3. Lý luận pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 25 1.3. Tính cần thiết và vai trò của pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật ở Việt Nam 28 1.3.1. Tính cần thiết của pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật ở Việt Nam 28 1.3.2. Vai trò của pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 31 1.4. Những quy định, tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế về ngƣời khuyết tật và dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 33
  5. 1.4.1. Những quy định, tiêu chuẩn của Công ƣớc quốc tế về ngƣời khuyết tật và dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 33 1.4.2. Những quy định, tiêu chuẩn của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về ngƣời khuyết tật và dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 37 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 39 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DẠY NGHỀ ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM 40 2.1. Thực trạng pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật ở Việt Nam 40 2.1.1. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 40 2.1.2. Hiện trạng các quy định pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 43 2.1.3. Đánh giá chung về thực trạng các quy định của pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay 52 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay 56 2.2.1. Thực trạng chung trong hoạt động áp dụng pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 56 2.2.2. Những thành tựu và hạn chế trong áp dụng pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay 66 2.3. Nguyên nhân cơ bản 77 2.3.1. Nguyên nhân khách quan 77 2.3.2. Nguyên nhân chủ quan 78 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 81
  6. Chƣơng 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DẠY NGHỀ ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM 82 3.1. Những quan điểm, định hƣớng chung 82 3.2. Những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 83 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 83 3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện quá trình thực hiện pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật 89 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 101 KẾT LUẬN 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
  7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CRS Tổ chức nhân đạo cứu trợ Hoa Kỳ.(Catholic Relief Services) ILO Tổ chức lao động quốc tế NKT Ngƣời khuyết tật NTT Ngƣời tàn tật USAID Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ.
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1. Tỉ lệ ngƣời tàn tật đƣợc học nghề 73 Bảng 2.2. Lý do không tham gia các lớp học nghề 76
  9. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang Số ngƣời khuyết tật đƣợc dạy nghề giai đoạn Biểu đồ 2.1. 2006 – 2010 (ngƣời) 69 Về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ Biểu đồ 2.2. thuật của ngƣời khuyết tật Việt Nam năm 2008 73 Tình hình học nghề của ngƣời khuyết tật tại các Biểu đồ 2.3. cơ sở 74
  10. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngƣời khuyết tật là ngƣời bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc một hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm. Do khuyết tật nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và tham gia hoạt động xã hội. Việc đảm bảo sự bình đẳng cho NKT thực hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội là cần thiết và là trách nhiệm của Nhà nƣớc và của toàn xã hội. Dạy nghề là một nội dung quan trọng trong việc bồi dƣỡng và nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực xã hội nói chung và cũng bảo đảm yêu cầu giải quyết việc làm cho lao động nói riêng. Đặc biệt đối với NKT, dạy nghề có ý nghĩa tiền đề trong việc tạo cơ hội việc làm, góp phần hỗ trợ NKT từng bƣớc hoà nhập cộng đồng. Với một đối tƣợng đặc thù nhƣ NKT thì dạy nghề không chỉ tạo điều kiện cho họ vƣợt qua những khó khăn, hòa nhập vào đời sống cộng đồng mà còn là hoạt động mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc. Là mắt xích quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền thống nhân đạo của dân tộc, ngƣời khuyết tật luôn nhận đƣợc sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc ta. Ngay từ Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tháng 6-1991) đã khẳng đinh: "Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh Chăm lo đời sống những người già neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi" [19]. Đến Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ: Từng bƣớc xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân, theo phƣơng châm Nhà nƣớc và nhân dân cùng làm, mở rộng và phát triển sự nghiệp bảo trợ xã hội, tạo lập nhiều hệ thống và 1
  11. hình thức bảo trợ xã hội cho những ngƣời có công với cách mạng và những ngƣời gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sung chính sách, chế độ bảo trợ xã hội phù hợp với quá trình đổi mới và cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội [18]. Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật đã đƣợc ban hành tạo hành lang và cơ sở pháp lý để NKT thực hiện những quyền cơ bản của con ngƣời, tham gia vào đời sống và sự phát triển của xã hội. Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 và lần sửa đổi gần đây nhất là Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định NKT là công dân, thành viên của xã hội. Họ có quyền đƣợc xã hội trợ giúp để thực hiện đƣợc quyền bình đẳng và tham gia tích cực vào các hoạt động của xã hội, đồng thời đƣợc miễn trừ một số nghĩa vụ công dân. Đặc biệt, công tác dạy nghề và giải quyết việc làm cho NKT đƣợc quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi từ phát triển hạ tầng cơ sở cho đến các chính sách trợ giúp đối tƣợng tham gia học nghề. Bộ luật lao động 2012 ra đời, thay thế cho Bộ luật Lao động năm 1994 sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung qua các năm 2002, 2006 và 2007 cũng có những quy định riêng cho lao động là ngƣời khuyết tật. Những quy định về “Lao động là ngƣời khuyết tật” tại mục 4, Chƣơng XI của Bộ luật lao động 2012 đƣợc đánh giá là sự kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trƣớc đó trong lĩnh vực lao động. Luật Dạy nghề năm 2006 đã dành toàn bộ Chƣơng VII quy định dạy nghề cho NKT, với mục tiêu giúp đối tƣợng có năng lực thực hành nghề phù hợp với khả năng lao động của mình để tự tạo việc làm hoặc tìm đƣợc việc làm, ổn định đời sống. Đồng thời, khẳng định, hỗ trợ về tài chính và các chính sách ƣu đãi khác đối với các cơ sở dạy nghề cho NKT nhằm khuyến khích công tác dạy nghề cho NKT. Luật Ngƣời khuyết tật đƣợc Quốc hội khóa XII thông qua ngày 17/6/2010 có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo các quyền lợi chính đáng 2
  12. của NKT, trong đó chế độ dạy nghề là chế độ pháp lý quan trọng đã đƣợc quy định tại Điều 32. Sau hơn 4 năm thực hiện, những quy định về dạy nghề đối với NKT đã phần nào đáp ứng đƣợc những đòi hỏi của thực tiễn đất nƣớc trong điều kiện đổi mới, góp phần không nhỏ trong việc giúp NKT nâng cao cơ hội việc làm, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng pháp luật dạy nghề cũng cho thấy bên cạnh những kết quả đã đạt đƣợc vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Theo báo cáo của các địa phƣơng trên cả nƣớc giai đoạn 2006-2010, tổng số ngƣời khuyết tật đƣợc dạy nghề cả nƣớc là gần 30.000 ngƣời, chỉ đạt hơn 37% so với mục tiêu đề ra theo Đề án trợ giúp ngƣời tàn tật của Chính phủ. Trong số đó chỉ có hơn một nửa đƣợc tạo việc làm. Hàng năm có khoảng 5.000 - 6.000 ngƣời khuyết tật đƣợc dạy nghề, chiếm 0.4% tổng số ngƣời đƣợc dạy nghề nói chung, trong khi đó tỷ lệ ngƣời khuyết tật chiếm tới 8% tổng dân số. Do đó, nghiên cứu những quy định của pháp luật về dạy nghề đối với NKT, nhận xét đánh giá thực tiễn áp dụng, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại để từ đó đƣa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong việc dạy nghề đối với NKT, góp phần nâng cao tính hiệu quả trong chăm sóc, bảo vệ quyền của họ nhƣ là nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng trong bối cảnh và xu thế hiện nay ở nƣớc ta là cần thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả luận văn đã chọn đề tài nghiên cứu "Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Tôn trọng và bảo đảm quyền của ngƣời khuyết tật không chỉ là vấn đề mang tính xã hội mà còn có ý nghĩa về kinh tế và pháp lý cần đƣợc xã hội quan tâm. Đã có một số bài báo và một số công trình nghiên cứu về vấn đề này nhƣ: - Luận văn thạc sỹ (1999), "Pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam", Phạm Thị Thanh Việt. 3
  13. - Luận văn thạc sỹ, "Dạy nghề và tạo việc làm cho NKT: Thực trạng và những vấn đề đặt ra" - Luận án tiến sỹ, "Hoàn thiện pháp luật về quyền của NKT ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thị Báo, đăng trên trang Thông tin khoa học và xã hội, số 8(320), 2009. - Khóa luận tốt nghiệp (2000), “Chế độ lao động đối với người tàn tật” của Trần Thị Hoa. - Khóa luận tốt nghiệp (2004), “Chế độ lao động đối với người tàn tật ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Kim Oanh. - Luận văn thạc sỹ (2010), “Pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam” của Phạm Thị Thanh Việt. Ngoài ra, còn một số bài báo cũng đề cập đến lao động tàn tật nhƣ: “Tạo cơ hội cho người khuyết tật hòa nhiệp và tiếp cận đầy đủ trong quá trình phát triển” của TS Đàm Hữu Đắc đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội số 324/2007 hay “Để người khuyết tật Việt Nam có việc làm phù hợp và ổn định” của Nghiêm Xuân Tuệ đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội số 304,305/2007. Thời gian gần đây, một số báo cáo nghiên cứu mới về NKT nhƣ: Hòa nhập người khuyết tật Việt Nam, đánh giá cuối kỳ 2010, do nhóm đánh giá Eva Lindskog, Trần Thị Thiệp, Hoàng Hải Yến thực hiện - thỏa thuận hợp tác giữa tổ chức CRS và USAID (xuất bản 12/2009); Việc làm của người khuyết tật, kinh nghiệm và bài học rút ra từ dự án "Phát huy năng lực của NKT tại thành phố Đà Nẵng thông qua các cơ hội và dịch vụ y tế", Nxb Lao động-xã hội, 2011; Quản lý giáo dục hòa nhập, do Trần Ngọc Giao, Lê Văn Tạc chủ biên, hiện nay giáo trình đã đƣợc vào giảng dạy cho sinh viên Nhìn chung các nghiên cứu trên hoặc là đã đƣợc tiến hành trong điều 4
  14. kiện thời gian khi chƣa có những cập nhật của pháp luật về lao động, giáo dục nghề nghiệp, hoặc vấn đề về quyền lợi của ngƣời khuyết tật đƣợc nghiên cứu dƣới góc độ tổng quan hay chỉ tiếp cận vấn đề từ khía cạnh xã hội mà chƣa đi sâu vào khía cạnh pháp lý cũng nhƣ thực trạng thực hiện những quy định về dạy nghề đối với lao động là ngƣời khuyết tật. Riêng về khía cạnh dạy nghề cho ngƣời khuyết tật thì hầu nhƣ chƣa có một công trình mới, cụ thể nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, trực tiếp. Bởi vậy, trong luận văn này, tôi xin mạnh dạn đƣa ra những nghiên cứu và hiểu biết của mình về những vấn đề xoay quanh các quy định của pháp luật cũng nhƣ thực tiễn đối với vấn đề dạy nghề cho ngƣời khuyết tật ở Việt Nam. Nhất là với thực tiễn pháp lý về dạy nghề đối với NKT hiện hành, các quy định chỉ mang tính chung chung và nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác thì việc tìm hiểu pháp luật dạy nghề cho ngƣời khuyết tật dƣới giác độ nghiên cứu của một luận văn thạc sỹ là hết sức cần thiết. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu của luận văn nhằm mục đích làm sáng tỏ hệ thống lý luận pháp luật về dạy nghề cho NKT hiện nay, đồng thời, phân tích thực trạng pháp luật liên quan đến vấn đề dạy nghề cho NKT ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định, chính sách pháp luật, cũng nhƣ việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả trong việc dạy nghề đối với NKT ở Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định liên quan đến pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật và thực trạng của vấn đề pháp lý, thực tiễn áp dụng, thực thi các quy định, chính sách pháp luật đối với dạy nghề đối với NKT. 5
  15. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu chế độ dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật trên lãnh thổ Việt Nam từ trƣớc năm 2006 đến nay. Với lý do, năm 2006 là mốc thời gian Quốc hội khóa XI ban hành Luật Dạy nghề, trong đó dành riêng một chƣơng cho vấn đề dạy nghề đối với NKT. 5. Những đóng góp mới của luận văn - Luận văn đã góp phần làm rõ hệ thống lý luận, từ đó có những nhận thức mới, sâu sắc hơn về những vấn đề pháp lý cơ bản đối với pháp luật dạy nghề cho NKT trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, từng bƣớc tạo nên môi trƣờng lao động hài hòa, không rào cản cho NKT phù hợp với Công ƣớc về quyền của NKT. - Luận văn cũng đã phân tích và đánh giá hệ thống pháp luật về dạy nghề cho ngƣời khuyết tật; chỉ ra đƣợc những điểm tích cực, hạn chế, nguyên nhân những hạn chế cơ bản của hệ thống văn bản hiện hành và thực tiễn thi hành pháp luật dạy nghề cho NKT. - Trên cơ sở những nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi, luận văn đã đề xuất các giải pháp, phƣơng hƣớng hoàn thiện các quy định, cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật, góp phần tăng cƣờng hiệu quả quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực dạy nghề cho NKT. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nƣớc ta trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nƣớc, cải cách hành chính xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền và cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn đƣợc thực hiện bằng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học nhƣ phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê và một số phƣơng pháp khác. 6
  16. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài mở đầu và kết luận, Luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng cụ thể nhƣ sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam. Chương 3: Quan điểm, định hƣớng và các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật về dạy nghề đối với ngƣời khuyết tật ở Việt Nam. 7
  17. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DẠY NGHỀ ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về ngƣời khuyết tật và quyền của ngƣời khuyết tật 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm người khuyết tật 1.1.1.1. Khái niệm người khuyết tật Hiện nay ở nƣớc ta tồn tại nhiều quan niệm về NKT. Mỗi một quan niệm đều đứng trên một góc nhìn khác nhau và có mục đích riêng. Trƣớc khi Luật Ngƣời khuyết tật năm 2010 có hiệu lực, pháp luật Việt Nam nhìn nhận ngƣời khuyết tật dƣới góc độ “Ngƣời tàn tật” (NTT). Điều này đƣợc ghi nhận tại Điều 1 của Pháp lệnh Ngƣời tàn tật năm 1998: Ngƣời tàn tật theo quy định của Pháp lệnh này không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là ngƣời bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dƣới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn [53]. Theo Điều 1 Nghị định số 81- CP ngày 23/11/1995 quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về lao động là ngƣời tàn tật thì “Người tàn tật là người mà khả năng lao động bị suy giảm từ 21% trở lên do tàn tật, được Hội đồng giám định y khoa xác nhận” [11, Điều 1]. Trong quy định này khái niệm NTT mới chỉ đƣa ra một cách chung chung, chỉ dừng lại ở việc dùng mức độ suy giảm khả năng lao động do tàn tật làm căn cứ phân biệt xác định một ngƣời nhƣ thế nào đƣợc xác định là NTT mà chƣa đƣa ra đƣợc các đặc điểm khác nhằm phân biệt NTT với ngƣời không tàn tật. Đến Nghị định số 116/2004/NĐ-CP ngày 23/4/2004 về việc sửa đổi, bổ 8
  18. sung một số điều của Nghị định số 81 - CP ngày 23/11/1995 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về lao động là ngƣời tàn tật thì định nghĩa NTT đƣợc đƣa ra cụ thể hơn thông qua việc xác định một ai đó có phải là NTT hay không: Lao động là ngƣời tàn tật theo quy định tại Nghị định này là ngƣời lao động không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dƣới những dạng tật khác nhau, bị suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên, đƣợc Hội đồng giám định y khoa hoặc cơ quan y tế có thẩm quyền xác nhận theo qui định của Bộ Y tế [16, Điều 1]. Liên quan đến khái niệm NTT, tại Điều 59 và Điều 67 Hiến pháp năm 1992 khẳng định:“ Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hóa và học nghề phù hợp”; “ Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ” [30]. Năm 2001, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 51/QH10 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, trong đó có sửa đổi vấn đề liên quan đến ngƣời khuyết tật tại Điều 59 dùng cụm từ “khuyết tật” thay cho cụm từ “tàn tật”. Những vấn đề liên quan đến ngƣời khuyết tật đƣợc quy định tại Hiến pháp năm 1992 đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2001: “ Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp” [33, Điều 59]. Nhƣ vậy, Hiến pháp 1992 khi đƣợc sửa đổi năm 2001 tại Điều 59 đã sử dụng thuật ngữ trẻ em khuyết tật thay cho thuật ngữ trẻ em tàn tật: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hóa và học nghề phù hợp” [33, Điều 59]. Với sự thay thế cách hiểu và cách sử dụng thuật ngữ trong Hiến pháp này, lần đầu tiên NKT đã đƣợc nhìn nhận và đánh giá phù hợp với tâm lý và thực tế tránh quan niệm kỳ thị phân biệt đối xử đối với nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng này. 9
  19. Trên cơ sở Hiến pháp 1992 sửa đổi, ngày 17/6/2010, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Ngƣời khuyết tật và tại đây chính thức sử dụng khái niệm “Ngƣời khuyết tật” thay cho khái niệm “tàn tật” trƣớc đây. Thuật ngữ này, thiết nghĩ phù hợp với khái niệm và xu hƣớng nhìn nhận của thế giới về vấn đề khuyết tật. Theo quy định của Luật này thì NKT đƣợc hiểu là “Người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao đôṇ g , sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. Đây là sự thể hiện quan điểm và nhận thức của Đảng và Nhà nƣớc ta về NKT. Rõ ràng, NKT có thể là ngƣời có những khiếm khuyết nhƣng không phải đã tàn phế. Theo cách hiểu này thì NKT bao gồm cả những ngƣời bị khuyết tật bẩm sinh, ngƣời bị khiếm khuyết do tai nạn, thƣơng binh, bệnh binh. Trong bản Hiến pháp 2013, khái niệm ngƣời khuyết tật đã đƣợc sử dụng và không chỉ còn nói đến trẻ em khuyết tật mà còn nói đến trách nhiệm của nhà nƣớc đối với ngƣời khuyết tật nói chung [41, Điều 61]. Có thể thấy, khái niệm NKT trong Luật Ngƣời khuyết tật so với khái niệm ngƣời tàn tật nói trong Pháp lệnh trƣớc đây đã có bƣớc phát triển mới, tiếp cận với quan niệm thông thƣờng và chuẩn mực quốc tế về NKT (Công ƣớc năm 2006) mà Việt Nam đã ký kết. Việc sử dụng từ ngữ “Ngƣời khuyết tật” thay cho từ ngữ “Ngƣời tàn tật” nhằm bảo đảm tính nhân văn, không gây mặc cảm, tránh sự phân biệt kỳ thị đối với NKT, đồng thời hàm chứa đƣợc đầy đủ hơn đối tƣợng áp dụng và phù hợp với luật pháp quốc tế. Theo đó vấn đề khuyết tật đƣợc nhìn nhận một cách toàn diện hơn ở cả góc độ y tế và góc độ xã hội. Thực tế cho thấy NKT khó có cơ hội tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội do những khiếm khuyết về cơ thể hay chức năng, song khó khăn đó sẽ tăng thêm do ảnh hƣởng bởi những rào cản khác trong xã hội. Sự quan tâm đối với NKT không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức 10
  20. năng mà còn phải tiến tới xoá bỏ các rào cản khác đối với NKT. Chính vì vậy, việc tiếp cận khái niệm NKT từ góc độ xã hội là nhằm hƣớng đến bổ sung, sửa đổi các chính sách giúp giảm thiểu hoặc xoá bỏ những rào cản, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của Nhà nƣớc, xã hội, gia đình, cộng đồng và của mọi cá nhân đối với NKT, giúp NKT chủ động hòa nhập, có cơ hội tham gia một cách bình đẳng vào các hoạt động của xã hội. 1.1.1.2. Đặc điểm của người khuyết tật - Về sức khỏe, NKT là những ngƣời bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể, hoặc có những rối loạn sinh lý, tâm lý hay một chức năng nào đó. Sức khỏe của lao động khuyết tật kém hơn lao động bình thƣờng, khả năng chống lại dịch bệnh thấp, là đối tƣợng gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp và vận động. Đây là một trong những đối tƣợng cần đƣợc Nhà nƣớc và ngƣời sử dụng lao động quan tâm nhiều hơn. Một thực tế khác không thể phủ nhận là sự đa dạng của khuyết tật với những nguyên nhân hình thành khác nhau (do bẩm sinh, do bệnh tật, do tai nạn, do chiến tranh ), những dạng khuyết tật khác nhau (khuyết tật vận động, khuyết tật cảm giác, khuyết tật trí tuệ ) và những mức độ nặng nhẹ khác nhau. Chính điểm này đòi hỏi pháp luật cũng nhƣ chính sách về NKT phải có sự chuyên biệt phù hợp với từng dạng khuyết tật. - Về tâm lý, phần lớn NKT đều có mặc cảm về tật nguyền, tự ti, sống cuộc sống bi quan, cô lập với mọi ngƣời và thế giới xung quanh. Họ cho rằng mình là gánh nặng cho gia đình và xã hội nên thƣờng có tâm lý chán nản, thái độ bất cần vì có cố gắng nỗ lực cũng khó đƣợc ghi nhận. Ở những ngƣời mà khuyết tật nhìn thấy đƣợc, chẳng hạn nhƣ khuyết chi, họ có các biểu hiện tâm lý giống nhƣ mặc cảm ngoại hình, tức là sự chú trọng quá mức đến khiếm khuyết cơ thể đến nỗi gây khổ đau lớn.Họ thƣờng mang tâm lý trốn tránh và sợ hãi khi thực hiện các hoạt động mang tính cộng đồng nhƣ giao lƣu gặp gỡ ở chỗ đông ngƣời. Họ cảm thấy mình là ngƣời thừa, không còn có ích cho xã 11
  21. hội, thậm chí cảm thấy bị Nhà nƣớc bỏ rơi. Vì vậy một bộ phận không nhỏ NKT mang tâm lý căm ghét chế độ, căm hận cuộc sống hoặc có xu hƣớng sống thu mình, không quan tâm tới mọi hoạt động xung quanh. Do có cuộc sống khó khăn hơn bình thƣờng và tâm lý cùng điều kiện khác mà một số lƣợng không nhỏ NKT không gia đình, không có nơi để làm chỗ dựa nên rất cần Nhà nƣớc có những chính sách hỗ trợ riêng cho họ, những con ngƣời kém phần may mắn ngoài những trợ cấp về vật chất khi cần thiết. Chính những chính sách phù hợp này sẽ tạo cho NKT cơ hội để hòa nhập cộng đồng, thuận lợi trong việc tìm kiếm việc làm, có thu nhập đảm bảo cuộc sống và hơn cả là giải phóng sự ức chế về mặt tâm lý cho họ. - Về hoạt động xã hội, xuất phát từ những đặc thù về tâm lý, NKT đƣợc xếp vào đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng nhất trong nhóm dễ bị tổn thƣơng, là những ngƣời yếu thế trong xã hội, họ tham gia hoạt động xã hội rất hạn chế. Khuyết tật là nguyên nhân chính gây ra nhiều khó khăn cho NKT trong việc tham gia các hoạt động xã hội. Những khó khăn càng trở nên trầm trọng hơn do thái độ tiêu cực của cộng đồng đối với NKT. Trong cộng đồng nhiều ngƣời có suy nghĩ coi NKT là “đáng thƣơng”, không có cuộc sống “bình thƣờng”, là “gánh nặng” của xã hội - Về nhận thức pháp luật:NKT là đối tƣợng chịu sự kỳ thị, phân biệt đối xử từ xã hội. Nguyên nhân do nhiều ngƣời không hề biết đến quy định của pháp luật về ngƣời khuyết tật. Sự kỳ thị, phân biệt đối xử diễn ra ở nhiều lĩnh vực: Gia đình, nơi làm việc, giáo dục, hôn nhân gia đình, tham gia hoạt động xã hội, thậm chí xuất phát từ chính bản thân NKT. - Dưới góc độ kinh tế - xã hội: NKT là nhóm cƣ dân đặc biệt phải chịu thiệt thòi về mặt kinh tế - xã hội. Những gia đình có NKT hoặc là thiếu nhân lực lao động hoặc có rất nhiều ngƣời sống phụ thuộc. Học vấn của các thành viên trong những gia đình ngƣời khuyết tật thƣờng không cao. Nhiều chủ hộ 12
  22. gia đình chính là ngƣời khuyết tật và sức khỏe yếu. Tài sản của gia đình ngƣời khuyết tật thƣờng nghèo nàn, thu nhập ở mức thấp. Bởi vậy, điều kiện sống và sinh hoạt không tốt, ảnh hƣởng xấu đến cuộc sống, sức khỏe, phúc lợi của các thành viên trong gia đình. Ngoài ra, với những đối tƣợng ngƣời khuyết tật từ 15 tuổi trở lên rất khó có việc làm, hầu hết hoặc chƣa bao giờ đi làm hoặc đã từng đi làm nhƣng gặp phải tình trạng tái thất nghiệp. Khuyết tật là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thất nghiệp của họ. Mặt khác, vì tình trạng do khuyết tật gây ra, ngƣời khuyết tật phải gánh chịu rất nhiều thiệt thòi trong mọi mặt cuộc sống: Khuyết tật là nguyên nhân chính gây ra nhiều khó khăn cho ngƣời khuyết tật trong việc thực hiện các công việc sinh hoạt hàng ngày, trong giáo dục, việc làm, tiếp cận các dịch vụ y tế, kết hôn, sinh con cũng nhƣ tham gia các hoạt động xã hội. 1.1.1.3. Các dạng khuyết tật, mức độ khuyết tật Việc phân loại NKT dựa trên quy định về dạng tật và mức độ khuyết tật đƣợc quy định cụ thể tại Điều 2, 3 Luật Ngƣời khuyết tật năm 2010 và Nghị định số 28/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật ngƣời khuyết tật. a) Dạng khuyết tật Các dạng tật bao gồm: Khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác. Mỗi loại khuyết tật này có những đặc điểm nhất định về tâm, sinh lý. Qua đó tác động đến các nhu cầu và sự hòa nhập của ngƣời khuyết tật. Tiêu biểu là: - Khuyết tật vận động: Là những ngƣời có cơ quan vận động bị tổn thƣơng, biểu hiện dễ nhận thấy là có khó khăn trong ngồi, nằm, di chuyển, cầm, nắm Do đó, ngƣời khuyết tật vận động gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá nhân, vui chơi, học tập và lao động. Tuy nhiên, đa số ngƣời khuyết tật vận động có bộ não phát triển bình thƣờng nên họ tiếp thu đƣợc 13
  23. chƣơng trình học tập, làm đƣợc việc có ích cho gia đình, bản thân và xã hội. NKT về vận động cần đƣợc sự hỗ trợ về phƣơng tiện đi lại (xe lăn, gậy chống ) và đặc biệt là không gian cần thiết, thuận tiện, phù hợp để di chuyển khi làm việc, đảm bảo các nhu cầu cuộc sống bình thƣờng của con ngƣời và tham gia các hoạt động xã hội. - Khuyết tật nghe, nói (khuyết tật ngôn ngữ): Là ngƣời có khó khăn đáng kể về nghe, nói, đọc, viết làm ảnh hƣởng tiêu cực đến quá trình giao tiếp và học tập. Khó khăn về nói, nghe, đọc của ngƣời khuyết tật ngôn ngữ ảnh hƣởng trực tiếp đến giao tiếp từ đó làm hạn chế sự làm việc, học tập, hòa nhập cộng đồng của họ. Điều này làm họ dễ cảm thấy mất tự chủ, thiếu tự tin trong giao tiếp với ngƣời xung quanh - nếu nhƣ khiếm khuyết của họ thay vì nhận đƣợc sự cảm thông lại vấp phải thái độ giễu cợt hoặc thiếu kiên nhẫn của ngƣời nghe. - Khuyết tật nhìn (khuyết tật thị giác, khiếm thị): Là những ngƣời có tật về mắt nhƣ: hỏng mắt, không đủ sức nhận biết thế giới hữu hình bằng mắt hoặc nhìn thấy không rõ ràng. Tổ chức y tế thế giới (1992) còn đƣa ra các khái niệm để phân biệt mức độ khuyết tật nhìn khác nhau: Khiếm thị, nhìn kém, mù (hoàn toàn) [7]. Ngƣời khuyết tật nhìn có trí tuệ phát triển bình thƣờng, có hai cơ quan phân tích thƣờng rất phát triển: thính giác và xúc giác, nếu đƣợc huấn luyện sớm và khoa học hoàn toàn có thể thay thế cơ quan thị giác bị phá hủy. Ngôn ngữ, tƣ duy, hành vi, cách ứng xử của những ngƣời này cũng giống ngƣời bình thƣờng Tuy nhiên, cũng có những tồn tại nhất định nhƣ ngôn ngữ thiếu hình ảnh, không thể viết và đọc bằng chữ phẳng. Ít di chuyển nên thể lực giảm sút, cơ bắp thiếu linh hoạt nên dễ tự ty và thiếu niềm tin ở bản thân. Môi trƣờng cần thiết với họ là tránh tiếng ồn, đảm bảo đủ ánh sáng, dùng những màu tƣơng phản, hợp lý trong sinh hoạt và các hoạt động khác, cung cấp thiết bị phóng đại hình ảnh, công cụ di chuyển hỗ trợ thông minh, lối đi thuận tiện và dễ nhận biết 14
  24. - Khuyết tật trí tuệ: Xét về mức độ, đây là nhóm khuyết tật thƣờng chịu nhiều sự thiệt thòi và khó khăn trong cuộc sống. Theo DSM-IV (Sổ tay chẩn đoán và thống kê những rối nhiễu tâm thần IV của Ủy ban đặc trách xuất bản của Hội tâm thần Hoa Kỳ) thì khuyết tật về trí tuệ đƣợc xác định khi: i/chức năng trí tuệ dƣới mức trung bình (chỉ số thông minh đạt gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân; ii/ bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số những hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kỹ năng xã hội/cá nhân, sử dụng các tiện ích trong cộng đồng, tự định hƣớng, kỹ năng học đƣờng, làm việc, giải trí, sức khỏe và an toàn; iii/tật xuất hiện trƣớc 18 tuổi. Ngƣời khuyết tật về trí tuệ có nhiều hạn chế làm ảnh hƣởng đến cuộc sống bình thƣờng của họ và ngƣời thân cả về trí tuệ (phần lớn chỉ dùng ở mức độ tƣ duy trực quan cụ thể, mức độ, nhịp độ tƣ duy của các thành phần không giống nhau); về trí nhớ (gặp khó khăn về trí nhớ cả ngắn hạn và dài hạn, khó khăn trong việc nhớ những gì mang tính trìu tƣợng hay có quan hệ logic, dễ quên những gì gần gũi với cuộc sống và không gắn với nhu cầu bản thân); về chú ý (phần đông ngƣời khuyết tật có khó khăn khi phải tập trung và duy trì sự chú ý vào một công việc nào đó, đặc biệt là chú ý đến lời nói. Do duy trì chú ý kém nên việc tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin của ngƣời khuyết tật thƣờng gặp khó khăn); về kỹ năng giao tiếp xã hội (đa phần ngƣời khuyết tật trí tuệ yếu kém về các kỹ năng xã hội, rất ít thậm chí không có nhu cầu giao tiếp); cuối cùng là về hành vi (ngƣời khuyết tật trí tuệ thƣờng có những hành vi làm cho họ khó hòa nhập: hành vi tự lạm dụng, quá hiếu động, quá ù lì ) [52]. - Khiếm thính: Theo quan điểm y tế (lâm sàng) thì ngƣời khiếm thính là những ngƣời bị mất hoặc suy giảm về sức nghe kéo theo những hạn chế về phát triển ngôn ngữ nói cũng nhƣ khả năng giao tiếp [26]. Đặc điểm của những ngƣời khó khăn về nghe (khiếm thính) là những ngƣời bị phá hủy cơ 15