Luận văn Nghĩa vụ của người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nghĩa vụ của người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_nghia_vu_cua_nguoi_quan_ly_trong_cong_ty_trach_nhie.pdf
Nội dung text: Luận văn Nghĩa vụ của người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN THỊ THU NHÀI NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ TRONG CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Hà Nội – 2014
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN THỊ THU NHÀI NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ TRONG CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh Hà Nội – 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phan Thị Thu Nhài
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ TRONG CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN 8 1.1. Khái niệm người quản lý trong công ty TNHH một thành viên 8 1.1.1. Định nghĩa người quản lý trong công ty TNHH một thành viên 8 1.1.2. Cơ chế chỉ định, bổ nhiệm người quản lý trong công ty TNHH một thành viên 11 1.1.3. Quy chế pháp lý về người quản lý trong công ty TNHH một thành viên 14 1.2. Nghĩa vụ và trách nhiệm của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên. 26 1.3. Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên của một số Quốc gia trên Thế giới. 30 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ TRONG CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 35 2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam hiện nay. 35 2.1.1. Nhóm nghĩa vụ chung của người quản lý công ty TNHH một thành viên theo quy định của pháp luật hiện hành. 35 2.1.2. Một số nghĩa vụ quy định riêng của những người quản lý công ty TNHH một thành viên theo pháp luật hiện hành. 44
- 2.1.3. Những bất cập trong quy định pháp luật về nghĩa vụ người quản lý trong công ty TNHH một thành viên. 53 2.2. Thực trạng việc thực thi nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam hiện nay. 59 2.2.1. Một số vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên. 59 2.2.2. Những sai phạm thường gặp trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên. 62 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ TRONG CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN 74 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật quy định về nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên 74 3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện hiệu quả pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên. 76 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ người quản lý công ty TNHH một thành viên. 76 3.2.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện hiệu quả pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý công ty. 87 KẾT LUẬN 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
- DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT TNHH : Trách nhiệm hữu hạn CT : Công ty CTCP : Công ty cổ phần DN : Doanh nghiệp DNNN : Doanh nghiệp nhà nước GĐ : Giám đốc TGĐ : Tổng Giám Đốc LDN : Luật Doanh nghiệp OECD : Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
- DANH MỤC CÁC HỘP TT Nội dung Trang Hộp 2.1 Vi phạm của công ty TNHH một thành viên cấp 64 nước Thanh Hóa Hộp 2.2 Sai phạm của bốn công ty thuộc khối công ích 66 Hộp 2.3 Vụ án Vietnam Airlines tại tòa án Rome (Italia) 70
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công ty TNHH môt thành viên là một trong những loại hình doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, góp phần làm sinh động thêm môi trường kinh doanh, đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp, huy động thêm nhiều nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế, tăng thêm sự lựa chọn cho các nhà đầu tư nhằm nâng cao tính cạnh tranh, năng động của các thành phần kinh tế. Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiêp. Với những quy định thông thoáng, Luật doanh nghiệp đã khích lệ và hâm nóng được tinh thần đầu tư, kinh doanh của người dân và giới doanh nhân, lần đầu tiên cho phép một cá nhân cũng có thể lựa chọn thành lập loại hình công ty TNHH một thành viên thay vì quy định chỉ cho tổ chức (pháp nhân) được thành lập loại hình doanh nghiệp này như Luật doanh nghiệp 1999. Tuy nhiên, với gần 10 năm Luật doanh nghiệp đi vào cuộc sống, bên cạnh những ưu điểm mà Luật này mang lại vẫn còn xuất hiện nhiều vướng mắc trong đó có những quy định về quản trị nội bộ công ty TNHH một thành viên, nhất là đối với những Doanh nghiệp Nhà nước khi được chuyển đổi sang hoạt động theo loại hình doanh nghiệp này. Theo quy định của Luât doanh nghiệp vào ngày 01/7/2010 là thời hạn chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước kết thúc, trong đó các Doanh nghiệp Nhà nước nếu không tiến hành cổ phần hóa thì phải chuyển đổi sang loại hình công ty TNHH một thành viên hoặc hai thành viên. Khi đó Nhà nước là một chủ sở hữu vô hình của các công ty TNHH một thành viên, còn tài sản của Nhà nước lại được giao cho một số ít người quản lý trong bối cảnh pháp luật còn nhiều lỗ hổng để cho những người quản lý đó xâm hại đến tài sản của Nhà nước. 1
- Thực tế thời gian qua những tranh chấp trong quản lý nội bộ công ty TNHH một thành viên, cũng như những sai phạm của người quản lý điều hành công ty diễn ra cũng không ít như: Tổng giám đốc lạm dụng quyền lực để tư lợi riêng, những hành vi gian lận, lừa đảo của nhóm người điều hành công ty đối với chủ sở hữu công ty, những giao dịch liên kết giữa người quản lý với công ty nhằm trộm cắp tài sản công ty, những người quản lý cao cấp tham nhũng những khoản tiền khổng lồ Cho đến nay, thực trạng này vẫn còn xuất hiện khá nhiều và phổ biến. Những vấn đề nêu trên có thể ảnh hưởng rất lớn tới sự lành mạnh hoá quản lý nội bộ của công ty, gây thất thoát tài sản của ngân sách Nhà nước đối với những công ty TNHH một thành viên mà chủ sở hữu là Nhà nước, đồng thời tác động không tốt đến môi trường kinh doanh. Trong kinh doanh, gây dựng được niềm tin của Nhà đầu tư là điều rất khó nhất là trong giai đoạn hiện nay khi sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên khốc liệt. Một loạt các công ty lớn trên thế giới đã bị phá sản hay ở Việt Nam là sự sụp đổ của một số các tập đoàn lớn như Vinashins, Vinalines đặt ra nhiều vấn đề về quản lý điều hành trong công ty. Thiếu vắng một cơ chế quản lý, điều hành công ty tốt quyền lợi của chủ sở hữu và các Nhà đầu tư không được bảo vệ, những người có tiền sẽ ngại ngần khi đầu tư vào các công ty, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của công ty. Sự thành bại của một doanh nghiệp chịu tác động rât lớn của những người “lèo lái” công ty. Do vậy người nắm quyền quản lý điều hành trong công ty có vị trí quan trọng trong đối với sự tồn tại và phát triển của công ty, chỉ khi họ thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình thì mới đem lại lợi ích cho chủ sở hữu và chính công ty. Điều này đòi hỏi người quản lý phải ý thức được cơ sở đạo đức căn bản là coi sóc tài sản của người khác như coi sóc tài sản của chính bản thân mình. Việc xa rời nền tảng đạo đức này rất khó giúp cho người quản lý công ty tránh khỏi những vi phạm nghĩa vụ bởi kinh doanh 2
- là một hoạt động phức tạp trong khi các nghĩa vụ nêu trên đều là các nghĩa vụ xuất phát từ nền tảng đạo đức, rất mơ hồ về các dấu hiệu pháp lý và phụ thuộc nhiều vào sự giải thích trong các trường hợp cụ thể [9, tr191]. Kiểm soát những giao dịch tư lợi cũng như vấn đề minh bạch thông tin của người quản lý có tác động rất lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, những quy định của Luật doanh nghiệp hiện nay lại chưa chú trọng đến vấn đề kiểm soát nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên, một số quy định còn thiếu chặt chẽ và rõ ràng, dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất, tạo ra nhiều kẽ hở để một số người quản lý điều hành công ty lạm dụng, gây thất thoát tài sản của Nhà nước. Do đó, những quy định về quản lý nội bộ công ty TNHH một thành viên trong đó có quy định về nghĩa vụ và kiểm soát các giao dịch tư lợi của những người quản lý công ty cần phải được nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới. Để những người quản lý điều hành công ty thực sự là những người mẫn cán, trung thực và trung thành với lợi ích của chủ sở hữu công ty. Với sự cần thiết đó tác giả đã quyết đinh chon đề tài “Nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình góp phần giải quyết vấn đề vừa mang tính thời sự, vừa mang tính khoa học và thực tiễn nêu trên. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề pháp lý liên quan đến quy định nghĩa vụ người quản lý trong Công ty TNHH một thành viên, (đặc biệt chú trọng vào các công ty TNHH một thành viên là tổ chức), về tình hình thực hiện những nghĩa vụ của người quản lý điều hành trong công ty. 3
- Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn là toàn bộ các quy định của pháp luật hiện hành về nghĩa vụ người quản lý trong công ty TNHH một thành viên. Phân tích những tình huống thực tiễn gắn liền với việc thực hiện nghĩa vụ của những người giữ vai trò điều hành công ty. Thực trạng của việc thực hiện nghĩa vụ người quản lý, việc kiểm soát các giao dịch tư lợi của những người đứng đầu công ty, cũng như các chế tài được áp dụng đối với những hành vi vi phạm nghĩa vụ người quản lý trong công ty TNHH một thành viên. Những biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao vai trò trách nhiệm người quản lý trong công ty TNHH một thành viên. 3. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu giá trị đi sâu tìm hiểu về Công ty TNHH một thành viên như: Luận văn thạc sỹ “ Chế độ pháp lý về quản lý nội bộ của công ty TNHH theo Luật doanh nghiệp” của tác giả Lương Thị Thu Hà; hay luận văn viết về việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên như Luân văn thạc sỹ “ Pháp luật về chuyển đổi DNNN thành công ty TNHH một thành viên” của tác giả Nguyễn Thị Huế. Ngoài ra vấn đề quy định về người quản lý công ty cũng đã được đề cập trong một số giáo trình và sách tham khảo của các trường đại học như: Giáo trình Luật Thương mại – Phần chung và thương nhân của PGS.TS Ngô Huy Cương, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội; Chuyên khảo Luật kinh tế của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu này chỉ đi sâu tìm hiểu về quản trị nội bộ trong Công ty TNHH một thành viên hay vấn đề chuyển đổi từ DNNN sang hoạt động theo loại hình này. Trong đó cũng có đề cập đến nghĩa vụ của người quản lý, điều hành nhưng chưa có công trình nghiên cứu chính thức nào đi sâu tìm hiểu một cách cặn kẽ về nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên để có cái 4
- nhìn khái quát về tình hình thực hiện nghĩa vụ của những người này đặc biệt là đối với trường hợp công ty TNHH một thành viên mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nghĩa vụ của người quản lý trong Công ty TNHH một thành viên; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý trong Công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam hiện nay; để từ đó đề xuất các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý trong Công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam trong thời gian tới. Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nghĩa vụ của người quản lý trong Công ty TNHH một thành viên; - Nghiên cứu so sánh về nghĩa vụ của người quản lý trong Công ty TNHH một thành viên trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý trong Công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam hiện nay; - Đề xuất các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý trong Công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam trong thời gian tới. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài của Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật, đường lối, quan 5
- điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập. Đồng thời, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp luật so sánh để làm rõ các vấn đề liên quan đến quy định về nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên. Để từ đó đề xuất những kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. 6. Những đóng góp của Luận văn Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu các quy định pháp lý về nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên. Về mặt lý luận, Luận văn đưa ra cái nhìn tổng quan về người quản lý, địa vị pháp lý của họ trong công ty. Trên cơ sở phân tích, tổng hợp quy định pháp luật điều chỉnh và thực tiễn áp dụng pháp luật quy định về nghĩa vụ của người quản lý công ty, Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề phù hợp và chưa phù hợp trong quy định của pháp luật hiện hành về nghĩa vụ người quản lý trong công ty TNHH một thành viên. Qua đó có những giải pháp để góp phần hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp, giúp cho việc quản trị công ty minh bạch, hiệu quả, bảo vệ được quyền lợi của chủ sở hữu, nhà đầu tư và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. 7. Kết cấu Luận văn Ngoài lời nói đầu, phần kết luận, Luận văn được kết cấu bởi 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về người quản lý và nghĩa vụ của người quản lý trong Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên. 6
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý trong Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý trong Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên. 7
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ TRONG CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN 1.1. Khái niệm người quản lý trong công ty TNHH một thành viên 1.1.1. Định nghĩa người quản lý trong công ty TNHH một thành viên Bất cứ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển đều cần phải chú trọng đến vấn đề quản trị nội bộ công ty. Một trong những vấn đề quan trọng liên quan đến quản trị công ty đó là thiết lập bộ máy tổ chức quản lý điều hành công ty. Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên cũng không phải là một ngoại lệ. Đây là một loại hình doanh nghiệp tương đối đặc biệt, chỉ có duy nhất một chủ sở hữu và chủ sở hữu công ty có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Do vậy mô hình quản trị công ty tùy thuộc vào đối tượng thành lập công ty là ai và ai sẽ là người chịu trách nhiệm “lèo lái” công ty? Bởi lẽ công ty là một thực thể pháp lý độc lập, mọi hoạt động của công ty phải thực hiện thông qua người đại diện. Xác định đúng ai là người quản lý công ty và quy định hợp lý các nghĩa vụ pháp lý phát sinh cho họ sẽ góp phần cho việc quản trị công ty có hiệu quả, kiểm soát các giao dịch tư lợi nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu cũng như các bên có liên quan khác như người lao động trong công ty, chủ nợ, khách hàng của công ty Trong Luật doanh nghiệp 2005, người quản lý doanh nghiệp được quy định tại Khoản 13 Điều 4 như sau: “ Người quản lý là chủ sở hữu, Giám đốc doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh công ty Hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc 8
- hoặc Tổng giám đốc và các chức danh quản lý khác do Điều lệ công ty quy định”. Theo cách tiếp cận của Luật doanh nghiệp 2005 thì người quản lý trong công ty TNHH một thành viên gồm có: “ Chủ tich Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các chức danh quản lý khác do điều lệ công ty quy định”. Công ty TNHH một thành viên có đặc trưng là Chủ sở hữu công ty có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Nên việc xác định người quản lý trong công ty này còn tùy thuộc vào đối tượng thành lập công ty. Trường hợp Chủ sở hữu công ty là một tổ chức (pháp nhân) thì tổ chức này sẽ ủy quyền cho một hoặc một số người đại diện cho tổ chức để thực hiện việc quản lý công ty. Người quản lý sẽ là Chủ tịch Hội đồng thành viên nếu có ít nhất từ 2 người trở lên được cử làm đại diện cho chủ sở hữu, hoặc là Chủ tịch công ty nếu chỉ có một người được ủy quyền đại diện cho chủ sở hữu công ty. Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty sẽ bổ nhiệm hoặc thuê Giám đốc (Tổng giám đốc) để điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Những người giữ các chức danh quản lý trên được coi là người quản lý trong công ty. Đối với trường hợp chủ sở hữu công ty là cá nhân thì người quản lý là Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty, chủ sở hữu công ty lúc này đồng thời là Chủ tịch công ty. Do vậy đối với trường hợp này thì chủ sở hữu cũng sẽ tham gia với tư cách là người quản lý trong công ty. Trong phạm vi đề tài này, tác giả sẽ chỉ đi sâu đề cập đến những người quản lý trong công ty TNHH một thành viên là tổ chức. Như vậy theo quy định tại Khoản 13 Điều 4, người quản lý công ty được xác định theo hình thức liệt kê một loạt các chức danh luật định và theo hướng mở đó là xác đinh người quản lý công ty còn bao gồm “ các chức danh quản lý khác do điều lệ công ty quy định”. Trong công ty có thể có các chức 9
- danh quản lý khác như Phó giám đốc ( Phó tổng giám đốc), trưởng văn phòng đại diện, quản đốc Những người này thường được coi là người quản lý doanh nghiệp theo điều lệ công ty. Từ đây có thể thấy Luật doanh nghiệp 2005 xác định người quản lý công ty theo chức danh. Hiện nay, không hiếm các đối tượng quản lý là Phó Tổng giám đốc, trưởng phòng kinh doanh, kế toán trưởng lợi dụng quyền hạn của mình để tư lợi, gây thiệt hại lớn cho công ty. Do vậy cần có cách nhìn khái quát hơn về người quản lý trong công ty, để từ đó có những quy định phù hợp hơn tránh bỏ xót những đối tượng này. Trong bản dự thảo sửa đổi Luật doanh nghiệp năm 2005 có quy định về người quản lý như sau: “ Người quản lý doanh nghiệp là người quản lý công ty và người quản lý doanh nghiệp tư nhân, bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty”. Như vậy người quản lý trong công ty TNHH một thành viên bao gồm: Chủ tịch HĐTV, thành viên HĐTV, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. Với quy định này có thể thấy khi xác định người quản lý vẫn theo hướng liệt kê một loạt các chức danh theo luật định và theo hướng mở. Đối với công ty TNHH một thành viên có quy định thêm thành viên HĐTV cũng được coi là người quản lý trong công ty thay vì trước đây chỉ có chủ tịch HĐTV là người 10
- quản lý công ty. Tuy nhiên, định nghĩa về người quản lý này vẫn chưa thực sự đầy đủ, rõ ràng. Luật công ty của các nước theo hệ thống Common Law như Newzealand, Canada, Singapo, Australia xác định rất rõ ai là người quản lý công ty và việc xác định dựa trên nguyên tắc: (i) là thành viên Ban giám đốc; (ii) Giữ vị trí hoặc thực hiện vai trò trong vị trí của Giám đốc; (iii) Người đưa ra các chỉ đạo để giám đốc làm theo. Như vậy khái niệm Giám đốc, người quản lý công ty được hiểu khá rộng và bao gồm cả những người không được chỉ định chính thức làm người quản lý công ty. Trong hoạt động xét xử, các Tòa án xác định ai là người quản lý công ty theo chức năng, công việc mà người đó làm chứ không phải chỉ theo chức danh. Vì thế một người không được bổ nhiệm chính thức làm Giám đốc vẫn có thể bị Tòa án coi là Giám đốc và phải chịu trách nhiệm như Giám đốc. Đấy là điểm khác biệt với phương pháp xác định người quản lý công ty của Luật doanh nghiệp nước ta[15]. Luật doanh nghiệp năm 2005 chưa định nghĩa một cách đầy đủ về người quản lý mà chỉ đưa ra như có tính chất liệt kê những người nào được gọi là người quản lý trong doanh nghiệp nói chung cũng như trong công ty TNHH 1 thành viên nói riêng. Theo quan điểm của chúng tôi, người quản lý trong Doanh nghiệp nói chung và công ty TNHH một thành viên nói riêng được hiểu là những nguời do chủ sở hữu chỉ định, bổ nhiệm hoặc đi thuê, để quản lý điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà những quyết định của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của chủ sở hữu, của công ty, chủ nợ và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến công ty. 1.1.2. Cơ chế chỉ định, bổ nhiệm người quản lý trong công ty TNHH một thành viên 11
- Hội đồng thành viên và Chủ tịch Hội đồng thành viên Đối với những công ty TNHH một thành viên mà chủ sở hữu duy nhất của công ty là tổ chức (pháp nhân). Xuất phát từ bản chất pháp nhân vốn là một thực thế pháp lý độc lập, mọi hoạt động của pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện. Do vậy chủ sở hữu công ty bổ nhiệm một hoặc một số người đại diện theo ủy quyền để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp có ít nhất hai người được bổ nhiệm làm đại diện theo ủy quyền thì cơ cấu tổ chức quản lý của công ty gồm: Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc (Tổng giám đốc) và Kiểm soát viên. Như vậy, chủ sở hữu công ty có quyền quyết định áp dụng cơ cấu tổ chức theo mô hình hội đồng thành viên. Hội đồng thành viên bao gồm tất cả những người được chủ sở hữu công ty bổ nhiệm đại diện theo ủy quyền. Số lượng thành viên HĐTV do chủ sở hữu công ty quyết định. Đối với công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu có quy định: “Hội đồng thành viên có các thành viên chuyên trách và không chuyên trách. Số lượng thành viên không quá 5 người. Trường hợp đặc biệt cần nhiều hơn 5 thành viên Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, chấp thuận” (Khoản 3, Điều 15, Nghị định 19/2014 Ban hành Điều lệ mẫu của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu). Trong công ty TNHH một thành viên Chủ tịch Hội đồng thành viên do chủ sở hữu công ty chỉ định trong số thành viên Hội đồng thành viên. Quy định này khác với công ty TNHH hai thành viên trở lên, đó là Chủ tịch Hội đồng thành viên trong công ty TNHH hai thành viên trở lên được lựa chọn bầu ra trong số các thành viên của Hội đồng thành viên. Nghĩa là chức danh 12
- Chủ tịch Hội đồng thành viên trong công ty TNHH một thành viên do chủ sở hữu công ty toàn quyền quyết định. Chủ tịch công ty. Như đã nói ở phần trên, chủ sở hữu công ty là tổ chức có toàn quyền quyết định áp dụng cơ cấu tổ chức theo mô hình Hội đồng thành viên hay mô hình Chủ tịch công ty. Đối với trường hợp chủ sở hữu công ty là một tổ chức (pháp nhân) chỉ bổ nhiệm một người làm đại diện theo ủy quyền thì người đó làm Chủ tịch công ty. Nghĩa là Chủ tịch công ty do chủ sở hữu công ty bổ nhiệm. Còn trường hợp chủ sở hữu công ty là một cá nhân thì chủ sở hữu công ty đồng thời là Chủ tịch công ty. Trong trường hợp này chủ sở hữu sẽ đóng vai trò là người trực tiếp quản lý công ty, nhưng mọi hoạt động nhân danh công ty của chủ sở hữu phải tách bạch với những chi tiêu cá nhân của họ. Nhiệm kỳ hoạt động của chủ sở hữu không quá 05 năm, có thể được bổ nhiệm lại hoặc thay thế. Chủ tịch công ty có thể kiêm Tổng giám đốc công ty. Điều lệ công ty quy định Chủ tịch công ty hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty. Giám đốc ( Tổng giám đốc) và những người quản lý khác. Trong pháp luật của một số nước, Giám đốc (Tổng giám đốc) là một chức danh do điều lệ công ty quy định, là cơ quan trợ giúp điều hành hoạt động trong công ty. Ở các nước này, Giám đốc (Tổng giám đốc) có địa vị pháp lý như người giúp việc quản lý kinh doanh của một thương nhân. Họ tham gia vào công ty với tư cách là người làm thuê, thông qua một hợp đồng lao động. Nhìn chung đa số các nước trên thế giới đều nhận định rằng Giám đốc (Tổng giám đốc) công ty không phải là người chủ, cũng không phải là 13
- người làm thuê thông thường, mà họ là người có quyền chỉ huy điều khiển, và có vị trí cao trong công ty. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 thì Giám đốc (Tổng giám đốc) là người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty do Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty bổ nhiệm hoặc thuê với nhiệm kỳ không quá năm năm. Giám đốc (Tổng giám đốc) chịu trách nhiệm trước pháp luật và Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ của mình. Như vậy, đối với chức danh Giám đốc (Tổng giám đốc) có thể do Hội đồng thành viên bổ nhiệm trong số các thành viên của HĐTV, hoặc thuê người khác làm Giám đốc (Tổng giám đốc). Chủ tịch công ty có thể kiêm nhiệm hoặc thuê người khác làm Giám đốc (Tổng giám đốc). Ngoài những chức danh đã nêu ở trên như Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc (Tổng giám đốc), trong công ty còn có các chức danh quản lý khác do Điều lệ công ty quy định. Điều này tạo ra hướng mở cho cách hiểu những người quản lý trong công ty, theo đó, người quản lý công ty có thể gồm các Phó tổng giám đốc, trưởng phòng theo quy định của Điều lệ công ty. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, Giám đốc (Tổng giám đốc) có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty (Điểm đ, khoản 2, Điều 70 LDN 2005). 1.1.3. Quy chế pháp lý về người quản lý trong công ty TNHH một thành viên 14
- Tiêu chuẩn, điều kiện của người quản lý công ty TNHH một thành viên Người quản lý doanh nghiệp nói chung và công ty TNHH một thành viên nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của công ty, bởi lẽ sự thành bại của một doanh nghiệp không thể thiếu được vai trò lãnh đạo của họ. Nhưng để “lèo lái” được công ty đòi hỏi những người quản lý phải có những phẩm chất, kỹ năng cần có của một nhà quản lý hiện đại. Việc lựa chọn người quản lý phù hợp cho doanh nghiệp là rất quan trong, về cơ bản phải dựa trên những tiêu chuẩn nền tảng như: Năng lực quản lý, phẩm chất đạo đức, các vấn đề về nhân thân Để đánh giá năng lực quản lý của những người đứng đầu doanh nghiệp thông thường chúng ta dựa trên các yếu tố: Một là phải căn cứ vào trình độ, kỹ năng chuyên môn cụ thể về nghề nghiệp. Hai là phải có sự am hiểu về doanh nghiệp, ngành, các hoạt động liên quan cũng như các kiến thức về pháp lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội Nhìn chung họ phải có kỹ năng về hoạch định, tổ chức và điều hành doanh nghiệp, cũng như đưa ra các dự báo về khó khăn, trở ngại, biến động của môi trường kinh doanh một cách kịp thời để đưa ra hướng phát triển cho doanh nghiệp. Một tiêu chí quan trọng nữa để lựa chọn người quản lý doanh nghiệp đó là yếu tố đạo đức. Người quản lý phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, mẫn cán với hoạt động của công ty nhằm đem lại lợi ích tốt nhất cho công ty, chủ sở hữu cũng như những người có quyền lợi liên quan đến doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ lý do những người quản lý công ty là những người biết rõ nhất mọi hoạt động của công ty. Do vậy rất cần những nhà quản lý thiện tâm, trung thành với lợi ích của công ty. 15
- Bên cạnh đó khi xét đến vấn đề nhân thân yêu cầu người quản lý phải có đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối tượng bị cấm quản lý kinh doanh, có nhân thân tốt. Dựa trên những tiêu chí nền tảng trên Luật doanh nghiệp đã có những quy định về tiêu chuẩn, điều kiện đối với những người quản lý trong công ty TNHH một thành viên như sau: * Hội đồng thành viên và Chủ tịch Hội đồng thành viên Đối với những công ty TNHH một thành viên tổ chức theo mô hình Hội đồng thành viên, khi chủ sở hữu công ty bổ nhiệm người đại diện theo ủy quyền phải dựa trên các tiêu chuẩn và điều kiện sau: Đủ năng lực hành vi dân sự; Không thuộc đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp; Có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh hoặc trong ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công ty; Đối với công ty con của công ty có phần vốn góp hay cổ phần sở hữu nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ thì vợ hoặc chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của người quản lý và của người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý công ty mẹ không được cử làm người đại diện theo ủy quyền tại công ty con. (Khoản 2, Điều 48 LDN 2005) Trường hợp công ty TNHH một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ thì thành viên Hội đồng thành viên phải thỏa mãn những tiêu chuẩn và điều kiện: thường trú tại Việt Nam. Chủ tịch Hội đồng thành viên phải là công dân Việt Nam; tốt nghiệp đại học, có năng lực kinh doanh và quản lý doanh nghiệp. Chủ tịch Hội đồng thành viên phải có kinh nghiệm ít nhất 03 năm làm công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp thuộc ngành, nghề kinh doanh chính hoặc ngành nghề có liên quan đến ngành kinh doanh chính 16
- của công ty; có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, liêm khiết, hiểu biết pháp luật và có ý thức chấp hành pháp luật; không đồng thời là cán bộ trong bộ máy quản lý Nhà nước hoặc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc các chức vụ quản lý, điều hành tại các doanh nghiệp thành viên; không thuộc đối tượng bị cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý điều hành doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; không là Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên (Chủ tịch công ty), Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) đã từng bị miễn nhiệm trước thời hạn tại công ty hoặc ở doanh nghiệp nhà nước khác trong những trường hợp quy định tại Điểm a, Điểm c và Điểm đ Khoản 1 Điều 18 Điều lệ này; các tiêu chuẩn khác theo quy định của pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu và các tiêu chuẩn khác theo ngành, lĩnh vực kinh doanh chính của công ty (nếu có)[6, điều 17]. Trong công ty TNHH một thành viên Chủ tịch Hội đồng thành viên do chủ sở hữu công ty chỉ định trong số các thành viên Hội đồng thành viên. Nói cách khác, chức danh Chủ tịch Hội đồng thành viên trong loại hình công ty này do chủ sở hữu công ty toàn quyền quyết định. Chủ tịch HĐTV cũng phải thỏa mãn những tiêu chuẩn của thành viên HĐTV. Đối với Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ được chuyển đổi từ tổng công ty do Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập thì không kiêm Tổng giám đốc; còn đối với những công ty khác thì chủ sở hữu quyết định Chủ tịch hội đồng kiêm hoặc không kiêm Tổng giám đốc. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Tổng giám đốc thì phải đảm bảo các điều kiện: được doanh nghiệp đề nghị kiêm nhiệm và có đơn đề nghị của người dự kiến kiêm nhiệm. Người được đề nghị kiêm nhiệm phải có sức khỏe và đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện đối với cả hai chức danh này. Doanh nghiệp phải quy định cụ thể và tách bạch trong thực thi chức năng, nhiệm vụ, 17