Luận văn Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự (Áp dụng trong thực tiễn tố tụng hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự (Áp dụng trong thực tiễn tố tụng hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_dia_vi_phap_ly_cua_nguoi_bi_hai_trong_to_tung_hinh.pdf
Nội dung text: Luận văn Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự (Áp dụng trong thực tiễn tố tụng hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG HỒNG PHƢƠNG §ÞA VÞ PH¸P Lý CđA NG¦êI BÞ H¹I TRONG Tè TơNG H×NH Sù (¸P DơNG TRONG THùC TIƠN Tè TơNG H×NH Sù TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG HỒNG PHƢƠNG §ÞA VÞ PH¸P Lý CđA NG¦êI BÞ H¹I TRONG Tè TơNG H×NH Sù (¸P DơNG TRONG THùC TIƠN Tè TơNG H×NH Sù TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tơi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tơi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi cĩ thể bảo vệ Luận văn. Tơi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN ĐẶNG HỒNG PHƢƠNG
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 7 1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự 7 1.1.1. Quan niệm về người bị hại – Cơ sở để xác định địa vị pháp lý của người bị hại 7 1.1.2. Vai trò của ngườ i bi ̣haị trong tớ tuṇ g hình sư ̣ 11 1.2. Nơị dung điạ vi p̣ há p lý củ a ngƣời bi ḥ aị trongố ttụng hình sự 15 1.2.1. Quyền của người bị hại 15 1.2.2. Nghĩa vụ của người bị hại 18 1.3. Địa vị pháp lý của ngƣời bi ḥ aị trong Luâṭ tớ tuṇ g hiǹ h sƣ ̣ mơṭ sớ nƣớ c trên thế giới 19 Tiểu kết chƣơng 1 27 Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THƢC̣ TIỄN Á P DUṆ G TRÊN ĐỊ A BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 28 2.1. Các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của ngƣời bị hại 28 2.1.1. Trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 28 2.1.2. Từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến nay 32 2.2. Thực tiêñ á p duṇ g cá c quy điṇ h phá p luâṭ về địa vị pháp lý của ngƣời bị hại trên địa bàn thành phố Hà Nội 51
- 2.2.1. Tình hình xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Ni ộ 51 2.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của người bị hại trên địa bàn thành phớ Hà Nội 55 Tiểu kết chƣơng 2 71 Chƣơng 3: MƠṬ SỚ GIẢI PHÁP BẢ O ĐẢ M THƢC̣ HIÊṆ CÓ HIÊỤ QUẢ CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI BỊ HẠI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 72 3.1. Giải pháp hồn thiện pháp luật 72 3.1.1. Sửa đổi, bổ sung Điều 51 của Bộ luật tố tụng hình sự 72 3.1.2. Bổ sung quy định Điều 217 của Bộ luật tố tụng hình sự về việc trình bày lời buộc tội của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ tại phiên tịa 75 3.1.3. Bổ sung quy định tại Điều 191 của Bộ luật tố tụng hình sự về đảm bảo sự cĩ mặt của người bị hại tại phiên tịa 79 3.2. Các giải pháp khác 80 3.2.1. Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tịa 80 3.2.2. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng 83 3.2.3. Nâng cao chất lượng của đội ngũ Luật sư 86 3.2.4. Thực hiện tốt sự phân cơng, chỉ đạo, phối hợp trong giải quyết án hình sự 87 3.2.5. Hồn thiện mơ hình tố tụng hình sự Việt Nam theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tiến hành tố tụng 88 Tiểu kết chƣơng 3 90 KẾT LUẬN 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93 PHỤ LỤC 99
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX Hội đồng xét xử KSV Kiểm sát viên TAND Tịa án nhân dân TNHS Trách nhiệm hình sự TTHS Tố tụng hình sự VKS Viện kiểm sát XHCN Xã hội chủ nghĩa
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua ngày 28 tháng 6 năm 1988 (cĩ hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 1989), là một đạo luật quy định về trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các vụ án hình sự. Tuy nhiên, sau 15 năm thực hiện, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã bộc lộ những bất cập, hạn chế, thiếu sĩt từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Một trong những hạn chế dẫn đến tình trạng trên là việc Bộ luật quy định về người tham gia tố tụng, đặc biệt là các quy định về người bị hại cịn tương đối sơ sài và chưa đầy đủ. Thể chế hố chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, ngày 17/12/2003, Quốc hội nước ta đã thơng qua Bộ luật tố tụng hình sự năm2003 vớ i nhiều quy điṇ h mớ i so vớ i Bơ ̣luâṭ tố tụng hình sự năm 1988. Bộ luật đã dành chương IV tại phần thứ nhất (Những quy định chung) quy định về người bị hại với tính chất là một loại người tham gia tố tụng đặc biệt trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, dưới gĩc độ khoa học pháp lý vẫn cịn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng trong tố tụng hình sự cần được tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ hơn. Luật tố tụng hình sự nước ta chỉ coi người bị hại là cơng dân. Pháp nhân hay tổ chức xã hội khơng được coi là người bị hại. Thiệt hại mà người bị hại phải chịu là thiệt hại thực tế, nếu thể chất, tinh thần, tài sản của một người chưa bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra thì người đĩ khơng được coi là người bị hại. Xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra chỉ trở thành người bị hại trong tố tụng hình sự khi họ được cơ quan cĩ thẩm quyền cơng nhận là người bị hại thơng qua hành vi triệu tập họ đến khai báo với tư cách là người bị hại. Việc nghiên cứu những vấn đề lý 1
- luận và thực tiễn về người bị hại trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay cũng như thực trạng về người bị hại ở từng địa phương (nhất là địa bàn thành phố Hà Nội) để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tế, gĩp phần xử lý kịp thời, khách quan nhằm bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội là một nhu cầu khách quan và cần thiết. Trước yêu cầu cải cách tư pháp thì các vấn đề đảm bảo quyền dân chủ và nhân quyền, đặc biệt là các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân trong tố tụng hình sự luơn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã tiếp tục xác định: “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, cơng khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp” [5]. Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã khẳng định cụ thể hơn tư tưởng chỉ đạo này. Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự (Áp dụng trong thực tiễn tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội) làm Luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Người bị hại là một loại người tham gia tố tụng được quy định trong luật tố tụng hình sự năm 2003, tại Điều 51. Trong thời gian qua, kể cả trước khi Bộ luật ra đời, ở nước ta đã cĩ nhiều bài viết, cơng trình khoa học nghiên cứu về việc quy định và áp dụng trong tố tụng hình sự như Luận văn thạc sỹ Luật học, các bài viết, cơng trình nghiên cứu phân tích, giải quyết và làm rõ được một số vấn đề lý luận về người bị hại trong tố tụng hình sự như: khái niệm, ý nghĩa, các kiến nghị như Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự 2
- (Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – NXB TP. Hồ Chí Minh, năm 2004), Bàn về việc tịa án cấp phúc thẩm cĩ được thay đổi tư cách của người tham gia tố tụng khi xét thấy Tịa án cấp sơ thẩm xác định khơng đúng, Tạp chí Tịa án nhân dân tối cao số 24/2005, Một số vướng mắc khi giải quyết vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, Tạp chí kiểm sát số 7/2008, Một số vấn đề cần chú ý khi xác định người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, Tạp chí Tồ án nhân dân số 13/2008, Người bị hại trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp lý số 01/2007, Quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng tại phiên tịa hình sự phúc thẩm, Tạp chí Tịa án. Tịa án nhân dân tối cao số 5/2004, Tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự tại phiên tịa phúc thẩm, Tạp chí Tịa án. Tịa án nhân dân tối cao số 4/2008, Việc quy định những người tham gia tố tụng trong Bộ luật tố tụng hình sự, Tập san Tịa án nhân dân số 4/2000, Xác định tư cách người tham gia tố tụng hình sự, Tập san Tịa án số 12/1999 Các bài viết, cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích, giải quyết và làm rõ được một số vấn đề lý luận về chế định quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam như: khái niệm về người bị hại, ý nghĩa của việc tìm hiểu chế định về người bị hại, các kiến nghị về hồn thiện các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bị hại, việc áp dụng quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại Nhưng vẫn cịn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn mà các cơng trình nghiên cứu trên chưa đề cập đầy đủ, phương pháp tiếp cận cịn chưa phù hợp, chưa cĩ nghiên cứu về áp dụng thực tiễn tố tụng hình sự của từng địa phương, đặc biệt là trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội sau khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời. Do hầu hết các cơng trình trên đều đề cập và nghiên cứu vấn đề trước khi Bộ luật ra đời nên việc đánh giá tình hình chưa cĩ cơ sở thực tiễn. Bên cạnh đĩ, Luận văn thạc sỹ Luật học: Người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam - Thịnh Quang Thắng (2010) đã đề cập tương đối đầy đủ các luận 3
- cứ khoa học như: bản chất, ý nghĩa, mục đích của việc nghiên cứu về người bị hại, tham khảo kinh nghiệm nước ngồi. Tuy nhiên, các dẫn chứng số liệu đều được lấy ở một địa bàn nhỏ hẹp là huyện Đơng Anh – một huyện ngoại thành Hà Nội nên việc nghiên cứu đánh giá cịn nhiều hạn chế, chưa làm bật lên những đặc điểm đặc thù của Thủ đơ Hà Nội để đưa ra những giải pháp, kiến nghị cho phù hợp nhằm áp dụng chế định về địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự chặt chẽ và sát với thực tế của Thủ đơ Hà Nội. Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Nguyên Thanh (2012), “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự”, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đi sâu nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự với tư cách là người tham gia tố tụng độc lập . Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự”, Viện khoa học và Xã hội Viêṭ Nam tiếp cận quyền của người bị hại dưới gĩc độ quyền con người, đồng thời nêu ra cơ chế bảo đảm quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự . Tuy nhiên cũng cần khẳng định rằng cho đến nay chưa cĩ cơng trình nào nghiên cứu trực tiếp địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự và đặc biệt là viêc̣ áp dụng trong thực tiễn các quy điṇ h về địa vị pháp lý của người bị hại trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trong quá trình dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, các cơ quan đã khảo sát và nghiên cứu về tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới về việc áp dụng chế định về người bị hại trong tố tụng hình sự . Các nghiên cứ u đã đề cập tương đối đầy đủ các luận cứ khoa học như: bản chất, ý nghĩa, mục đích của việc nghiên cứu về người bị hại, tham khảo kinh nghiệm nước ngồi. Tuy nhiên, việc nghiên cứu ở phạm vi rộng, chưa đi sâu vào nghiên cứu tình hình áp dụng của từng địa phương cụ thể để đưa ra những giải pháp, kiến nghị cho phù hợp nhằm áp dụng trong tố tụng hình sự chặt chẽ và sát với thực tế các địa phương, nhất là ở địa bàn thành phố Hà Nội, nơi mà tình hình tội phạm trong thời gian qua đã diễn ra tương đối phức tạp và ngày càng cĩ chiều 4
- hướng gia tăng thì việc nghiên cứu tình hình và áp dụng các quy định về người bị hại trên địa bàn này là hết sức cĩ ý nghĩa, đáp ứng tốt yêu cầu đấu tranh phịng chống tội phạm và cơng cuộc cải cách tư pháp của Thủ đơ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn là trên cơ sở phân tích điạ vi ̣pháp lý của ngườ i bị hại trong TTHS , đánh giá v iêc̣ áp duṇ g các quy điṇ h này trên điạ bàn Hà Nơị , đưa ra một số giải pháp thưc̣ hiêṇ có hiêụ quả các quy định về người bị hại trong thưc̣ tiêñ điều tra , truy tớ , xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. Để đạt được mục đích trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ như sau: - Nêu cơ sở lý luận về ng ười bị hại và địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự. - Đánh giá khái quát thực trạng thưc̣ hiêṇ các quy điṇ h pháp luâṭ về địa vị pháp lý của người bị hại trên địa bàn thành phố Hà Nội; chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện và nguyên nhân. - Đề xuất các giải pháp thưc̣ hiêṇ có hiêụ quả các quy điṇ h pháp luâṭ về địa vị pháp lý của người bị hại từ thưc̣ tiêñ của Hà Nơị 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu điạ vi ̣pháp lý của ng ười bị hại trong tố tụng hình sự, viêc̣ áp dụng các quy điṇ h của Bơ ̣luâṭ tớ tuṇ g hình sư ̣ năm 2003 về điạ vi ̣ pháp lý của ng ười bị hại trên địa bàn thành phố Hà Nội. Các cơ quan tiến hành tố tụng hình sư ̣ trong Quân đội nhân dân khơng thuơc̣ phaṃ vi nghiên cứ u của đề tài. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. - Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với yêu cầu của từng vấn đề nghiên cứu 5
- như: phương pháp phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử, tổng hợp, so sánh, thống kê tư pháp. 6. Những đĩng gĩp về khoa học của luận văn - Trên cơ sở phân tích điạ vi ̣pháp lý của ngườ i bi ̣haị trong tớ tuṇ g hình sư,̣ đánh giá một cách cĩ hệ thống, tồn diện các vấn đề về thực trạng áp dụng các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội; - Đề xuất các giải pháp hồn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong Bơ ̣luâṭ tớ tuṇ g hình sư ̣ cũng như các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn - Tăng cường nhận thức thớng nhất của những ng ười tiến hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng về bảo vê ̣quyền , lơị ích hơp̣ pháp của ngườ i bị hại trong tố tụng hình sự. - Đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của ng ười bị hại trong điều kiêṇ Bơ ̣luâṭ tớ tuṇ g hình sư ̣ năm 2003 đang đươc̣ nghiên cứ u sử a đởi, bở sung. 8. Bố cục của luận văn Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự. Chương 2: Các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chương 3: Một số giải pháp bảo đảm thực hiện cĩ hiệu quả các quy định về địa vị pháp lý của người bị hại trên địa bàn thành phố Hà Nội. 6
- Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự 1.1.1. Quan niệm về ngƣời bị hại – Cơ sở để xác định địa vị pháp lý của ngƣời bị hại Để nghiên cứ u về điạ vi ̣pháp lý của người bị hại trong tớ tụng hình sự, trướ c hết cần làm rõ khái niêṃ điạ vi ̣pháp lý . Trong khoa hoc̣ pháp lý , khái niêṃ “điạ vi ”̣ cũng như khái niêṃ “điạ vi ̣ pháp lý ” thườ ng đươc̣ nh ắc đến trong giáo trình các mơn luâṭ , trong các bài viết v à cơng trình nghiên cứu nhưng chưa có mơṭ điṇ h nghiã hoàn chỉnh mang tính chính thớng. Trướ c hết, khái niệm “địa vị” được nhắc đến trong Từ điển tiếng Việt, đó là vị trí cá nhân trong quan hệ xã hội, do chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà cĩ, về mặt được coi trọng ít hay nhiều ; vị trí trong quan hệ xã hội, kinh tế, chính trị do vai trị, tác dụng mà cĩ cịn pháp lý là căn cứ, cơ sở của pháp luật [27]. Địa vị của một cá nhân là vị trí của cá nhân đĩ trong vai trị xã hội của mình, thể hiện năng lực, trình độ, vai trị của cá nhân đĩ trong mối quan hệ tương quan với các cá nhân khác trong xã hội. Địa vị này cĩ thể do cá nhân tạo lập nên hoặc do thừa hưởng từ cá nhân khác. Khái niệm “ địa vị” thường được dùng đi kèm bở ngữ, tạo thành khái niệm mang tính tâp̣ hơp̣ , ví dụ: “điạ vi ̣xa ̃ hơị ”, “điạ vi ̣ pháp lý” Khái niệm “địa vị pháp lý” được giả i thích trong Từ điển luật học, đó là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể khác trên cơ sở các quy định pháp luật; địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đĩ xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thơng qua địa vị pháp lý cĩ thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ 7
- thể pháp luật khác , đồng thời, cũng cĩ thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật [7]. Như vâỵ “địa vị pháp lý” khác với “địa vị xã hội” ở chỗ nĩ được pháp luật quy định và nĩ biểu hiện ở các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể. Cách giải thích này của Từ điển Luâṭ hoc̣ đươc̣ đa sớ luâṭ gia, các nhà nghiên cứu chấp nhận. Địa vị pháp lý của các chủ thể bao gồm tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể, qua đĩ xác lập, giới hạn khả năng của chủ thể đối với các hoạt động của mình trong phạm vi quyền và nghĩa vụ. Xác định địa vị pháp lý của các chủ thể giúp phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác trong mối quan hệ với nhau. Do vậy, nghiên cứu làm rõ khái niệm địa vị pháp lý của từng chủ thể trong quan hệ pháp luật nĩi chung và quan hệ pháp luật tố tụng hình sự nĩi riêng và đặc biệt là địa vị pháp lý của người bị hại là cần thiết khơng chỉ đối với người bị hại mà cịn cĩ ý nghĩa đối với các chủ thể khác. Chỉ khi làm rõ địa vị pháp lý của từng chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mới bảo vệ được quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng cĩ hiệu quả. Địa vị pháp lý thể hiện vị trí, vai trị của chủ thể khi tham gia vào một hoặc nhiều quan hệ pháp luật và gắn liền với nĩ là quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm pháp lý phát sinh. Ngườ i bi ̣haị là mơṭ chủ thể tham gia tớ tuṇ g hình sư,̣ cĩ địa vị pháp lý riêng biệt so với những người tham gia tớ tuṇ g hình sư ̣ khác. Để tìm hiểu điạ vi ̣pháp lý của ngườ i bi ̣haị , cần xác điṇ h đươc̣ khái niêṃ ngườ i bi ̣haị. Khái niệm người bị hại đã xuất hiện từ rất sớm, khi bắt đầu cĩ thủ tục tố tụng hình sự . Sau này, do ngành khoa hoc̣ nghiên cứ u về naṇ nhân hoc̣ trên thế giớ i phát triển maṇ h vào thế kỷ XX , khái niệm người bị hại đươc̣ các nhà nghiên cứ u về tơị phaṃ hoc̣ đưa vào ứ ng duṇ g trong viêc̣ xác điṇ h những mất mát, tởn thương do tơị phaṃ gây ra từ khía caṇ h của tơị phaṃ học. Đối với Việt Nam , người bị hại là khái niệm quen thuộc trong tố tụng 8
- hình sự. Tuy nhiên thế nào là người bị hại? Địa vị pháp lý của người bị hại là gì? Phạm vi quyền haṇ và nghiã vu ̣của người bị hại ra sao thì đến nay vẫn cịn nhiều ý kiến khác nhau, và cho đến nay vẫn chưa cĩ sự thống nhất. Vì vậy, để cĩ sự nhận thức đầy đủ và thống nhất về khái niệm người bị hại và địa vị pháp lý của người bị hại cần phải tiếp cận khái niệm này dưới những gĩc độ khác nhau. Trong khoa hoc̣ luâṭ tớ tuṇ g hình sự, khái niệm người bị hại được hiểu dưới nhiều gĩc độ khác nhau với những phương pháp tiếp cận khác nhau. Viêc̣ coi ngườ i bi ̣haị là mơṭ cá nhân (thể nhân) thì trong các ngành khoa hoc̣ pháp lý liên quan đến tư pháp hình sự như luật hình sự , tơị phaṃ hoc̣ , luâṭ tớ tụng hình sự, khoa hoc̣ điều tra tơị phaṃ hầu như khơng có sư ̣ tranh luâṇ . Vấn đề tranh luâṇ nhiều nhất trong lý thuyết và trong thưc̣ tiêñ là trong tr ường hợp cơ quan, tổ chức (pháp nhân) bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại thì họ cĩ phải là bị hại khơng thì cĩ nhiều ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng người bị hại chỉ là thể nhân, một con người cụ thể; cơ quan, tổ chức khơng thể là người bị hại. Bởi lẽ khái niệm “người” ở đây là đề cập đến con người cụ thể. Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần do hành vi phạm tội gây ra, mà thể chất và tinh thần thì chỉ gắn liền với con người, một thể nhân cụ thể, thiệt hại này khơng thể xảy ra đối với pháp nhân hay tổ chức [42]. Ý kiến thứ hai cho rằng ngồi cá nhân là người bị hại, trong trường hợp cơ quan, tổ chức bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại thì phải xem cơ quan, tổ chức đĩ là người bị hại. Cần quan niệm khái niệm người bị hại theo nghĩa rộng của từ này. Những người theo quan điểm này cho rằng trong thực tế hành vi phạm tội khơng chỉ gây thiệt hại cho cá nhân, hành vi phạm tội trong thực tế cịn nhằm đến để gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức. Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho cơ quan, tổ chức là rất đa dạng, khơng thuần tuý 9
- là thiệt hại về tài sản. trong thực tế, cơ quan, tổ chức cĩ thể bị thiệt hại về vật chất và tinh thần, chẳng hạn như một doanh nghiệp bị giả mạo về thương hiệu, bị vu khống làm mất uy tín trong kinh doanh. Vâỵ nếu nghiêng về ý kiến cho rằng ngư ời bị hại chỉ cĩ thể là cá nhân thì cơ quan, tổ chức bị tội phạm trực tiếp xâm hại sẽ tham gia tố tụng với tư cách gì? Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam quy điṇ h trong trư ờng hợp này cơ quan hay tổ chức bị tội phạm xâm hại thì tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự khi cĩ đơn yêu cầu. Quy định này chưa được hợp lý, khơng phù hơp̣ vớ i thưc̣ tiêñ bởi lẽ: Thứ nhất, đối với các cơ quan, tổ chức mà tài sản thuộc về sở hữu nhà nước khi bị tội phạm gây thiệt hại, cơ quan, tổ chức đĩ khơng cĩ đơn yêu cầu thì họ sẽ tham gia tố tụng với tư cách gì? Tài sản của nhà nước liệu được đảm bảo? Vậy khi tham gia tố tụng tồ án cĩ đưa họ vào tham gia tố tụng khơng và với tư cách gì? Thứ hai, dưới gĩc độ quyền và nghĩa vụ, cĩ thể thấy người bị hại khơng chỉ là người bị tội phạm gây thiệt hại mà họ cịn là chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, là chủ thể của quyền con người trong tư pháp hình sự. Do vậy, khái niệm người bị hại cũng cần phải được xem xét trên cơ sở quyền và nghĩa vụ pháp lý [22]. Như vâỵ , nếu khơng coi cơ quan, tổ chức là người bị hại sẽ vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tịa án và nguyên tắc tranh tụng. Điều này thể hiện sự bất bình đẳng giữa cá nhân và cơ quan, tổ chức, vì cơ quan, tổ chức phải cĩ đơn yêu cầu mới được tham gia tố tụng mà tham gia với tư cách là nguyên đơn dân sự và nguyên đơn dân sự thì lại khơng cĩ quyền kháng cáo về hình phạt, chỉ cĩ quyền kháng cáo về bồi thường. Điều này cịn tạo nên sự khác biệt và bất bình đẳng đối với bị cáo và đối tượng được bảo vệ. Phải chăng cĩ sự khơng cơng bằng trong việc bảo vệ tài sản của cá nhân và cơ 10
- quan, tổ chức. Cĩ sự khơng cơng bằng giữa bị cáo gây thiệt hại cho cá nhân và pháp nhân , tổ chức. Cần coi ngư ời bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra, được cơ quan cĩ thẩm quyền cơng nhận theo quy định của pháp luật, cĩ quyền và nghĩa vụ pháp lý được pháp luật bảo đảm thực hiện, từ đó xác điṇ h đúng điạ vi ̣phá p lý của họ trong tố tụng hình sự. 1.1.2. Vai trò của ngƣời bi ̣haị trong tớ tuṇ g hình sƣ ̣ Cũng cần nhấn mạnh rằng , vai trị của người bị hại trong tố tụng hình sự khơng phải là thu ̣đơṇ g , mà trái lại , cĩ sự chủ động nh ất điṇ h. Xét theo chứ c năng của tớ tuṇ g hình sư ̣ và vai trò của các chủ thể tham gia tớ tuṇ g , ngườ i bi ̣haị (hoăc̣ đaị diêṇ hơp̣ pháp của ho ̣ ) trướ c hết đươc̣ thể hiêṇ ở việc buộc tội, thơng qua việc đĩng gĩp của họ vào quá trình giải quyết vụ án đĩ là buộc tội (nhân danh cá nhân) người đã gây thiệt hại cho mình đồng thời yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường và khắc phục thiệt hại do tội phạm gây ra. Trong tố tụng hình sự mơṭ sớ quớc gia , bên caṇ h khái niêṃ cơng tớ , viêc̣ buộc tội nhân danh cá nhân được gọi là tư tố (Liên bang Nga, Trung Quớc, Phần Lan, mơṭ sớ bang của Hoa Kỳ ). Viêc̣ cơ quan cơng tớ nhân danh lợi ích cơng cộng , lợi ích Nhà nước để truy cứ u trách nhiêṃ hình sư ̣ mơṭ ngườ i phaṃ tơị nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tở chứ c , cá nhân là hoaṭ đơṇ g cơng tớ . Tuy nhiên, trong thực tế pháp luật quy định trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, tạo khả năng và điều kiện cho người bị hại được tự do lựa chọn cách giải quyết, hoặc là yêu cầu pháp luật can thiệp hoặc là tự dàn xếp với người đã gây thiệt hại cho mình một cách ổn thoả, đó là tư tớ . Tố tụng hình sự Việt Nam chỉ quy định thủ tục cơng tố cho tất cả các vụ án hình sự. Điều đĩ cĩ nghĩa là việc khởi tố, trừ một số trường hợp phải cĩ yêu cầu của người bị hại, thì đều do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tồ án thực hiện, cịn việc truy tố hình sự, thực hành quyền 11
- cơng tố trước tồ chỉ thuộc thẩm quyền, chức năng của Viện kiểm sát. Tố tụng hình sự của chúng ta khơng áp dụng thủ tục tư tố, khơng cho phép người bị hại quyền truy tố hình sự và thực hiện việc buộc tội trước tồ. Tuy nhiên, cũng cĩ ý kiến cho rằng, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì việc quy định trong một số trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại cĩ thể coi là tư tố. Bở i le ̃ chức năng buộc tội trong tố tụng hình sự là chức năng của Viện kiểm sát thay mặt Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nhưng quyền buộc tội cá nhân vẫn được tơn trọng ở mức độ nhất định. Như vậy, khơng giống quyền cơng tố, với quyền tư tố, pháp luật cho phép sự thể hiện ý chí cá nhân của người bị hại trong việc tự giải quyết các sự việc gây thiệt hại cho chính mình trong giới hạn nhất định mà xã hội và cộng đồng cĩ thể chấp nhận được. Đĩ là sự tự định đoạt của người bị hại đối với người đã gây ra thiệt hại cho mình, nĩi cách khác họ cĩ thể thoả thuận, hồ giải với nhau xem cĩ nên đưa vụ án ra tồ để giải quyết hay khơng. Hai là, vai trị của người bị hại trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Ngồi vai trị buộc tội, người bị hại cịn cĩ vai trị tích cực trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Điều này thể hiện ở việc khai báo những tình tiết liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự ; vai trị bảo vệ lợi ích cá nhân trong vụ án hình sự thơng qua quyền yêu cầu khởi kiện dân sự trong vụ án hình sự. Việc người bị hại khai báo những tình tiết liên quan giúp cơ quan tiến hành tố tụng trong việc điều tra, khám phá tội phạm, thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ những vấn đề cần chứng minh nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Để tìm hiểu điạ vi ̣pháp lý của ngườ i bi ̣haị , cần xem xét đến mới tương quan giữa ngườ i bi ̣haị vớ i các c hủ thể tham gia tố tụng hình sự bao gồm nhiều tư cách tố tụng khác nhau và được phân thành các nhĩm như cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; cơ quan cĩ thẩm quyền tiến hành 12
- một số hoạt động điều tra ; người tham gia tố tụng cĩ quyền lợi pháp lý liên quan (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người cĩ quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án); người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự; và người tham gia tố tụng khơng cĩ quyền lợi pháp lý liên quan như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và chủ thể khác. Tuy nhiên cách phân chia này chưa chỉ rõ được sự khác nhau về mục đích và hướng tham gia tố tụng của các chủ thể cũng như vai trị, chức năng của từng chủ thể trong tố tụng hình sự. Ví dụ đều là cơ quan tiến hành tố tụng nhưng Viện kiểm sát và Tịa án lại thực hiện các chức năng tố tụng khác nhau. Hoặc đều là người tham gia tố tụng cĩ quyền lợi pháp lý liên quan nhưng bị can, bị cáo và người bị hại tham gia tố tụng với mục đích khơng như nhau. Vì vậy để làm rõ vị trí của người bị hại cần cĩ cách tiếp cận khác về vị trí của các chủ thể trong tố tụng hình sự, đĩ là dựa vào mục đích, nhiệm vụ, chức năng của các chủ thể. Để xác định được vị trí của người bị hại, trước hết chúng ta phải xác định người bị hại thuộc nhĩm nào và mối quan hệ giữa họ với các chủ thể cịn lại. Tiếp cận theo cách phân chia này thì nhĩm thứ nhất gồm người bị thiệt hại do tội phạm gây ra, đĩ là người bị hại, nguyên đơn dân sự, người cĩ quyền lợi liên quan đến vụ án và người bảo vệ quyền lợi của họ. Những chủ thể này tham gia với mục đích buộc tội người gây thiệt hại và yêu cầu được bồi thường thiệt hại. Cùng với những người nĩi trên, nhĩm này cịn cĩ những chủ thể đại diện cho nhà nước cĩ quyền tiến hành các hoạt động tố tụng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội đối với người thực hiện hành vi phạm tội như cơ quan điều tra, viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng của cơ quan này. Tuy nhiên mục đích của họ lại hướng tới việc buộc tội nhằm cải tạo giáo dục, trừng trị người phạm tội chứ khơng nhằm để được bồi thường hay khắc phục thiệt hại do tội phạm gây ra [22]. 13
- Nhĩm chủ thể thứ hai cĩ vị trí tố tụng đối lập với người bị hại, đĩ là người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), người cĩ trách nhiệm bồi thường thiệt hai do hành vi phạm tội gây ra như bị đơn dân sự, người cĩ nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa Nhĩm chủ thể thứ ba là Tịa án, Chánh án, Phĩ Chánh án tịa án, Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Tịa án cĩ nhiệm vụ giải quyết vụ án (Hội đồng xét xử), tức là cĩ vị trí trọng tài nhằm giải quyết vụ án một cách khách quan và cơng bằng. Ngồi ra, cịn một nhĩm chủ thể nữa là những người tham gia tố tụng nhằm hỗ trợ và giúp cơ quan cĩ thẩm quyền làm rõ chứng cứ và xác định sự thật khách quan của vụ án như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch. Khác với những nhĩm trên, các chủ thể trong nhĩm này khơng cĩ quyền và lợi ích liên quan đến vụ án. Với cách tiếp cận này người bị hại cĩ vi trí độc lập với nhĩm chủ thể bị buộc tội và bị đơn dân sự. Người bị hại cĩ thể được coi là chủ thể cùng bên với cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhưng lại cĩ địa vị tố tụng độc lập. Trong quan hệ với Tịa án, người bị hại được coi là một trong những bên tranh tụng thực hiện quyền buộc tội, yêu cầu bồi thường thiệt hại [41, tr.58]. Vớ i tư cách là ngườ i tham gia tớ tuṇ g hìn h sư,̣ điạ vi ̣pháp lý của người bị hại bị chi phối bởi nhiều yếu tố như : như đăc̣ điểm của mơ hình tớ tuṇ g hình sự thẩm vấn hay tranh tuṇ g , kết hơp̣ giữa mơ hình thẩm vấn và mơ hình tranh tuṇ g; quan niêṃ về ngườ i bi ̣haị trong tớ tuṇ g hình sự (cá nhân h oặc pháp nhân, cả pháp nhân và cá nhân ); mới tương quan giữa ngườ i bi ̣haị và các chủ thể khác tham gia tố tụng hình sự ; hê ̣thớng quy điṇ h pháp luâṭ về t ố tụng hình sự hiện hành . Sự tác động của các yếu tố nĩi trên dẫn đến sự khác biệt giữa địa vị pháp lý của với địa vị pháp lý của ngườ i bi ̣haị vớ i những người tham gia tớ tuṇ g khác như bi ̣can, bị cáo, ngườ i có quyền và lơị ích liên 14