Luận văn Bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế thu nhập là cá nhân cư trú theo pháp luật Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế thu nhập là cá nhân cư trú theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_bao_ve_quyen_loi_cua_nguoi_nop_thue_thu_nhap_la_ca.pdf
Nội dung text: Luận văn Bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế thu nhập là cá nhân cư trú theo pháp luật Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH THU HẢO B¶O VÖ QUYÒN LîI CñA NG¦êI NéP THUÕ THU NHËP Lµ C¸ NH¢N C¦ TRó THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH THU HẢO B¶O VÖ QUYÒN LîI CñA NG¦êI NéP THUÕ THU NHËP Lµ C¸ NH¢N C¦ TRó THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐINH DŨNG SỸ HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trịnh Thu Hảo
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Bảng chữ viết tắt Danh mục các bảng LỜI MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ TNCN VÀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI NỘP THUẾ LÀ CÁ NHÂN CƢ TRÚ 6 1.1 Những vấn đề lý luận về thuế TNCN 6 1.1.1 Khái niệm thuế TNCN 6 1.1.2 Đặc điểm của thuế TNCN 9 1.1.3 Nguyên tắc và phương pháp đánh thuế TNCN 12 1.1.4 Cơ sở xác định thuế TNCN 16 1.2 Khái quát chung về pháp luật thuế TNCN và bảo vệ quyền lợi của ngƣời nộp thuế là cá nhân cƣ trú 19 1.2.1 Các nguyên tắc xây dựng luật thuế TNCN 20 1.2.2 Khái quát vấn đề bảo vệ quyền của người nộp thuế là cá nhân cư trú theo quy định của luật thuế TNCN của Việt Nam 24 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI NỘP THUẾ LÀ CÁ NHÂN CƢ TRÚ THEO LUẬT THUẾ TNCN VIỆT NAM 31 2.1 Luật thuế TNCN đƣợc xây dựng và hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của ngƣời nộp thuế là cá nhân cƣ trú 31 2.1.1 Từ 1990 đến 2008 31 2.1.2 Từ 2009 đến nay 33
- 2.2 Thực trạng bảo vệ quyền lợi ngƣời nộp thuế là cá nhân cƣ trú của pháp luật thuế TNCN 35 2.2.1 Các kết quả đã đạt được 35 2.2.2 Các vấn đề còn bất cập 54 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ TNCN ĐỂ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI NỘP THUẾ LÀ CÁ NHÂN CƢ TRÚ 65 3.1 Những định hƣớng cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay 65 3.1.1 Hoàn thiện luật thuế TNCN cần đặt trong tiến trình cải cách hệ thống thuế quốc gia 65 3.1.2 Luật thuế TNCN phải công bằng, minh bạch, hiệu quả 66 3.1.3 Luật thuế TNCN phải là công cụ hữu hiệu để nhà nước đảm bảo nguồn thu NSNN, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội 67 3.1.4 Điều chỉnh pháp luật thuế TNCN phải đảm bảo nguyên tắc hội nhập 68 3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế TNCN để bảo vệ quyền lợi của ngƣời nộp thuế là cá nhân cƣ trú 68 3.2.1 Sửa đổi, bổ sung quy định về một số loại thu nhập chịu thuế TNCN 69 3.2.2 Hoàn thiện quy định về giảm trừ gia cảnh 71 3.2.3 Hoàn thiện quy định về thuế suất thuế TNCN 72 3.2.4 Quy định lại một số thu nhập được miễn thuế 74 KẾT LUẬN 78 TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
- BẢNG CHỮ VIẾT TẮT CNTT: Công nghệ thông tin GTGT: Giá trị gia tăng NSNN: Ngân sách nhà nước TNCN: Thu nhập cá nhân TNDN: Thu nhập doanh nghiệp TTCK: Thị trường chứng khoán
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Bảng 1.1 Cơ cấu nguồn thu từ thuế TNCN giai đoạn 2009-2011 28 Bảng 2.1 Biểu thuế lũy tiến từng phần đối với thu nhập thường xuyên của công dân Việt Nam và cá nhân khác định cư tại Việt Nam theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 2001 35 Bảng 2.2 Biểu thuế lũy tiến từng phần đối với thu nhập thường xuyên của người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và công dân Việt Nam lao động, công tác ở nước ngoài theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 2001 36 Bảng 2.3 Thống kê các khoản giảm trừ gia cảnh của Luật thuế TNCN từ 2009 đến nay 47 Bảng 2.4 Biểu thuế lũy tiến từng phần 50 Bảng 3.1 Bảng dự toán thu NSNN theo lĩnh vực năm 2014- 2015 67-68
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu “Trong cuộc sống không có gì tất yếu, ngoài cái chết và thuế”. Đó là một trong những phát biểu bất hủ của Ông Benjamin Franklin, người soạn thảo tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nói như vậy để thấy rằng sự ra đời và hình thành của thuế là tất yếu bên cạnh các hiện tượng kinh tế - xã hội khác, gắn với sự hình thành và phát triển của Nhà nước. Không phân biệt là mô hình Nhà nước nào thì quan hệ giữa Nhà nước và người nộp thuế dường như là không thay đổi. Nộp thuế là nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước. Về phía Nhà nước, đánh thuế vừa là đặc quyền vừa là một trong những bài toán khó nhất, đòi hỏi sự xem xét thận trọng và kỹ lưỡng. Liên quan đến vấn đề này, Adam Smith cho rằng thu thuế phải “bình đẳng, xác thực, tiện lợi và ít tốn kém”. Là một trong những loại thuế trực thu cơ bản, thuế TNCN có tác động mạnh mẽ đối với mỗi công dân bởi vì thuế gắn liền với thu nhập của họ. Nếu Nhà nước có một chính sách thuế hợp lý sẽ tạo ra một nguồn thu lớn và ổn định cho ngân sách. Nhưng ngược lại, nếu chính sách thuế TNCN chưa phù hợp sẽ dẫn đến những hiện tượng tiêu cực như né thuế, trốn tránh nộp thuế hoặc gian lận trong việc nộp thuế. Kể từ khi Luật thuế TNCN có hiệu lực thi hành chính thức kể từ ngày 01/01/2009, đã có nhiều ý kiến về những ưu điểm của luật thuế mới này như thuế đã xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa cá nhân trong nước và cá nhân là người nước ngoài, tính giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế để giảm bớt nghĩa vụ đóng thuế của người nộp thuế khi phải chăm sóc, phụng dưỡng nhiều người phụ thuộc Những cải thiện đó phần nào rút bớt khoảng cách giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tuy nhiên, có không ít ý kiến dư luận vẫn chưa hoàn toàn đồng tình với các quy định của Luật thuế TNCN như mức 1
- giảm trừ gia cảnh còn thấp, chưa cập nhật theo tình hình kinh tế xã hội và bình quân thu nhập tính trên đầu người; quy định khoán doanh thu và thu nhập tính thuế đối với cá nhân, hộ gia đình kinh doanh nhưng không duy trì sổ sách kế toán, chế độ hóa đơn chứng từ; quy định tính thuế thu nhập của cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán chưa hợp lý dẫn đến người chuyển nhượng chứng khoán bị lỗ vẫn phải nộp thuế, v.v. Thuế TNCN là một trong những sắc thuế có tính ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội. Trong khi đó đối tượng nộp thuế thì những cá nhân cư trú chiếm tỷ lệ lớn trong số đối tượng nộp thuế mà trong đó phần lớn là người Việt Nam nên khi mà vẫn còn những ý kiến về sự bất bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế hoặc sự bất hợp lý trong cách tính thuế đối với các khoản thu nhập của cá nhân thì khi ấy hiện tượng tiêu cực như trốn thuế, né thuế, gian lận thuế vẫn có cơ hội thực hiện và hậu quả là Nhà nước sẽ mất một nguồn thu ngân sách không nhỏ. Bên cạnh đó, tâm lý tin tưởng ổn định của người dân vào chính sách nhà nước, yếu tố giúp tạo nên sự ổn định chung cho toàn xã hội khó mà giữ vững. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền lợi của ngƣời nộp thuế thu nhập là cá nhân cƣ trú theo pháp luật Việt Nam” để phân tích sâu hơn những nguyên nhân phải bảo vệ người nộp thuế thu nhập là cá nhân cư trú, những ưu điểm cũng như những vấn đề còn tồn tại trong việc bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế là cá nhân cư trú theo quy định của pháp luật về thuế TNCN của Việt Nam từ đó mong muốn đưa ra những giải pháp để hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật thuế TNCN của Việt Nam. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1 Mục tiêu tổng quát Bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế thu nhập là cá nhân góp phần mang lại một cách nhìn toàn diện về những ưu điểm, nhược điểm của Luật 2
- thuế TNCN nói chung, những nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung để tạo ra một sắc thuế có tính thực tiễn, được người nộp thuế tự nguyện chấp hành và nguồn thu của ngân sách nhà nước từ thuế TNCN được bảo đảm. 2.2 Mục tiêu cụ thể Mục tiêu cụ thể của đề tài là phân tích hiện trạng bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế là cá nhân cư trú của pháp luật thuế TNCN của Việt Nam đặt trong sự so sánh giữa Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, trong đó sẽ nêu các kết quả đã đạt được, những quy định còn bất cập và những kiến nghị để khắc phục các vấn đề đó. 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài Cho đến nay đã có nhiều luận văn thạc sĩ, công trình khoa học nghiên cứu về thuế TNCN. Các công trình này được viết ở hai thời kỳ là (i) giai đoạn Luật thuế TNCN chưa có hiệu lực thi hành như luận án tiến sĩ với đề tài là “Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và định hướng hoàn thiện” năm 1995 của tác giả Vũ Văn Trường; luận văn thạc sĩ với đề tài là “Hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” năm 2006 của tác giả Mai Đình Lâm và (ii) giai đoạn Luật thuế TNCN có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2009 và các văn bản sửa đổi Luật thuế TNCN từ đó đến nay như luận án tiến sĩ với đề tài là: “Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam” năm 2012 của tác giả Trần Minh Đức; luận văn thạc sĩ với đề tài là: “Xây dựng mức giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam” năm 2011 của tác giả Phan Thị Tố Như, luận văn thạc sĩ với đề tài là “Hoàn thiện quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam” năm 2011 của tác giả Lưu Thị Thu An; luận văn thạc sĩ với đề tài là: “Hoàn thiện thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay” năm 2012 của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền; luận văn thạc sĩ với đề tài là: “Hoàn 3
- thiện thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay” năm 2012 của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền, v .v. Phần lớn các công trình đều tiếp cận thuế TNCN dưới góc độ quản lý thuế nhằm nêu lên những phương hướng, giải pháp để Nhà nước có thể thu đủ thuế, nhằm giải quyết vấn nạn trốn thuế, né thuế hoặc gian lận trong nộp thuế. Một cách tiếp cận khác là nghiên cứu phân tích đánh giá từng nội dung trong quy định của luật thuế như vấn đề công bằng của pháp luật thuế TNCN, thu nhập chịu thuế TNCN, thu nhập miễn thuế TNCN, phương thức xây dựng mức giảm trừ gia cảnh của thuế TNCN hoặc thuế TNCN đối với cá nhân không cư trú, v.v. Tuy nhiên, ít có công trình nào tiếp cận thuế TNCN dưới góc độ người nộp thuế và bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế, cụ thể là cá nhân cư trú. Ngoài việc làm rõ những vấn đề lý luận, cơ sở bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế TNCN là cá nhân cư trú, phân tích và đánh giá thực trạng bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế là cá nhân cư trú, luận văn cũng so sánh quy định của pháp luật thuế TNCN của Việt Nam một số quy định về thuế TNCN đối với cá nhân cư trú như cách xác định đối tượng cư trú, quy định về loại thu nhập chịu thuế, quy định về các khoản giảm trừ đối với người nộp thuế của một số quốc gia tại Châu Á và các bài học kinh nghiệm có thể áp dụng tại Việt Nam. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định về thuế TNCN đối với các cá nhân cư trú (bao gồm người Việt Nam và người nước ngoài) theo quy định của luật thuế TNCN tại Việt Nam, bao gồm các nội dung chính như sau: quy định về đối tượng chịu thuế, thu nhập chịu thuế, thu nhập miễn thuế, xác định chịu thuế và tính thuế đối với cá nhân cư trú, biểu thuế suất lũy tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh của cá nhân, hộ gia đình, khấu trừ, kê khai và nộp thuế TNCN. 4
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài không có giới hạn về không gian vì quy định của luật thuế TNCN được áp dụng chung trên toàn quốc từ năm 1991; tuy nhiên, về mặt thời gian thì luận văn tập trung phân tích các quy định của Luật thuế TNCN 2007 có hiệu lực thi hành chính thức ngày 01/01/2009 và các nội dung sửa đổi, bổ sung của luật thuế TNCN năm 2012, có hiệu lực thi hành chính thức kể từ ngày 01/7/2013. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài sẽ dựa trên phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, các phương pháp khác sẽ được sử dụng trong quá trình chuẩn bị luận văn bao gồm: phương pháp so sánh, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích và tổng hợp 6. Nội dung khóa luận Ngoài lời mở đầu và kết luận, khóa luận được trình bày thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thuế TNCN và bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế là cá nhân cư trú Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế thu nhập là cá nhân cư trú theo quy định của pháp luật Việt Nam Chương 3: Hoàn thiện quy định pháp luật về thuế TNCN để bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế là cá nhân cư trú tại Việt Nam. Kết luận Tài liệu tham khảo 5
- Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ TNCN VÀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI NỘP THUẾ LÀ CÁ NHÂN CƢ TRÚ 1.1 Những vấn đề lý luận về thuế TNCN 1.1.1 Khái niệm thuế TNCN Để có nguồn vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để huy động một bộ phận của cải của xã hội. Để huy động tập trung nguồn của cải xã hội, nhà nước có thể thực hiện bằng nhiều cách thức khác nhau như đóng góp bắt buộc, vận động dân đóng góp tự nguyện hoặc vay, trong đó, biện pháp huy động, tập trung của cải có tính bắt buộc đối với mọi thành viên trong xã hội được gọi là thuế. Với phạm vi tác động rộng rãi lên hầu hết lĩnh vực của đời sống xã hội, hệ thống thuế của các quốc gia được xây dựng linh hoạt với chức năng và đối tượng chịu tác động riêng biệt. Cách phân loại phổ biến nhất hiện nay đó là dựa trên căn cứ đối tượng bị đánh thuế hay đối tượng chịu thuế, theo đó sắc thuế hiện nay được phân loại thành thuế thu nhập, thuế tiêu dùng và thuế tài sản. Thuế thu nhập là tên gọi chỉ những sắc thuế mà nhà nước sử dụng để điều tiết một phần thu nhập của các tổ chức, cá nhân vào NSNN với mục đích tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện công bằng xã hội. Trong hệ thống thuế ở các quốc gia, thuế thu nhập là loại thuế quan trọng được áp dụng phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Thuế thu nhập gồm hai loại là thuế TNDN và thuế TNCN dựa trên cơ sở đối tượng nộp thuế là cá nhân hay tổ chức có thu nhập chịu thuế. Lần đầu tiên được biết đến tại Anh năm 1779, thuế TNCN là một sắc thuế nhằm tập trung của cải nhân dân để phục vụ cuộc chiến tranh chống Napoleon. Về sau, với 6
- yêu cầu tự do hóa thương mại để phát triển kinh tế của các nước, hàng rào thuế quan đánh vào hàng hóa nhập khẩu sẽ phải được xóa bỏ để san bằng thuế đánh vào hàng hóa trong nước và nhập khẩu khiến cho một phần của khoản thu của NSNN bị giảm xuống. Trong tình hình đó, để tăng nguồn thu cho NSNN, nhằm đáp ứng những nhu cầu chi tiêu của chính phủ thì các loại thuế khác cần phải được phát huy tác dụng. Khi trình độ kinh tế ngày càng phát triển thì thuế thu nhập ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong tổng số thu về thuế. Trên thế giới, nguồn tài chính đóng góp lớn nhất vào NSNN của các quốc gia phát triển là khoản thuế thu được từ TNCN. Thuế TNCN là sắc thuế đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển, đối tượng nộp thuế này mọi cư dân trong nước và người nước ngoài có thu nhập phát sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã hội. Bất kỳ một quốc gia có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường đều coi thuế TNCN là một sắc thuế có tầm quan trọng lớn trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách và thực hiện công bằng xã hội. Sự ra đời của thuế TNCN bắt nguồn từ các lý do sau đây: Thứ nhất, thuế TNCN ra đời xuất phát từ yêu cầu bảo đảm sự cộng bằng trong phân phối thu nhập. Điều này đặc biệt cần thiết trong điều kiện kinh tế thị trường khi sự phân hóa giàu nghèo là điều khó tránh khỏi, thuế TNCN sẽ là một biện pháp tốt để rút ngắn khoảng cách giàu nghèo trong xã hội mà vẫn đảm bảo tính công bằng trong đóng góp của cá nhân cho xã hội. Thuế TNCN đánh vào thu nhập của cá nhân dựa trên các nguyên tắc “lợi ích”, “công bằng” và “khả năng nộp thuế”. Theo nguyên tắc lợi ích kinh tế học công cộng, công dân phải có nghĩa vụ nộp thuế để được hưởng những lợi ích do nhà nước mang lại, thí dụ hệ thống pháp luật, quốc phòng, an ninh-trật tự, dịch vụ, hàng hóa công Thuế TNCN đảm bảo tính “công bằng” theo cả 7
- chiều ngang và chiều dọc. Công bằng theo chiều ngang được hiểu là những người có thu nhập như nhau và có hoàn cảnh tương tự nhau thì phải nộp thuế như nhau, công bằng theo chiều dọc là những người có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập thấp. Bên cạnh đó, cũng cần phải xem xét “khả năng nộp thuế” của đối tượng nộp thuế để đảm bảo tính khả thi của chính sách thuế, vì người dân không thể nộp thuế khi thu nhập của họ còn chưa đảm bảo được duy trì cuộc sống tối thiểu. Trên ý nghĩa đó, thuế TNCN là sắc thuế đảm bảo tính công bằng, hợp lý và hiệu quả trong phân phối thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội. Thứ hai, do nhu cầu chi tiêu của nhà nước ngày càng tăng trong điều kiện chức năng của nhà nước ngày càng mở rộng. Hơn nữa, cùng với việc ký kết và tham gia các hiệp định thương mại song phương và đa phương về tự do hóa thương mại dẫn đến nguồn thu từ thuế xuất khẩu giảm đi đáng kể. Điều đó đặt ra nhu cầu tăng cường các nguồn thu quan trong trong tổng thu NSNN. Vì thuế TNCN có diện chịu thuế khá rộng, khả năng tạo nguồn thu cho NSNN cao nhất, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó, thuế TNCN có độ co giãn theo thu nhập tương đối lớn nên cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập của các đối tượng nộp thuế cũng không ngừng tăng lên, nếu có chính sách động viên hợp lý, ổn định thì không cần phải thường xuyên thay đổi mà vẫn thu được số thu mong muốn. Do sự ổn định trong mức huy động thuế đã tạo một môi trường phù hợp với mục tiêu kinh tế dài hạn của quốc gia, góp phần khuyến khích, thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thu được nhiều lợi nhuận, tạo ra mức thu nhập ngày càng cao làm gia tăng nguồn thu cho NSNN. Thứ ba, thuế TNCN được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô, kích thích tiết kiệm và đầu tư theo hướng nâng cao năng lực hiệu quả xã hội. Do vậy, để tăng phúc lợi xã hội cần thiết phải điều tiết bớt thu nhập của 8
- những đối tượng có thu nhập cao và phân phối lại cho những đối tượng có thu nhập thấp hơn. Bên cạnh đó, thông qua những chính sách miễn giảm, hỗ trợ, ưu đãi thuế TNCN có thể tác động trực tiếp đến định hướng tiêu dùng và đầu tư theo hướng có lợi, thực hiện mục tieu điều chỉnh kinh tế nhà nước. Thứ tư, thuế TNCN lũy tiến còn có tác dụng bù lại sự lũy thoái của các loại thuế tiêu dùng. Tính chất lũy thoái của thuế tiêu dùng được thể hiện: nếu người giàu và người nghèo cùng một sản phẩm đều chịu thuế tiêu dùng như nhau. Vì vậy, thuế TNCN được coi là một sắc thuế có vai trò rất lớn trong việc đảm bảo tính công bằng của hệ thống thuế. Như vậy, từ các phân tích trên thì có thể định nghĩa: thuế TNCN là sắc thuế mà nhà nước sử dụng để điều tiết một phần thu nhập của các cá nhân vào NSNN với mục đích tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện công bằng xã hội. 1.1.2 Đặc điểm của thuế TNCN Thuế TNCN có những đặc điểm cơ bản như sau: 1.1.2.1 Thuế TNCN là thuế trực thu Thuế trực thu là loại thuế mà chủ thể nộp thuế cũng đồng thời là chủ thể phải chịu thuế, nghĩa là chủ thể nộp thuế sẽ mất một phần thu nhập của chính mình vì thuế. Thuế TNCN là thuế trực thu bởi cá nhân có thu nhập chịu thuế là người nộp thuế, việc nộp thuế được tiến hành từ việc khấu trừ trực tiếp từ thu nhập của cá nhân đó mà không thông qua hành vi tiêu dùng hoặc chủ thể trung gian khác. Do thuế trực tiếp tác động vào thu nhập, tài sản của cá nhân, có xem xét đến hoàn cảnh, điều kiện và khả năng đóng góp của người nộp thuế nên nó rất có tác dụng trong việc điều hòa thu nhập, góp phần giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa các tầng lơp dân cư. Tuy nhiên, thuế trực thu có hạn chế là dễ gây phản ứng từ phía đối tượng chịu thuế hoặc dễ xảy ra tình trạng 9
- trốn, lậu thuế nếu quy định mức thuế suất cao. Hơn nữa, việc theo dõi, tính toán và thu thuế phức tạp, đặc biệt là thuế TNCN với diện thu thuế rộng và phân tán. Vì vậy, nếu không có biện pháp quản lý thu thuế hiệu quả thì dễ dẫn đến hạn chế tác dụng của loại thuế này trong việc tập trung đầy đủ, kịp thời về cho NSNN. 1.1.2.2 Thuế TNCN có đối tượng chịu thuế là thu nhập của cá nhân Trong quá trình lao động, con người tạo ra thu nhập dưới nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào tiêu chí phân loại. Mục đích của việc phân loại thu nhập là cơ sở cho việc phân định đối tượng chịu thuế của các sắc thuế khác nhau cũng như đặt ra cơ chế hành thu hiệu quả. Khái niệm “thu nhập” hiện nay vẫn chưa được hiểu thống nhất nên vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Chính vì vậy, các nhà làm luật thường chỉ liệt kê các khoản được coi là thu nhập của tổ chức, cá nhân mà không đưa ra khái niệm thu cụ thể. Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập của cá nhân phát sinh rất đa dạng. Nếu căn cứ vào hoạt động của các giao dịch làm phát sinh thu nhập thì thu nhập bao gồm: thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; thu nhập từ lao động; thu nhập từ tài sản, tiền vốn; thu nhập từ thừa kế quà tặng, thu nhập từ tiền gửi tiết kiệm, v.v. Các loại thu nhập kể trên không phải thu nhập nào cũng phải chịu thuế mà chỉ có một số khoản thu nhập được pháp luật quy định rõ ràng là đối tượng chịu thuế mới là thu nhập chịu thuế. Thí dụ: Luật thuế TNCN của Hàn Quốc quy định thu nhập chịu thuế toàn cầu bao gồm (1) Thu nhập từ lao động; (2) thu nhập từ kinh doanh; (3) Thu nhập từ cho thuê bất động sản; (4) Thu nhập từ tài sản tạm thời; (5) Thu nhập khác và thu nhập chịu thuế riêng biệt: (6) Thu nhập từ lương hưu; (7) Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản; (8) Thu nhập từ trồng rừng và khai thác gỗ. Luật thuế TNCN của Nhật Bản quy định thu nhập chịu thuế bao gồm: (1) Thu nhập từ công việc lao động; (2) Thu nhập từ hoạt động kinh doanh; (3)Thu nhập do 10
- buốn bán bất động sản; (4) Thu nhập từ tiền lãi cổ phần; (5) Thu nhập từ lợi tức; (6) Thu nhập từ các khoản hưu trí; (7) Thu nhập từ buôn bán gỗ; (8) Thu nhập từ các khoản vốn; (9) Thu nhập bất thường; Thu nhập khác.[15, trang 5] Pháp luật thuế TNCN nói riêng và thuế thu nhập nói chung ở các nước đều quy định khoản thu nhập chịu thuế làm cơ sở cho việc đánh thuế. Thông thường thu nhập chịu thuế phải là thu nhập hợp pháp, thực tế phát sinh, có tính phổ biến và nhà nước có thể kiểm soát được. Tuy nhiên, quy định về loại thu nhập chịu thuế sẽ không hoàn toàn giống nhau ở các nước (thí dụ: Trung Quốc quy định 11 loại thu nhập chịu thuế TNCN, Thái Lan quy định 8 loại thu nhập chịu thuế TNCN, Philippin quy định 10 loại thu nhập chịu thuế TNCN [15, trang 4] vì các lý do như sau: Mỗi quốc gia sẽ có nguyên tắc đánh thuế riêng. Các nguyên tắc đánh thuế phổ biến bao gồm: đánh thuế theo quốc tịch, đánh thuế theo theo phạm vi lãnh thổ (nguồn của thu nhập phát sinh từ quốc gia nào) và đánh thuế trên cơ sở cư trú/không cư trú của đối tượng nộp thuế. Mỗi quốc gia có thể lựa chọn sử dụng một hoặc hai hoặc phối hợp cả ba phương thức đánh thuế này [16, trang 178-179]. Thuế TNCN chỉ được áp dụng cho các khoản thu nhập mà nhà nước có thể kiểm soát và quản lý được. Như vậy, tùy thuộc khả năng và trình độ quản lý về thuế của mỗi nhà nước mà quy định về loại thu nhập chịu thuế TNCN cũng khác nhau. Trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế và hội nhập sâu rộng, việc xác định loại thu nhập nào chịu thuế cũng phụ thuộc không nhỏ vào việc các quốc gia đó có tham gia các hiệp định song phương và đa phương theo đó quy định, xác nhận các loại thu nhập phải chịu thuế trên lãnh thổ của mình hay không. 1.1.2.3 Thuế TNCN là loại thuế có tính ổn định không cao và phức tạp 11
- Đặc điểm này của thuế TNCN thể hiện ở chỗ các quy định về thu nhập chịu thuế hoặc không chịu thuế thường xuyên thay đổi theo biến dộng của nền kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Ngoài ra, những quy định về giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế và người phụ thuộc cũng có sự thay đổi linh hoạt do thuế điều tiết trực tiếp vào thu nhập của cá nhân nên có sự tác động rất lớn đến mức sống của cư dân và chịu tác động của giá cả thị trường. 1.1.2.4 Văn bản điều chỉnh quan hệ về thuế TNCN bao gồm các văn bản pháp luật của quốc gia và pháp luật quốc tế Cả ba phương pháp thu thuế phổ biến là đánh thuế theo quốc tịch, đánh thuế theo theo phạm vi lãnh thổ (nguồn của thu nhập phát sinh từ quốc gia nào) và đánh thuế trên cơ sở cư trú/không cư trú của đối tượng nộp thuế dẫn đến hệ quả tất yếu là việc điều chỉnh thuế không chỉ dừng lại ở các văn bản pháp luật của một quốc gia được thu thuế mà còn liên quan đến văn bản pháp luật về thuế TNCN của quốc gia khác nơi người nộp thuế là công dân. Pháp luật quốc tế phổ biến về thuế TNCN là các điều ước quốc tế, hiệp định song phương về tránh đánh thuế hai lần mà các quốc gia ký kết để tránh đánh trùng thuế trên một khoản thu nhập của cá nhân khi cá nhân đó đồng thời hiện diện hoặc có thu nhập từ các quốc gia là thành viên của các hiệp định. 1.1.3 Nguyên tắc và phương pháp đánh thuế TNCN 1.1.3.1 Nguyên tắc đánh thuế TNCN Trên thực tế, một cá nhân tuy có thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau nhưng không phải tất cả thu nhập phát sinh của cá nhân đều là đối tượng điều chỉnh của thuế TNCN. Ngoài ra, với ý nghĩa tạo tính công bằng, tăng thu cho NSNN và thúc đẩy phát triển kinh tế, chính phủ các nước cần phải lựa chọn phương pháp đánh thuế và thời gian tính thuế hợp lý để đảm bảo thuế TNCN được áp dụng đúng với ý nghĩa của nó. Có ba nguyên tắc mà các nước áp dụng thuế TNCN cần phải tuân theo, đó là: 12
- (i) Đánh thuế TNCN trên cơ sở thu nhập thực tế Trong số các thu nhập phát sinh từ các nguồn khác nhau của một cá nhân, chỉ có phần thu nhập chịu thuế - cơ sở để đánh thuế thu nhập - là đối tượng điều chỉnh của thuế TNCN. Để phản ánh đúng khả năng kinh tế của người nộp thuế, thu nhập chịu thuế của một cá nhân luôn là thu nhập ròng - nghĩa là thu nhập thực tế của cá nhân đó sau khi đã trừ đi những chi phí cần thiết để tạo ra nó và những khoản theo quy định được phép giảm trừ. Các nước khác nhau có cách xác định thu nhập chịu thuế và thu nhập được miễn trừ trong tổng thu nhập của một cá nhân khác nhau. Thu nhập không chịu thuế thu nhập thông thường là những khoản thu nhập sau khi đã nộp thuế thu nhập hay một loại thuế tương đương ở một khâu nào đó hoặc những thu nhập nằm trong diện ưu tiên, khuyến khích theo chính sách của nhà nước. Thu nhập chịu thuế của một cá nhân, về nguyên tắc là tất cả các khoản thu nhập phát sinh, kể cả tiền và hiện vật, không phân biệt nguồn tạo ra nó (sản xuất kinh doanh, lao động, đầu tư) sau khi loại bỏ những khoản được pháp luật quy định không phải chịu thuế TNCN. Ở hầu hết các nước, thu nhập chịu thuế được xác định trong các trường hợp cụ thể sau đây: Thu nhập phát sinh từ những giao dịch trên thị trường được quy về hình thức tiền tệ. Thu nhập phát sinh từ những giao dịch trên thị trường được quy về hình thức tiền tệ trừ đi các khoản chi phí khách quan gắn liền với quá trình tạo ra thu nhập (cả chi phí sản xuất và chi phí khách quan khác). Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà các khoản chi phí miễn trừ này được quy định khác nhau. Thu nhập của các tổ chức, cá nhân phát sinh từ giao dịch trên thị trường được miễn trừ thêm một khoản thu nhập để khuyến khích những hoạt động kinh doanh, đầu tư theo đinh hướng của nhà nước. (ii) Áp dụng phương pháp lũy tiến để tính thuế TNCN 13
- Thuế suất lũy tiến được coi là phương pháp hiệu quả nhất để đánh thuế theo "khả năng nộp thuế" của cá nhân và làm tăng tính hữu dụng đối với thu nhập, giảm thiểu sự mất mát tổng thể của xã hội do tính hữu dụng của thu nhập đối với chủ càng giảm khi thu nhập càng tăng. Hiện nay, biểu thuế lũy tiến đã và đang được áp dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới vói những hình thức khác nhau. Có những quốc áp dụng biểu thuế toàn phần đối với từng loại thu nhập riêng biệt của cá nhân nhưng cũng có những quốc gia áp dụng biểu thuế lũy tiến trên toàn bộ thu nhập của cá nhân không phân biệt nguồn gốc phát sinh. (iii) Xác định đúng thời gian phát sinh thu nhập chịu thuế TNCN Thu nhập của một cá nhân được hình thành từ rất nhiều nguồn khác nhau. Chính vì vậy, việc xác định thời gian phát sinh thu nhập chịu thuế chỉ có tính tương đối về mặt thời gian. Chẳng hạn, khoản lợi tức mà cá nhân nhận được tại thời điểm hiện tại là kết quả của việc đầu tư của cá nhân đó tại quá khứ, hay khoản trả trước tiền nhà cá nhân nhận được là thu nhập ứng trước của hoạt động cho thuê nhà trong tương lai. Do vậy, để đảm báo tính khả thi và công bằng khi tính thuế, cần phải quy ước một sự phân đoạn về mặt thời gian để xác định thu nhập chịu thuế thu nhập của cá nhân. Thời gian tính thu nhập chịu thuế được áp dụng phổ biến trên thế giới thường là một năm tính thuế trùng với năm tài chính hoặc năm ngân sách. Những khoản thu nhập phát sinh trong thời gian đó là đối tượng chịu thuế thu nhập trong giai đoạn đó. 1.1.3.2 Phương pháp đánh thuế TNCN Mỗi quốc gia với những điều kiện kinh tế, xã hội, trình độ quản lý, phong tục tập quán và chính sách khác nhau có thể chọn cho mình một phương pháp riêng để đánh thuế TNCN. Trên thế giới, nhìn chung các nước đều chọn một trong ba phương pháp đánh thuế TNCN là: (i) Đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập 14
- Theo phương pháp này, thuế suất thuế TNCN có rất nhiều mức độ khác nhau áp dụng cho những thu nhập có nguồn phát sinh khác nhau. Số thuế mà một cá nhân phải nộp sẽ là tổng số thuế cá nhân đó phải nộp theo từng nguồn. Vì đánh thuế trên từng loại thu nhập nên thuế TNCN sẽ được áp dụng với toàn bộ thu nhập chịu thuế của cá nhân và phương pháp này sẽ giúp nhà nước hạn chế tình trạng trốn thuế. Tuy nhiên, phương pháp đánh thuế trên từng nguồn hình thành thu nhập vẫn không phải là không có nhược điểm. Thứ nhất, việc áp dụng mức thuế suất khác nhau đối với từng loại thu nhập khác nhau sẽ khiến cho việc tính thuế, quản lý thu thuế của nhà nước trở thành công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Thứ hai, một người có thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau, vì vậy, ranh giới để phân chia thu nhập xuất phát từ nguồn nào là rất khó chính xác. Để được hưởng mức thuế suất thấp hơn, người nộp thuế có thể sẽ gian lận trong khâu kê khai nguồn hình thành thu nhập và dẫn đến tình trạng trốn thuế. Ngoài ra, rất khó để áp dụng thuế suất lũy tiến cho phương pháp này, dẫn đến việc làm giảm tính công bằng khi đánh thuế TNCN. (ii) Đánh thuế trên tổng thu nhập Đây là phương pháp đang được hầu hết các nước phát triển trên thế giới áp dụng. Trái với phương pháp trên, ở phương pháp này, thu nhập của một cá nhân sẽ được tính tổng lại, không phân biệt nguồn hình thành thu nhập và chi phí tạo ra thu nhập. Sau đó, một biểu thuế suất lũy tiến sẽ được áp dụng chung cho toàn bộ thu nhập ròng của cá nhân đó. Phương pháp đánh thuế thu nhập này, về cơ bản, có thể khắc phục được những nhược điểm của phương pháp đánh thuế thu nhập trên từng nguồn phát sinh, do không có việc phân chia thu nhập của cá nhân. Bên cạnh đó, nó còn có ưu điểm là đơn giản, áp dụng biểu thuế lũy tiến một cách dễ dàng và hiệu quả, đạt được ý nghĩa công bằng khi đánh thuế TNCN. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là không 15