Luận văn Áp dụng pháp luật bảo hiểm tự nguyện theo luật bảo hiểm xã hội Việt Nam

pdf 121 trang vuhoa 23/08/2022 7320
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Áp dụng pháp luật bảo hiểm tự nguyện theo luật bảo hiểm xã hội Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_ap_dung_phap_luat_bao_hiem_tu_nguyen_theo_luat_bao.pdf

Nội dung text: Luận văn Áp dụng pháp luật bảo hiểm tự nguyện theo luật bảo hiểm xã hội Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ SÂM ¸P DôNG PH¸P LUËT B¶O HIÓM Tù NGUYÖN THEO LUËT B¶O HIÓM X· HéI VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ SÂM ¸P DôNG PH¸P LUËT B¶O HIÓM Tù NGUYÖN THEO LUËT B¶O HIÓM X· HéI VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGÔ HUY CƢƠNG HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Thị Sâm
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 6 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện 6 1.1.1. Quan niệm về bảo hiểm xã hội tự nguyện 6 1.1.2. Bản chất, vai trò của bảo hiểm xã hội tự nguyện 14 1.1.3. Nguyên tắc bảo hiểm xã hội tự nguyện 18 1.1.4. Quyền và trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện 24 1.2. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện 26 1.2.1. Bảo hiểm xã hội tự nguyện theo Luật BHXH Việt Nam 28 1.2.2. Bảo hiểm xã hội tự nguyện của một số nước trên thế giới 44 1.3. Khái niệm áp dụng pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 56 1.3.1. Khái niệm áp dụng pháp luật 56 1.3.2. Khái niệm áp dụng pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 56 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TỰ NGUYỆN THEO LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM 57 2.1. Đánh giá chung về tình hình triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam trong thời gian qua 57 2.2. Thực trạng triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện theo Luật Bảo hiểm xã hội 2006 63
  5. 2.2.1. Thực trạng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện 63 2.2.2. Thực trạng hoạt động thu phí và quản lý quỹ BHXH tự nguyện 71 2.2.3. Thực trạng áp dụng các chế độ của bảo hiểm xã hội tự nguyện 77 2.3. Thực trạng triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện của một số địa phƣơng trong cả nƣớc 81 2.3.1. Tỉnh Phú Yên 81 2.3.2. Tỉnh Vĩnh Phúc 86 Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ÁP DỤNG CÓ HIỆU QUẢ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN Ở VIỆT NAM 90 3.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay 90 3.1.1. Thuận lợi 90 3.1.2. Thách thức 92 3.2. Định hƣớng hoàn thiện BHXH tự nguyện ở Việt Nam hiện nay 93 3.3. Giải pháp hoàn thiện và triển khai pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam trong thời gian tới 98 3.3.1. Hoàn thiện, bổ sung quy định của pháp luật đối với chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam 99 3.3.2. Giải pháp về cách thức tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 102 KẾT LUẬN 107 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ ASXH: An sinh xã hội BH: Bảo hiểm BHXH: Bảo hiểm xã hội BHYT: Bảo hiểm y tế BHHT: Bảo hiểm hưu trí ILO: Tổ chức lao động quốc tế LLLĐ: Lực lượng lao động NLĐ: Người lao động NSDLĐ: Người sử dụng lao động NDT: Nhân dân tệ
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 1.1: Tỉ lệ đóng của NLĐ khu vực chính thức ở Indonesia 53 Bảng 1.2: Tỉ lệ đóng của NLĐ khu vực phi chính thức ở Indonesia 53 Bảng 2.1: Số người tham gia BHXH tự nguyện giai đoạn 2008-2014 64 Bảng 2.2: So sánh số người tham gia BHXH tự nguyện với lực lượng lao động và số lao động khu vực phi chính thức giai đoạn 2010- 2014 65 Bảng 2.3: Số NLĐ không được tham gia các chính sách ngắn hạn 67 Bảng 2.4: Mức đóng bình quân BHXH tự nguyện giai đoạn 2008- 2011 72 Bảng 2.5: Tình hình quản lý và sử dụng Quỹ BHXH 2013-2015 73 Bảng 2.6: Cân đối thu - chi Quỹ BHXH tự nguyện giai đoạn 2008- 2014 75 Bảng 2.7: Số người tham gia BHXH tự nguyện trong tổng lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh Phú Yên giai đoạn 2008-2014 82 Bảng 2.8: Số thu BHXH tự nguyện tại địa bàn tỉnh Phú Yên giai đoạn 2008-2014 83 Bảng 2.9: Số chi trả BHXH tự nguyện từ Quỹ BHXH tỉnh Phú Yên 84 Bảng 2.10: Số người tham gia BHXH tự nguyện tại tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2008-2014 87 Bảng 2.11: Số người tham gia BHXH tự nguyện tại tỉnh Vĩnh Phúc xét theo ngành nghề (2008-2012) 87 Bảng 2.12: Số thu BHXH tự nguyện tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2008-2014 88
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển hết sức mạnh mẽ với dấu mốc là sự kiện Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Kinh tế Việt Nam dần tiến tới hội nhập sâu và rộng với nền kinh tế thế giới, đời sống của người dân có nhiều thay đổi đáng kể. Tuy nhiên, để đảm bảo hội nhập sâu sắc và chủ động đối phó với những rủi ro trong cuộc sống cho người dân và xây dựng đất nước phát triển vững mạnh thì điều quan trọng là phải đảm bảo ổn định và công bằng xã hội. Với tư cách là trụ cột chính của hệ thống ASXH, việc chú trọng phát triển BHXH sẽ góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, chính sách BHXH luôn được Đảng và Nhà nước chú trọng phát triển trên cơ sở phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 30/1/2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X xác định: Từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống ASXH để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, xây dựng hệ thống BHXH đa dạng và linh hoạt phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng các hình thức bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện, bổ sung, sửa đổi các chế độ BHXH còn bất hợp lý, đảm bảo quyền lợi của người tham gia BHXH; tách BHXH đối với khu vực hành chính nhà nước ra khỏi khu vực doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các lĩnh vực khác. Điều chỉnh lương hưu và trợ cấp BHXH theo cơ chế tạo nguồn, độc lập tương đối với chính sách tiền lương, giảm dần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; từng bước cải thiện đời sống của người về hưu theo trình độ phát triển của nền kinh tế [27, tr.14-15]. 1
  9. Bên cạnh việc phát triển chính sách về BHXH nói chung, thì việc BHXH tự nguyện được triển khai vào năm 2008 đã mở ra sự lựa chọn cho người dân không nằm trong nhóm tham gia BHXH bắt buộc hướng tới đảm bảo đời sống ổn định. Điều này thể hiện tiềm năng phát triển BHXH tự nguyện ở nước ta là hết sức to lớn. Có thể nói BHXH tự nguyện ra đời được kỳ vọng là chỗ dựa cho người thu nhập thấp, đem đến cơ hội hưởng “lương hưu” cho hàng chục triệu người không nằm trong diện BHXH bắt buộc. Tuy nhiên, sau hơn 7 năm được triển khai thực hiện, số người tham gia BHXH tự nguyện tính đến hết 31/12/2014 mới chỉ có 196.254 người tham gia, tăng 16,8% tương ứng tăng 28.159 người so với cùng kỳ năm 2013, chỉ chiếm 1,68% tổng số người tham gia BHXH năm 2014 (bảng 2.1). Con số này cho thấy nếu không phát triển mạnh về số lượng người tham gia BHXH tự nguyện sẽ là một gánh nặng đối với quốc gia trong những năm tới do một mặt phải đảm bảo cuộc sống cho những người già chưa có lương hưu, mặt khác phải đối phó với xu hướng già hóa dân số nhanh chóng hiện nay ở nước ta. Nhưng việc phát triển BHXH tự nguyện còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là sự hấp dẫn hay sự phù hợp của chính sách này đối với NLĐ khu vực phi chính thức là một vấn đề cần xem xét. Do đó, việc nghiên cứu và đưa ra những giải pháp hữu ích đối với việc phát triển BHXH hiện nay đang trở nên thiết thực hơn bao giờ hết. Trước thực tế đó, học viên đã chọn đề tài “Áp dụng pháp luật Bảo hiểm tự nguyện theo Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Áp dụng pháp luật BHXH nói chung và áp dụng pháp luật BHXH tự nguyện nói riêng là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và đã có một số công trình có giá trị được công bố. Có thể kể đến một số công trình có giá trị liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn như sau: - Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Thu Hằng: “BHXH tự nguyện ở Việt Nam”, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2007 2
  10. - Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Thu Hương: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2007 - Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Thu Hiền: “Tham gia BHXH tự nguyện của lao động trong khu vực phi chính thức trên địa bàn phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội”, Khoa Công tác xã hội, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014 - Bài viết của tác giả Lê Thị Hoài Thu: “Bàn về BHXH tự nguyện ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7/2007 - Bài viết của tác giả Nguyễn Xuân Thu: “Chế độ BHXH tự nguyện ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học số 9/2006 - Bài viết của tác giả Mạc Tiến Anh: “Một số vấn đề về BHXH tự nguyện”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, số 10/2008 - Bài viết của tác giả Nguyễn Hùng Cường: “Nội dung cơ bản của BHXH tự nguyện và một số điểm phân biệt với BHXH bắt buộc”, Tạp chí BHXH điện tử, năm 2008 - Bài viết của tác giả Lưu Thị Thu Thủy: “Vấn đề bảo hiểm xã hội khu vực phi chính thức tại Việt Nam”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội số 10A/2009 Các công trình và bài viết trên là các tài liệu tham khảo bổ ích cho học viên trong quá trình viết luận văn. Tuy nhiên, hiệu quả thực hiện chính sách BHXH tự nguyện còn phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Vì vậy, đây là đề tài nghiên cứu đi sâu đánh giá những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện BHXH tự nguyện ở Việt Nam, qua đó thấy được nguyên nhân và có những giải pháp khắc phục cụ thể trong thời gian tới khi Luật BHXH sửa đổi 2014 có hiệu lực thi hành. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Mục tiêu cuối cùng của đề tài là phân tích, đánh giá những thành công 3
  11. và hạn chế trong việc triển khai thực hiện BHXH tự nguyện theo Luật BHXH năm 2006, qua đó chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong thực tiễn triển khai về mặt pháp luật và khâu tổ chức thực hiện. Để đạt được mục tiêu tổng quát trên, đòi hỏi phải đạt được những mục tiêu cụ thể là: Nghiên cứu cơ sở lý luận về BHXH tự nguyện theo Luật BHXH; Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện chính sách BHXH tự nguyện; Đề xuất những giải pháp có tính khoa học góp phần phát triển BHXH tự nguyện, tạo điều kiện thuận lợi để NLĐ tiếp cận và tham gia vào BHXH tự nguyện ngày càng rộng rãi hơn. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề về BHXH tự nguyện theo Luật BHXH. - Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào những vấn đề lý luận của pháp luật về BHXH tự nguyện tại Việt Nam và đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về BHXH tự nguyện ở Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học Mác - Lênin, như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử cụ thể và một số phương pháp của các bộ môn khoa học khác, như: phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống. - Phương pháp thu thập, xử lý thông tin từ bản công bố số liệu, tạp chí, số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. - Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để khái quát hóa nội dung nghiên cứu một cách hệ thống, làm cho các vấn đề nghiên cứu trở nên súc tích, dễ hiểu. 4
  12. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Hệ thống hóa được những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật BHXH tự nguyện; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp tăng cường áp dụng có hiệu quả BHXH tự nguyện tại Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, cụ thể: Chương 1: Khái quát chung về BHXH tự nguyện và sự điều chỉnh của pháp luật đối với BHXH tự nguyện Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tự nguyện theo Luật BHXH Việt Nam Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm áp dụng có hiệu quả quy định pháp luật về BHXH tự nguyện ở Việt Nam 5
  13. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.1.1. Quan niệm về bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.1.1.1. Bảo hiểm xã hội Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, con người thông qua lao động để nuôi sống bản thân mình. Song, không phải lúc nào lao động cũng tạo ra của cải vật chất, tạo ra thu nhập để phục vụ cho con người. Con người có lúc phải đối mặt với những khó khăn do tự nhiên đem lại hoặc gặp những biến cố rủi ro bất ngờ xảy ra như bị ốm đau, bị tai nạn lao động, bị mất khả năng lao động hay suy giảm khả năng lao động Điều này dẫn đến việc con người phải nương tựa nhau và cùng giúp đỡ nhau để giải quyết vấn đề bằng nhiều cách khác nhau. Trong xã hội khi con người gặp những biến cố trên họ liên kết với nhau trên tinh thần đoàn kết tương trợ giữa các thành viên trong cộng đồng để gánh vác sẻ chia bớt khó khăn. Và một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để dàn trải những rủi ro bất lợi cho NLĐ là tiến hành lập một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia và tiến hành bảo hiểm cho các đối tượng NLĐ trong phạm vi của quỹ này. Cho tới nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận được hưởng dịch vụ ASXH là một trong những quyền của con người trong mọi thời đại và mọi chế độ xã hội. Việc thực hiện ASXH không bị giới hạn bởi bất kỳ rào cản chính trị hay địa lý nào, thể hiện rõ nhất đó là các hoạt động cứu trợ xã hội, các hiệp định hợp tác về BHXH giữa các quốc gia vì một thế giới hoà bình, ổn định và phát triển. An sinh xã hội ngày càng chứng minh được vai trò quan trọng đối với mỗi quốc gia trên 6
  14. thế giới [48, tr.2]. Bảo hiểm xã hội được ra đời và lần đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ XIX dưới thời thủ tướng Bismarck của Đức, để trợ giúp cho NLĐ gặp rủi ro biến cố bị suy giảm hay mất khả năng lao động dẫn đến bị suy giảm hay mất thu nhập. Trong hệ thống này đã tồn tại các chế độ: ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già và tàn tật. Có thể nói BHXH của Đức ra đời, tồn tại và phát triển đã đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển hệ thống BHXH trên thế giới, đặc biệt việc ghi nhận cơ chế ba bên trong việc đóng góp quỹ BHXH, bao gồm: giới chủ, giới thợ và Nhà nước. Thực tế đã chứng minh BHXH là một chính sách xã hội có lịch sử khá lâu và đã có nhiều thay đổi về chất với nhiều mô hình phong phú, được thực hiện ở hàng trăm nước trên thế giới. Với tác dụng tích cực của chính sách BHXH mà nhiều nước trên thế giới thiết lập hệ thống quốc gia về BHXH như Pháp (1930), Hoa Kỳ (1935) Liên hợp quốc đã ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền 1948 (10/12/1948) như sau: Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng BHXH. Quyền đó được đặt trên sự thỏa thuận các quyền về kinh tế - xã hội và văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người. Công ước số 102 (1952) của Tổ chức Lao động Quốc tế là công ước quy định các quy phạm tối thiểu về ASXH, trong đó các chế độ BHXH là nòng cốt, đưa ra khuyến nghị về các chế độ BHXH đối với các nước thành viên. Tuy nhiên, cho đến nay định nghĩa thế nào là BHXH vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận với nhiều quan điểm và được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau: Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua các biện pháp cộng đồng, nhằm chống lại các khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra sự ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho gia đình đông con [31, tr.6]. 7
  15. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho NLĐ và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội [31, tr.7]. Theo Luật BHXH 2006 và nay là Luật BHXH sửa đổi 2014 giải thích khái niệm: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH” [41, Điều 3]. Theo quy định pháp luật thì BHXH bao gồm hai loại hình bảo hiểm là BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Mặt khác, do đặc thù về bản chất luôn thực hiện đồng thời cả hai mục đích chính trị, xã hội và kinh tế, nên BHXH còn được tiếp cận và nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau: Dưới góc độ xã hội, BHXH là sự liên kết của NLĐ, NSDLĐ và sự hỗ trợ của Nhà nước xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội. Khi tham gia quan hệ BHXH thì NLĐ sẽ được hưởng một khoản trợ cấp nhất định nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định. Bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho NLĐ khi họ gặp những rủi ro, biến cố trong cuộc sống, qua đó đã góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Trong cuộc sống, khi NLĐ gặp rủi ro thì việc khắc phục những khó khăn về tài chính, chi phí khám chữa bệnh và an dưỡng tuổi già là những nhu cầu thiết yếu. Vì vậy, Nhà nước cần thiết phải có giải pháp để giải quyết những vấn đề phát sinh xảy ra đối với NLĐ, nhằm giúp họ vượt qua khó khăn, ổn định đời sống, đồng thời cũng là giải pháp nhằm ổn định xã hội. Khi đó, vai trò của BHXH được thể hiện rõ nét là sự bù 8
  16. đắp thu nhập cho NLĐ, giữ vững nền sản xuất, đảm bảo ổn định xã hội. Vì vậy, dưới góc độ xã hội BHXH là một bộ phận quan trọng trong nội dung của hệ thống bảo đảm xã hội “bảo đảm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để đối phó khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngưng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và việc trợ cấp cho các gia đình đông con”. Do vậy, xét về bản chất xã hội thì BHXH có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thực hiện mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội. Dưới góc độ kinh tế, BHXH được hiểu là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ sự đóng góp của NSDLĐ và NLĐ, đó là quỹ tiền tệ dự trữ của cộng đồng nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết những nhu cầu sinh sống thiết yếu của NLĐ và gia đình họ khi họ gặp những rủi ro dẫn đến việc giảm hoặc mất khả năng thanh toán từ thu nhập của họ. Trong quá trình lao động con người không tránh khỏi những rủi ro như: ốm đau, bệnh tật, mất việc làm, tai nạn lao động . Do đó để đảm bảo cuộc sống NLĐ phải có đủ khả năng tài chính để đảm bảo cho việc trang trải và bù đắp những tổn thất khi xảy ra. Khi đó, NLĐ sẽ đóng góp một khoản tiền vào nguồn quỹ chung (gọi là quỹ BHXH), khi họ gặp rủi ro thì quỹ BHXH thực hiện chức năng hỗ trợ, bù đắp phần thu nhập đó cho NLĐ, nhằm giúp họ ổn định cuộc sống. Chính vì vậy, để ổn định cuộc sống NLĐ phải tìm đến các biện pháp đảm bảo thu nhập cho chính mình trong những trường hợp rủi ro. Do vậy, dưới góc độ kinh tế, BHXH thể hiện quá trình phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm, thông qua việc hình thành quỹ tiền tệ chung. Dưới góc độ pháp lý, BHXH là tổng thể các quy định của Nhà nước về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên khi tham gia vào quan hệ BHXH; mức đóng góp, phương thức đóng góp và mức hưởng đối với những đối tượng 9
  17. áp dụng BHXH. Trên cơ sở các quy định pháp luật buộc các bên tham gia phải tuân thủ nghiêm khắc và có các chế tài cụ thể khi vi phạm. Khi được Nhà nước điều chỉnh bằng pháp luật, BHXH đã trở thành quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên tham gia, xét trên cả bình diện quốc gia và quốc tế. Như vậy, về phương diện pháp lý BHXH là tổng hợp các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ NLĐ; sử dụng nguồn đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm (hoặc gia đình của họ) trong trường hợp ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao động hoặc chết. Tóm lại BHXH là sự tổ chức “đền bù” hậu quả của những “rủi ro xã hội” hoặc các sự kiện bảo hiểm. Sự đền bù này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH. Như vậy, BHXH là quá trình phân phối lại thu nhập hay đó là việc “bảo hiểm” nguồn thu nhập cho NLĐ. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của tổng sản phẩm trong nước (GDP), được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, già yếu, chết Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối của BHXH được thực hiện theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối của chính bản thân NLĐ theo thời gian (nghĩa là sự phân phối lại thu nhập của quá trình làm việc và quá trình không làm việc). Phân phối theo chiều dọc là sự phân phối giữa những người khỏe mạnh cho người ốm đau, bệnh tật, giữa những người trẻ cho người già; giữa những người không sinh đẻ (nam giới) và người sinh đẻ (nữ giới); giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế cho NLĐ và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu 10
  18. nhập cá nhân và GDP để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế của NLĐ và an toàn xã hội. 1.1.1.2. Bảo hiểm xã hội tự nguyện Bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện khá rộng trên thế giới, đầu tiên là ở Anh và ở Đức với những quỹ khác nhau do các hội tương tế, hội nghề nghiệp quản lý [34, tr.7]. BHXH bước đầu được hình thành theo hình thức tự nguyện, sau này do tác dụng to lớn của nó Nhà nước đứng ra tổ chức, hỗ trợ và dần quy định thành BHXH bắt buộc. Từ đó đến nay BHXH bắt buộc đã trở thành chính sách xã hội chủ yếu của các quốc gia nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu ASXH của Nhà nước, bên cạnh đó BHXH tự nguyện vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển, góp phần bổ sung cho BHXH bắt buộc. Cho tới nay, do kinh tế xã hội phát triển và nhu cầu của con người nâng lên thì BHXH tự nguyện đã được xây dựng và thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới và quyền BHXH đã trở thành một quyền cơ bản của con người. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc ngày 10/12/1948 ghi nhận rằng: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội, có quyền được hưởng bảo hiểm xã hội. Quyền đó được đặt trên sự thỏa mãn các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội, cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”. Ở Việt Nam, mầm mống của BHXH được thực hiện dưới dạng tương thân, tương ái, gắn liền với cộng đồng làng xã nhằm cưu mang, giúp đỡ những người gặp rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống. Thời kỳ này, các hình thức hoạt động chủ yếu là lập các quỹ như quỹ phụ điền, quỹ cô nhi điền để giúp bà góa, con côi. Ở một số địa phương còn lập ra quỹ điền, quỹ nghĩa thương của những người hảo tâm để dùng vào việc nghĩa. Những loại quỹ này được người dân tự giác tham gia và có sự giám sát của làng, xã nên được sử dụng đúng mục đích. Ngoài ra, ở các làng nghề đã hình thành các loại phường hội nghề nghiệp để tương trợ giúp đỡ lẫn nhau không chỉ trong 11
  19. nghề nghiệp mà cả trong cuộc sống nếu không may gặp rủi ro. Về cơ sở pháp lý thì chính sách BHXH tự nguyện đã được Bộ Luật lao động quy định từ năm 1994, với đối tượng áp dụng là xã viên trong Hợp tác xã và NLĐ không làm công ăn lương, nhưng do nhiều nguyên nhân nên thời kỳ đó chưa được thực hiện chính sách bảo hiểm này. Cho đến khi Luật BHXH 2006 ra đời thì BHXH tự nguyện mới được áp dụng và triển khai từ năm 2008 đến nay. Có vai trò quan trọng trong việc giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, cải thiện đời sống cho các đối tượng tham gia, bảo đảm ASXH bền vững, BHXH phát triển rộng rãi bảo đảm cho mọi NLĐ đều được tham gia thì trong xã hội xuất hiện thêm hình thức BHXH tự nguyện. Hiện nay, trên thế giới tồn tại hai mô hình BHXH tự nguyện là BHXH tự nguyện áp dụng như một hình thức BHXH bổ sung cho BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện mở cho bất cứ NLĐ nào tự nguyện tham gia. Mặc dù mang tính chất tự nguyện nhưng đây là chính sách do Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên khi tham gia. Nhà nước quy định mức đóng góp để hình thành quỹ BHXH tự nguyện đủ lớn để chi trả cho người tham gia BHXH tự nguyện và xây dựng các chế độ mà người tham gia BHXH được hưởng (bao gồm điều kiện hưởng, mức hưởng) để đảm bảo bù đắp rủi ro cho người tham gia BHXH tự nguyện. Từ góc độ tiếp cận đó, có thể hiểu BHXH tự nguyện là một loại hình BHXH do Nhà nước ban hành để đảm bảo việc thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với NLĐ bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự tự nguyện đóng góp từ một phần thu nhập của NLĐ, NSDLĐ, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho NLĐ và cho gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Do điều kiện kinh tế - xã hội và chính trị của mỗi nước khác nhau nên hệ thống BHXH của các nước xây dựng khác nhau, chứ không có mô hình tổ chức BHXH chung cho tất cả các quốc gia. Tuy mô hình không giống nhau 12
  20. nhưng về cơ chế hình thành và mục đích hoạt động của BHXH tự nguyện ở các nước trên thế giới gần như có sự tương đồng. Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một hình thức BHXH do Nhà nước tổ chức và quản lý hoặc do cộng đồng NLĐ tổ chức với sự tham gia tự nguyện của các thành viên nhằm đảm bảo thu nhập để thỏa mãn nhu cầu sinh sống thiết yếu của NLĐ và gia đình họ khi gặp phải những rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Hoặc có thể hiểu BHXH tự nguyện là loại hình BHXH mà NLĐ tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH. Theo đó, loại hình BHXH tự nguyện chỉ có thể được hình thành và thực hiện trên ba điều kiện cơ bản như sau: có nhiều NLĐ tham gia và có thể cả NSDLĐ tự nguyện tham gia với điều kiện là có nhu cầu thực sự về BHXH; có khả năng tài chính để đóng phí; có tổ chức, cơ quan đứng ra thực hiện BHXH tự nguyện; được Nhà nước bảo hộ và hỗ trợ khi cần thiết. Ở Việt Nam, khái niệm BHXH tự nguyện được Luật BHXH 2006 và nay là Luật BHXH sửa đổi 2014 quy định: BHXH tự nguyện là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất [42, Điều 3]. Như vậy, có thể thấy BHXH tự nguyện chính là dạng trợ cấp xã hội nhằm bảo đảm thu nhập cho NLĐ, mà đối tượng chủ yếu của loại hình bảo hiểm này hướng tới là những NLĐ không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Khái niệm về BHXH tự nguyện nước ta thể hiện rõ mục đích phi thương mại và có sự bảo hộ của nhà nước thông qua quá trình đóng góp và quản lý quỹ BHXH, thông qua đó Nhà nước bảo hộ các hoạt động của quỹ BHXH và nhằm mục đích bảo đảm an toàn xã hội và tạo động lực hữu hiệu để 13
  21. phát triển kinh tế. Tuy định nghĩa khác nhau, nhưng xét về bản chất các khái niệm trên đều bao hàm những nội dung cơ bản của BHXH là sự bù đắp thu nhập cho NLĐ và trong một số trường hợp còn là gia đình của họ trong những trường hợp nhất định mà dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập và dựa trên cơ sở có sự đóng góp vào quỹ BHXH. 1.1.2. Bản chất, vai trò của bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.1.2.1. Bản chất của bảo hiểm xã hội tự nguyện Mục tiêu của hoạt động BHXH là nhằm thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước, bảo đảm cho NLĐ các khoản trợ cấp tối thiểu khi gặp những rủi ro. BHXH tự nguyện cũng hội đủ những mục tiêu và chức năng của BHXH nói chung. Do vậy, về bản chất BHXH tự nguyện cũng là chính sách vừa mang bản chất xã hội vừa mang bản chất kinh tế, cụ thể: Bản chất xã hội của BHXH tự nguyện được thể hiện ngay trong mục tiêu của chính sách này. Mục tiêu của bất kì hệ thống BHXH nào cũng là mục tiêu xã hội. Không nằm ngoài hệ thống BHXH nói chung nên BHXH tự nguyện hoạt động hoàn toàn vì mục đích đảm bảo an toàn xã hội, chứ không vì mục tiêu lợi nhuận. Điều này được thể hiện thông qua việc chi trả chế độ BHXH, người tham gia BHXH tự nguyện sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Do có sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHXH tự nguyện nên mặc dù chỉ đóng một phần nhỏ trong thu nhập của mình vào quỹ BHXH tự nguyện, nhưng có thể được bồi hoàn một khoản thu nhập đủ lớn để giúp đỡ họ trang trải rủi ro. BHXH tự nguyện được hiểu như một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho NLĐ khi thu nhập của họ bị giảm, bị mất. Trên góc độ vĩ mô, BHXH tự nguyện góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo. Bản chất kinh tế của BHXH tự nguyện thể hiện ở việc những người tham gia cũng đóng góp một khoản tiền trích trong thu nhập (khoản đóng góp 14
  22. này sau khi chi tiêu cho các nhu cầu tối thiểu và các nhu cầu cần thiết và không ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất – kinh doanh của cá nhân) để lập một quỹ tài chính dự trữ. Mục đích của việc hình thành quỹ này để trợ cấp cho những người tham gia BHXH tự nguyện khi gặp rủi ro dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập. Cũng giống như BHXH, BHXH tự nguyện cũng là quá trình phân phối lại thu nhập hay chính là “bảo hiểm” thu nhập cho người lao động. Ngoài mục đích bảo toàn và phát triển nguồn quỹ BHXH nhãn rỗi, BHXH tự nguyện còn có khả năng đầu tư lại nền kinh tế thông qua các chương trình, dự án kinh tế, dự án xã hội, phát huy tác dụng to lớn mang lại hiệu quả và những đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng đất nước, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế hiện nay. Như vậy, hoạt động BHXH tự nguyện không vì mục tiêu lợi nhuận, mà hoạt động vì mục đích đảm bảo sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp phần ổn định và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Điều này giải thích tại sao BHXH được coi là một chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH tự nguyện không tách rời nhau, mà đan xen với nhau. Các hình thức bảo hiểm thương mại hoạt động với mục đích mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư, nhưng chính sách BHXH tự nguyện lại nhằm mục tiêu xã hội rõ nét nhất. Trên thực tế chức năng này được thể hiện thông qua tổ chức quản lý BHXH, đây là tổ chức dịch vụ công do Nhà nước thành lập và hoạt động nhằm phục vụ mục đích do nhà nước đặt ra. Quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất, việc đầu tư quỹ BHXH không nhằm mục đích kinh doanh, không mang lại lợi ích cho cá nhân khi thực hiện hoạt động đó và mục tiêu cuối cùng là nhằm phục vụ sự nghiệp BHXH, đảm bảo thu nhập cho NLĐ. Do đó, khi nói đến sự đảm bảo kinh tế cho NLĐ và gia đình họ là nói đến tính xã hội của BHXH. Ngược lại, khi nói đến sự đóng góp ít nhưng lại được bù đắp đủ trang trải mọi rủi ro, thì cũng đề cập đến tính kinh tế của BHXH. 15