Tóm tắt Luận án Quản lí giáo dục quốc phòng-an ninh cho sinh viên các trường đại học Việt Nam trong bối cảnh mới

pdf 24 trang vuhoa 25/08/2022 2140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Quản lí giáo dục quốc phòng-an ninh cho sinh viên các trường đại học Việt Nam trong bối cảnh mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_quan_li_giao_duc_quoc_phong_an_ninh_cho_sinh.pdf

Nội dung text: Tóm tắt Luận án Quản lí giáo dục quốc phòng-an ninh cho sinh viên các trường đại học Việt Nam trong bối cảnh mới

  1. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Về mặt lí luận Bối cảnh thế giới và trong nước Bảo vệ Tổ quốc luôn luôn là nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia, thực tế cho thấy các thế lực thù địch luôn dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc CNXH ở mỗi nước. Thực tế, vào những năm giữa thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không dễ gì dùng bạo lực vũ trang để tiêu diệt CNXH ở mỗi nước hay trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy, chúng phải thay đổi bằng chiến lược, cùng v ới thủ đoạn dùng sức mạnh quân sự để răn đe, đã chú trọng sử dụng biện pháp “hoà bình” nhằm chống phá và lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN). Chiến lược “diễn biến hoà bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, sử dụng tổng hợp các biện pháp phi vũ trang nhằm làm suy yếu từ bên trong và tiến tới lật đổ các nước XHCN. Nội dung chính của chiến lược “diễn biến hoà bình” là kẻ thù sử dụng mọi thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, đối ngoại, an ninh , kết hợp răn đe quân sự để phá hoại, làm suy yếu từ bên trong các nước XHCN. Kích động các mâu thuẫn trong xã hội, tạo ra các lực lượng chính trị đối lập núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, sắc tộc, khuyến khích tư nhân hoá về kinh tế và đa nguyên về chính trị. Truyền bá mô hình về chính trị, kinh tế, tư tưởng và lối sống của chủ nghĩa tư bản, làm mơ hồ giai cấp và đấu tranh giai cấp trong nhân dân lao động. Đặc biệt, chúng coi trọng khích lệ lối sống tư sản và từng bước làm phai nhạt mục tiêu, lí tưởng XHCN ở một bộ phận học sinh, sinh viên (HS,SV); triệt để khai thác và lợi dụng những khó khăn, thiếu sót của Đảng, Nhà nước XHCN trên các lĩnh vực đời sống xã hội, tạo nên sức ép; từng bước chuyển hoá và thay đổi đường lối chính trị, chế độ xã hội. Mục đích sử dụng chiến lược “diễn biến hoà bình” của kẻ thù nhằm làm suy yếu từ bên trong và tiến tới lật đổ chế độ XHCN. Chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch là một trong những nguyên nhân dẫn
  2. 2 đến sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô vào đầu thập niên cuối thế kỷ XX. Âm mưu, thủ đoạn chống phá của địch đối với cách mạng Việt Nam: Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mĩ và các thế lực phản động quốc tế đang tích cực, điên cuồng thực hiện các biện pháp chống phá cách mạng thế giới một cách quyết liệt nhằm xoá bỏ hoàn toàn các nước XHCN còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Phương thức tiến hành chủ yếu mà Mĩ và các thế lực phản động sẽ sử dụng chống phá cách mạng Việt Nam là thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ và có thể trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược. Chúng chủ trương lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam trước hết và chủ yếu bằng “diễn biến hoà bình”. Nhưng để nhanh chóng đạt được mục đích đề ra và tạo áp lực lớn đ ối với nước ta, chúng sẽ kết hợp các thủ đoạn “diễn biến hoà bình” với bạo loạn lật đổ. “Diễn biến hoà bình” để tạo thêm những yếu tố gây mất ổn định chính trị, làm rối loạn trật tự xã hội nhất là những vùng trọng điểm, các thành phố lớn, gây tâm lí hoang mang dao động trong nhân dân. Đồng thời chuẩn bị lực lượng, điều kiện và thời cơ để tiến hành bạo loạn lật đổ chính quyền, chế độ XHCN, khi chúng cho là thuận lợi. Mục tiêu chiến lược “diễn biến hoà bình” của địch là thúc đẩy tự do hoá về chính trị và kinh tế từ đó chuyển hoá Việt Nam theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Lôi kéo Việt Nam từng bước phụ thuộc vào Mĩ, gây ảnh hưởng của chúng ở Việt Nam và các nước có liên quan, tạo bàn đạp phát triển đến các nước khác. Biện pháp chiến lược “diễn biến hoà bình” của chúng là: thực hiện chống phá toàn diện trên các lĩnh vực chính trị tư tưởng, tổ chức nhân sự, văn hoá thông tin, kinh tế-xã hội, tôn giáo và dân tộc, ngoại giao, quân sự. Thực hiện bạo loạn lật đổ nhằm lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, lật đổ chế độ XHCN, lật đổ chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương. Bạo loạn lật đổ mang tính chất quyết liệt, phức tạp, quy mô có thể từ nhỏ đến lớn, từ một vài nơi, một vài khu vực đến nhiều nơi, nhiều khu vực; có thể xảy ra đồng thời ở khắp các địa phương trên phạm vi cả nước. Các lực lượng phản động bên trong và bên ngoài sẽ lợi dụng các cơ quan hợp pháp như đại sứ quán, các cơ quan
  3. 3 đại diện nước ngoài, trụ sở các tổ chức tôn giáo các địa điểm bí mật được chuẩn bị trước để chỉ đạo hoạt động bên trong và liên lạc với bên ngoài. Khi bạo loạn lật đổ xảy ra nhanh chóng tuyên bố thành lập chính quyền, công bố cương lĩnh đường lối hành động và kêu gọi nước ngoài, các tổ chức quốc tế ủng hộ, công nhận. Chủ nghĩa đế quốc có thể sử dụng lực lượng phản ứng nhanh can thiệp, hỗ trợ lực lượng bạo loạn lật đổ và nhanh chóng hợp pháp hoá hành động của lực lượng phản động. Đối với sinh viên các trường đại học Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục (có hiệu lực từ ngày 01/7/2010) xác định: Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giáo dục quốc phòng - an ninh (GDQP-AN) là bộ phận của nền giáo dục quốc dân, một nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; là môn học chính khóa trong chương trình giáo dục đào tạo, từ trung học phổ thông (THPT) đến đại học (ĐH) và các trường chính trị, hành chính, đoàn thể. Nhằm góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện, hiểu biết một số nội dung cơ bản về quốc phòng (QP), an ninh (AN); truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân với bảo vệ Tổ quốc; nâng cao lòng yêu nước, yêu CNXH; có ý thức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; có kiến thức cơ bản về đường lối QP, AN và công tác quản lí nhà nước về QP, AN; có kĩ năng QP, QS, AN cần thiết để tham gia sự nghiệp xây dựng, củng cố nền QP toàn dân, AN nhân dân sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trải qua hơn 50 năm, kể từ khi có Nghị định số 219/CP (28/12/1961) của Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ) về việc huấn luyện quân sự phổ thông (đã được đưa vào giảng dạy) cho HS,SV từ THPT đến ĐH. Từ năm 1991, sau khi có Quyết định số 2732/QĐ ngày 28/10/1991 của Bộ trưởng Bộ GDĐT, môn học được đổi thành GDQP và ngày nay là môn GDQP-AN (Quyết định số 81/2007/QĐ-BGDĐT
  4. 4 ngày 24/12/2007 của Bộ trưởng Bộ GDĐT ban hành Chương trình GDQP-AN trình độ ĐH, CĐ). 1.2. Về mặt thực tiễn Đến năm học 2011-2012, trên toàn quốc có 414 trường ĐH, CĐ (188 trường ĐH: 138 công lập, 50 ngoài công lập; 412 trường CĐ: 196 công lập, 30 ngoài công lập) với 2.162.106 SV (ĐH: 1.435.887 SV, CĐ: 726.219 SV). Về mạng lưới GDQP- AN đến nay trên toàn quốc có 35 TT GDQP-AN (16 trung tâm được thành lập theo Quyết định số 07/2003/QĐ-TTg ngày 09/01/2003 của Thủ trướng Chính phủ Phê duyệt Quy hoạch Hệ thống TT GDQP SV giai đoạn 2001-2010; 16 trung tâm được thành lập theo Quyết định số 638/QĐ-TTg ngày 21/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án thành lập TT GDQP-AN tại các nhà trường quân đội giai đoạn 2009-2015 và những năm tiếp theo và 3 TT GDQP-AN Bộ GDĐT tạo thành lập), 13 khoa và 26 bộ môn (hoặc tổ) GDQP-AN với gần 573 cán bộ quản lí và giảng viên. Tại Sở GDĐT của 26 tỉnh, thành phố trọng điểm được biên chế sĩ quan biệt phái; các trường THPT và TCCN được biên chế giáo viên giảng dạy môn GDQP-AN . Hơn 50 năm qua GDQP-AN đã thu được những kết quả đáng khích lệ, môn học đã trang bị cho lớp trẻ những kiến thức về QP, AN, nền nếp, tác phong, kỷ luật quân đội, lớp lớp HS,SV trong thời chiến đã lên đường làm nhiệm vụ đánh giặc giải phóng dân tộc, góp phần thống nhất đất nước; trong thời bình đã góp phần không nhỏ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, GDQP -AN cho SV các trường ĐH còn bộc lộ một số hạn chế như sau: - Mạng lưới về GDQP-AN trong hệ thống giáo dục quốc dân còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng; - Đội ngũ giảng viên còn nhiều bất cập: Thiếu về số lượng và số giảng viên chưa đạt chuẩn vẫn còn; - Đầu tư CSVC, phương tiện dạy học cho GDQP -AN chưa ngang tầm nhiệm vụ; việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy ít được quan tâm; - Xây dựng chính sách và thực hiện chính sách đối với giảng viên và cán bộ quản lí còn chậm.
  5. 5 Công tác GDQP-AN cho HS,SV được Đảng, Nhà nước, nhân dân đặc biệt quan tâm như đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị định về GDQP-AN và Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch Hệ thống TTGDQP-AN cho SV; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về phát triển GDĐT có đoạn: “Giải pháp then chốt là đổi mới và nâng cao năng lực quản lí nhà nước trong giáo dục và đào tạo”; Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định: “Sớm đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là bậc đại học”. Trước những đòi hỏi lớn lao của yêu cầu đổi mới giáo dục ĐH, với thực trạng công tác GDQP-AN hiện nay và từ cơ sở pháp lí được trình bày ở trên, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Quản lí giáo dục quốc phòng-an ninh cho sinh viên các trường đại học Việt Nam trong bối cảnh mới”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn về quản lí GDQP -AN cho SV các trường ĐH, đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lí GDQP-AN cho SV các trường ĐH Việt Nam trong bối cảnh mới. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Công tác GDQP-AN cho SV các trường ĐH. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Quản lí GDQP-AN cho SV các trường ĐH Việt Nam trong bối cảnh mới. 4. Giả thuyết khoa học Giáo dục quốc phòng-an ninh cho SV các trường ĐH đã thu được nhiều kết quả. Tuy nhiên công tác này còn bộc lộ một số bất cập: - Nhận thức chưa được sâu sắc ở mọi cấp. - Mục tiêu, nội dung, phương pháp chưa gắn kết theo xu thế hiện đại. - Người dạy, người được huấn luyện chưa có động lực mạnh mẽ. - Cơ sở vật chất, phương tiện dạy học còn thiếu. Giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên hiện nay có vị trí vai trò quan trọng Nếu đề xuất được các giải pháp quản lí GDQP-AN cho SV các trường ĐH bao quát tính tổng thể của quá trình huấn luyện dạy học thì sẽ tăng cường được kết quả GDQP-AN cho SV các trường ĐH Việt Nam trong bối cảnh mới.
  6. 6 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ cụ thể sau đây: 5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về quản lí GDQP-AN cho SV các trường ĐH. 5.2. Đánh giá thực trạng quản lí GDQP-AN cho SV các trường ĐH hiện nay. 5.3. Đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lí GDQP-AN cho SV các trường ĐH Việt Nam trong bối cảnh mới. 6. Phạm vi nghiên cứu 6.1. Nghiên cứu quản lí GDQP-AN cho SV các trường ĐH khu vực phía Bắc. 6.2. Đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian thực hiện đổi mới giáo dục. 7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp luận a) Quan điểm tiếp cận hệ thống Giáo dục quốc phòng-an ninh cho SV là quá trình bao gồm: mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp đào tạo SV ở trình độ ĐH; GDQP -AN cho SV các trường ĐH nhằm góp phần hoàn thiện nhân cách người SV trong bối cảnh mới. b) Quan điểm duy vật lịch sử: Nhìn nhận vấn đề trong mối quan hệ với phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Tổ chức thực hiện quản lí GDQP-AN cho SV các trường ĐH phù hợp với tình hình giáo dục Việt Nam trong bối cảnh mới. 7.2. Phương pháp nghiên cứu 7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận + Mục tiêu: Làm sáng tỏ lý luận GDQP -AN cho SV trong thời kỳ đổi mới. + Nội dung: Nội dung chương trình, cách thức giảng dạy, lực lượng giảng dạy, điều kiện giảng dạy. + Cách thức tổ chức: Vừa lấy ý kiến các nhà lý luận vừa đi thực địa, kết hợp 2 yếu tố hình thành tư liệu. 7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Tổng kết kinh nghiệm quản lí GDQP-AN cho SV tại một số trường ĐH. - Phương pháp chuyên gia: Tiếp cận với chuyên gia, xin ý kiến về đánh giá tình hình và các biện pháp nâng cao hiệu quả GDQP-AN.
  7. 7 - Điều tra khảo sát thực tế (phát phiếu hỏi): + Đối tượng: Cán bộ quản lí, giảng viên và sinh viên. + Số lượng: CBQL, GV là 300 phiếu và SV là 1.000 phiếu. - Quan sát: Thăm và dự giờ một số buổi học tại cơ sở đào tạo - Phỏng vấn (đối với một số GV và SV) 7.2.3. Phương pháp thực nghiệm - Thực nghiệm tại 02 TT GDQP-AN (Hà Nội 1 và Hà Nội 2). 8. Các luận điểm bảo vệ 8.1. Giáo dục quốc phòng-an ninh cho SV các trường ĐH là một nội dung GD quan trọng, góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho SV, tăng cường ý thức, trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; 8.2. Giáo dục quốc phòng-an ninh được thực hiện qua việc tổ chức huấn luyện. Việc huấn luyện phải được đặt trên cơ sở bảo đảm được tính tổng thể của quá trình đào tạo qua việc gắn kết các nhân tố: mục tiêu, nội dung, phương pháp, người dạy, người học, cơ sở vật chất; 8.3. Quản lí quá trình (huấn luyện) này phải chú ý cả bốn vấn đề: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá. 9. Cấu trúc của luận án gồm Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, Luận án gồm 3 chương: Chương 1. Cơ sở lí luận của quản lí giáo dục quốc phòng-an ninh cho sinh viên các trường đại học Việt Nam Chương 2. Cơ sở thực tiễn của quản lí giáo dục quốc phòng-an ninh cho sinh viên các trường đại học Việt Nam Chương 3. Giải pháp tăng cường quản lí giáo dục quốc phòng-an ninh cho sinh viên các trường đại học Việt Nam trong bối cảnh mới
  8. 8 Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH MỚI Chương này gồm các yếu mục: 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài 1.3. Đặc điểm quản lý GDQP-AN cho SV các trường ĐH trong tình hình mới 1.4. Các vấn đề cốt yếu quản lý GDQP-AN cho SV các trường ĐH Nghiên cứu sinh xin trình bày chi tiết những vấn đề sau: 1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1.1.1. Trên thế giới Ở nước Liên Xô (trước đây) và Liên Bang Nga (ngày nay), việc nghiên cứu, quản lý công tác giáo dục ý thức QP cho cán bộ, viên chức, HS,SV được Nhà nước Nga đặc biệt quan tâm. Trong các công trình “Các vấn đề giáo dục quân sự”, do E.G.Vapilin và Đại tá Q.Đ.Mulinva viết năm 2001: “Những quan điểm phương pháp luận về xây dựng học thuyết giáo dục quân sự ở Nga” đã phần nào phản ảnh được yêu cầu bức thiết quản lý giáo dục quốc phòng cho thế hệ trẻ ở Nga trước sự vận động, phát triển mau lẹ của tình hình quốc tế và đất nước Nga hiện nay. Ở Trung Quốc, GDQP do Bộ Quốc phòng đảm nhiệm. Theo kế hoạch năm của Chính phủ, từng trường ĐH đưa SV tới các đơn vị quân đội để học GDQP với thời gian 2 tháng. Khoảng thời gian này các đơn vị quân đội cho bộ đội học dã ngoại ngoài doanh trại. Doanh trại quân đội lúc này trở thành các TT GDQP. 1.1.2. Ở Việt Nam Dựng nước phải đi đôi với giữ nước, đó là một trong những quy luật đã được dân tộc ta đúc kết hàng ngàn năm lịch sử. Dưới chế độ phong kiến, các triều đại trị vì đất nước tuy mạnh yếu khác nhau nhưng lúc nào cũng quan tâm đến kế sách giữ nước. Việc chiêu tập binh mã, việc rèn quân, luyện quân, việc khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là những kế sách có giá trị như những tài liệu khoa học về QP của dân tộc. Từ năm 1961, thực hiện Nghị định 219/CP của Hội đồng Chính phủ, “Huấn luyện quân sự được đặt thành một môn học chính trong nhà trường phổ thông. Năm 1966, Bộ Đại học-Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ GDĐT) ban hành chương
  9. 9 trình huấn luyện quân sự thống nhất trong các trường ĐH, CĐ và THCN. Nội dung chương trình chủ yếu hướng vào huấn luyện kiến thức quân sự phổ thông và kỹ năng quân sự cơ bản. Đến năm 1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành Chỉ thị 420/CT về GDQP và đào tạo sĩ quan dự bị trong HS,SV; tiếp tục khẳng định: ”GDQP là yêu cầu không thể thiếu được trong chương trình ở các trường THPT, DN, TCCN, CĐ, ĐH, kể cả quốc lập dân lập và các loại hình đào tạo khác; là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược đào tạo con người mới nhằm GD cho thế hệ trẻ nói chung và cho HS,SV lòng yêu nước, yêu CNXH, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, tư duy và kiến thức quân sự, chuấn bị nhân lực và đào tạo nhân tài cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, Bộ QP đã phối hợp với Bộ GDĐT biên soạn, ban hành Chương trình GDQP thay thế Chương trình Huấn luyện QS phổ thông. Như vậy, kể từ năm 1991 Chương trình Huấn luyện QS phổ thông cho HS,SV được đổi tên thành Chương trình GDQP. Ngày 10/7/2007, Chính phủ ban hành Nghị định 116/2007/NĐ-CP về GDQP- AN, theo đó Chương trình GDQP cho HS,SV được sửa đổi bổ sung kiến thức AN và cập nhật kiến thức QP, QS. Chương trình GDQP-AN trình độ ĐH, CĐ được ban hành theo Quyết định 81/2004/QĐ-BGDĐT ngày 24/12/2007 (thay thế Chương trình GDQP theo Quyết định 12/2000/QĐ-BGD&ĐT). Từ đây, môn GDQP chính thức đổi thành GDQP-AN và hiện nay là Thông tư số 31/2012/TT-BGDĐT ngày 12/9/2012. Mục tiêu GDQP-AN đối với HS,SV là: góp phần GD toàn diện cho HS,SV về lòng yêu nước, yêu CNXH, niềm tự hào và sự trân trọng đối với truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam; có ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch; có kỹ năng QS cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền QP toàn dân, AN nhân dân, sẵn sàng bảo vệ T ổ quốc Việt Nam XHCN. Trước tình hình mới c ủa thời đại, vấn đề QP-AN quốc gia đang được đặt ra như một vấn đề thời sự nóng hổi của nhiều quốc gia trên thế giới. Quản lý, nâng cao chất lượng GDQP-AN cho cán bộ, công chức, viên chức, HS,SV là vấn đề luôn thu
  10. 10 hút sự quan tâm của lãnh đạo, các chuyên gia hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu và những người làm công tác quản lý, giáo dục ở nhiều nước trên thế giới. 1.2. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI 1.2.1. Quốc phòng Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học của nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn diện; trong đó, sức mạnh quân sự là đặc trưng, nhằm giữ gìn hoà bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô. 1.2.2. An ninh An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. 1.2.3. Quốc phòng-an ninh Quốc phòng-an ninh là sự kết hợp quốc phòng với an ninh tạo thành sức mạnh tổng hợp trong thời bình cũng như trong thời chiến nhằm bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. 1.2.4. Giáo dục quốc phòng-an ninh GDQP-AN là hoạt động có kế hoạch, có nội dung chương trình phương pháp và hình thức phù hợp với từng đối tượng, nhằm truyền thụ cho họ những tri thức, bồi dưỡng kinh nghiệm, kỹ năng quân sự và những vấn đề về QP-AN cần thiết để họ sẵn sàng làm tốt nghĩa vụ QP-AN bảo vệ Tổ quốc theo chức trách. 1.2.5 Giáo dục quốc phòng-an ninh cho sinh viên GDQP-AN cho SV là hoạt động có kế hoạch, có chương trình, nội dung phương pháp và hình thức tác động của nhà giáo dục đến SV, nhằm truyền thụ tri thức, rèn luyện kỹ n ăng, phát triển bản lĩnh QS và AN cần thiết cho SV để họ sẵn sàng làm tốt nghĩa vụ QP, AN bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
  11. 11 1.2.6. Quản lí giáo dục quốc phòng-an ninh cho sinh viên Quản lí GDQP-AN cho SV là hoạt động có mục đích, có tổ chức của nhà quản lí nhằm điều khiển, hướng dẫn các quá trình giáo dục, những hoạt động của cán bộ, giảng viên và SV, huy động các nguồn lực khác nhau để thực hiện có hiệu quả chương trình, nội dung phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục theo kế hoạch đã xác định. 1.3. NỘI DUNG QUẢN LÍ GDQP-AN CHO SV CÁC TRƯỜNG ĐH 1.3.1. Quản lí mạng lưới cơ sở GDQP cho SV các trường ĐH Mạng lưới cơ sở GDQP-AN cho SV các trường ĐH là các cơ sở tổ chức thực hiện GDQP-AN cho SV, các cơ sở này thuộc ĐH, trường ĐH, CĐ và một số nhà trường quân đội (trường sĩ quan, trường quân sự: quân khu; tỉnh). Mạng lưới cơ sở GDQP -AN cho SV các trường ĐH gồm: trung tâm, khoa và bộ môn (tổ) GDQP-AN, mạng lưới GDQP-AN được phân bố trên toàn quốc, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn nhiều t rường ĐH, CĐ. Quản lí mạng lưới cơ sở GDQP -AN cho SV các trường ĐH, CĐ là quản lí nhà nước, được pháp luật quy định (Bộ GDĐT); CĐ nghề do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quản lí. Quản lí được thống nhất từ Trung ương đến các cơ sở đào tạo được cụ thể hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật, tạo sự thống nhất và thực thi các quy phạm pháp luật nghiêm minh, bình đẳng trong giáo dục đào tạo. Kết luận chương 1 Tình hình thế giới và khu vực đang có những diễn biến hết sức phức tạp. CNĐQ và các thế lực thù địch trong và ngoài nước sẽ đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng ra sức lợi dụng các vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, để gây mất ổn định chính trị-xã hội nhằm tạo cớ gây can thiệp từ bên ngoài. Chúng ta phải lường hết những khó khăn sẽ diễn ra, nhất là tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mọi diễn biến của tình hình nêu trên đều có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến công tác GDQP-AN hiện nay cũng như những năm tới. Chúng ta hiểu sâu sắc rằng, để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng nền QP toàn dân, AN nhân dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thì một trong những việc
  12. 12 làm đầu tiên là phải nâng cao chất lượng, hiệu quả GDQP-AN trong hệ thống GD quốc dân, chúng tôi cho rằng, các cấp, các ngành cần tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng và quán triệt thật sâu sắc Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác GDQP, AN trong tình hình mới; Nghị định 116/NĐ-CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về GDQP-AN; Nghị quyết TƯ 8 (khóa IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về an ninh-quốc gia. Trên cơ sở đó chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả đội ngũ GV giảng dạy GDQP-AN tại các cơ sở GDQP-AN hiện nay. Thực tế chỉ ra rằng, cùng với việc chuẩn hóa chương trình, giáo trình, tài liệu dạy học GDQP-AN là việc xây dựng đề án đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng GV GDQP-AN trình độ ĐH. Đây là vấn đề cấp bách hiện nay. Chừng nào chúng ta chưa có đội ngũ GV GDQP-AN được đào tạo cơ bản bổ sung cho đội ngũ sĩ quan biệt phái hiện nay, chừng đó chúng ta chưa thể hiện được triệt để mục tiêu đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo đức, có sức khỏe và kiến thức QP, AN, kỹ năng quân sự cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chương 2 CƠ SƠ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM Chương này gồm các yếu mục: 2.1. Tổ chức khảo sát thực trạng 2.2. Thực trạng quản lý GDQP-AN cho SV các trường ĐH hiện nay 2.3. Nguyên nhân của thực trạng trên Nghiên cứu sinh xin trình bày chi tiết những vấn đề sau: 2.1. THỰC TRẠNG QUẢN LÍ GDQP-AN CHO SV CÁC TRƯỜNG ĐH HIỆN NAY 2.1.1. Thực trạng về hệ thống GDQP-AN và tổ chức mạng lưới cơ sở GDQP-AN cho SV các trường ĐH Hệ thống tổ chức GDQP-AN từ Trung ương đến cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân gồm cơ quan tư vấn, chỉ đạo công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức GDQP-AN và các cơ sở tổ chức thực hiện GDQP-AN.
  13. 13 - Hội đồng GDQP-AN Trung ương; - Hội đồng GDQP-AN quân khu; - Hội đồng GDQP-AN cấp tỉnh; - Hội đồng GDQP-AN cấp huyện; - Hội đồng nghĩa vụ nghĩa vụ quân sự cấp xã. Hội đồng GDQP-AN các cấp có cơ quan thường trực giúp việc, Hội đồng Trung ương đặt tại Bộ QP, Hội đồng cấp quân khu đặt tại Bộ Tư lệnh quân khu, Hội đồng cấp tỉnh/thành phố đặt tại Bộ CHQS cấp tỉnh/thành phố, Hội đồng cấp huyện/quận đặt tại Ban CHQS cấp huyện/quận và Hội đồng nghĩa vụ QS cấp xã có trách nhiệm thực hiện công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức GDQP-AN. Hội đồng GDQP-AN các cấp làm việc theo chế độ kiêm nhiệm. Thủ tướng CP quyết định thành lập, quy định chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng GDQP-AN Trung ương và Hội đồng GDQP-AN cấp quân khu. Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập, quy định chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng GDQP-AN cấp tỉnh và cấp huyện, xã. Bộ GDĐT có Vụ GDQP với chức năng nhiệm vụ là giúp Bộ trưởng Bộ GDĐT thực hiện chức năng quản lí nhà nước về GDQP-AN cho HS,SV và các công tác thuộc lĩnh vực QP trong phạm vi quản lí của Bộ. Sơ đồ 2.1. Hệ thống tổ chức GDQP-AN Ngành Giáo dục-Đào tạo Bộ GDĐT TT GDQP-AN Khoa GDQP-AN Bộ môn GDQP-AN Đến nay, toàn quốc có 74 cơ sở sở GDQP-AN cho SV thuộc ĐH, trường ĐH, CĐ; 35 TT GDQP-AN cho SV với 282 CBQL, GV GDQP-AN, trong đó 8 trung tâm đang hoạt động với lưu lượng 22.150 HS,SV, số trung tâm còn lại đang xây dựng; 13 khoa GDQP-AN với 159 CBQL và GV GDQP-AN; 26 bộ môn GDQP-AN với 132 GV GDQP-AN.
  14. 14 Mạng lưới GDQP-AN cho SV các trường ĐH gồm trung tâm, khoa, bộ môn (tổ) GDQP-AN. TT GDQP-AN được quản lí theo 2 hình thức: - Trung ương quản lý: Bộ GDĐT, Bộ QP, Bộ VHTT&DL; - Địa phương quản lý: Trường QS tỉnh/TP, UBND tỉnh/TP. Ngoài ra còn 2 ĐH tực tiếp quản lý, đó là: ĐH quốc gia Hà Nội quản lý TT GDQP-AN ĐH quốc gia Hà Nội, và ĐH quốc gia TP Hồ Chí Minh quản lý TT GDQP-AN ĐH quốc gia TP Hồ Chí Minh. Theo đánh giá của Hội đồng GDQP-AN Trung ương và các cơ quan Bộ QP, Bộ GDĐT, SV học GDQP-AN tại các TT GDQP-AN chất lượng và hiệu quả hơn SV học tại các khoa, bộ môn GDQP-AN. Đến nay, trên toàn quốc có 13 khoa và 26 bộ môn GDQP-AN thuộc các trường ĐH, CĐ. Các khoa, bộ môn này đã GDQP-AN cho khoảng 30% SV các trường ĐH, CĐ. 2.1.2. Thực trạng kết quả GDQP-AN của SV các trường ĐH Kết quả học tập và kiểm tra của Hội đồng GDQP-AN Trung ương, số SV đạt yêu cầu 100%, trong đó khá, giỏi chiếm tỷ lệ 85%. Qua khảo sát, điều tra 96% cán bộ quản lý, giảng viên và SV đánh giá chương trình hiện nay là phù hợp, 0,4% cho là cần chỉnh sửa chương trình cho phù hợp với điều kiện hiện nay. SV có thái độ học tập, thực hiện 11 chế độ trong ngày và 3 chế độ trong tuần cũng như các hoạt động ngoại khóa tại các TT GDQP-AN được thực hiện nghiêm; ý thức học tập và chấp hành các chế độ, quy định được được nâng lên rõ rệt. Điểm mạnh - Môn GDQP-AN có bề dày truyền thống hơn 50 năm, kể từ khi có Nghị định 219/CP ngày 28/12/1961 của Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ) về việc huấn luyện quân sự phổ thông cho HS,SV trong các trường từ bậc THPT đến CĐ, ĐH. - Hệ thống văn bản lãnh đạo, chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương về công tác GDQP-AN tương đối đầy đủ và đồng bộ. - Đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt thành lập 32 TT GDQP-AN cho HS,SV trên toàn quốc (hệ thống TT GDQP-AN đã được thành lập).
  15. 15 - Đội ngũ GV GDQP-AN cơ bản là sĩ quan quân đội biệt phái sang Ngành GDĐT làm công tác QP và GDQP-AN cho SV các trường ĐH, CĐ, tâm huyết, yêu ngành, yêu nghề, đội ngũ này cơ bản được đào tạo trong các nhà trường QĐ . - Lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Nhà nước, sự quan tâm chỉ đạo sâu sát phối hợp của các bộ, ngành, đặc biệt là Bộ GDĐT và Bộ QP, Bộ CA trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện môn GDQP-AN. - SV hoàn thành khóa học GDQP-AN được cấp chứng chỉ-điều kiện để xét tốt nghiệp ĐH. Trang bị cho trí thức trẻ kiến thức cần thiết về GDQP-AN; góp phần hình thành nhân cách, hành trang trên con đường lập thân, lập nghiệp và giữ nước. Trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới, bên cạnh thuận lợi cũng có những khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã triển khai một loạt công việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, đồng thời nỗ lực phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội theo Kết luận số 02-KL/TW ngày 16/3/2011 của Bộ Chính trị và các chủ trương, chính sá ch, biện pháp của Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ. Đội ngũ CBQL, GV GDQP-AN luôn tin tưởng, tuyệt đối trung thành sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ, yên tâm công tác, yêu ngành, yêu nghề, tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Công tác GDQP-AN ngày càng được Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm; góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Điểm yếu - Nhận thức của một số cán bộ và SV về GDQP-AN chưa tương xứng với mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ môn học ( là môn học chính nhưng vẫn bị xem nhẹ). - Đội ngũ GV GDQP-AN còn nhiều bất cập về số lượng và ch ất lượng. - CSVC, TBDH môn GDQP-AN còn thiếu, đầu tư xây dựng và trang bị ban đầu còn chậm so với kế hoạch. - Sự phối hợp trong quản lí đội ngũ CBQL, GV chưa đồng bộ. - Kinh phí cho GDQP-AN còn thấp so với yêu cầu nhiệm vụ. - Cơ chế không đồng bộ, thống nhất nên khó khăn trong tổ chức thực hiện.
  16. 16 Một số CB, HS,SV chưa quan tâm đúng với vị trí, vai trò của môn học GDQP- AN, nên đầu tư cho công tác này còn chậm do đó kết quả GDQP-AN chưa cao. Trong những năm qua công tác GDQP-AN đã thu được những kết quả đáng khích lệ, SV khi ra trường về công tác tại các cơ quan đã tham mưu cho lãnh đạo và tổ chức thực hiện tốt công tác QP, AN; đã có hàng vạn SV tốt nghiệp ĐH đi đào tạo sĩ quan dự vị, trong đó có hàng ngàn SV được tuyển chọn vào phục vụ trong lực lượng vũ trang, có những SV công tác trong lực lượng vũ trang đến nay đang giữ những vị trí trọng trách và có nhiều đồng chí được nhận quân hàm cấp tướng. 2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG TRÊN 2.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu, ưu điểm Kết quả đạt được về GDQP-AN cho SV các trường ĐH những năm qua có nhiều nguyên nhân, trong đó một số nguyên nhân chủ yếu sau: Sự lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả của Đảng, Chính phủ, các bộ, ban, ngành ở Trung ương và cấp ủy, chính quyền các cấp. Hai là, nhận thức đúng vị trí, vai trò GDQP-AN cho SV các trường ĐH. Ba là, cơ cấu, thiết chế, điều kiện bảo đảm cho GDQP-AN được hình thành, hoàn thiện từng bước. Bốn là, sự ổn định và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho GDQP-AN trong bổi cảnh mới. 2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm Những hạn chế, khuyết điểm của GDQP-AN cho SV trong những năm vừa qua có nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, chỉ đạo tổ chức, thực hiện GDQP-AN cho SV còn lúng túng, bị động. Thứ hai, điều kiện bảo đảm chưa đáp ứng yêu cầu mà các chủ trương, nhiệm vụ GDQP-AN trong bối cảnh mới. Thứ ba, nhận thức của các đối tượng về GDQP-AN chưa sâu sắc. Thứ tư, tác động của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường.