Tóm tắt Luận án Đấu giá quyền sử dụng đất theo pháp luật đất đai từ thực tiễn quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội

pdf 86 trang vuhoa 24/08/2022 9700
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Đấu giá quyền sử dụng đất theo pháp luật đất đai từ thực tiễn quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_dau_gia_quyen_su_dung_dat_theo_phap_luat_dat.pdf

Nội dung text: Tóm tắt Luận án Đấu giá quyền sử dụng đất theo pháp luật đất đai từ thực tiễn quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI  NGÔ THỊ MỸ NINH ĐẤU GIÁ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, NĂM 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI  NGÔ THỊ MỸ NINH ĐẤU GIÁ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI CHUYÊN NGÀNH: Luật kinh tế MÃ SỐ: 60.38.01.07 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS TRẦN QUANG HUY HÀ NỘI, NĂM 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu do tôi trực tiếp thực hiện. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ luận văn nào. Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đề đã được chỉ rõ nguồn gốc./. Tác giả luận văn Ngô Thị Mỹ Ninh
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đề tài tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ, động viên, chỉ bảo của các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và người thân. Để có được kết quả nghiên cứu này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Trần Quang Huy, người đã luôn theo sát, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn sự góp ý chân thành của các thầy, cô giáo trong Khoa luật, Phòng quản lý đào tạo Học viện Khoa học xã hội; UBND quận Hà Đông, Trung tâm phát triển quỹ đất, phòng Tài nguyên và môi trường các phòng ban, cán bộ, nhân dân các phường Dương Nội, Kiến Hưng của Quận Hà Đông đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. Cuối cùng tôi xin cảm ơn sâu sắc tới gia đình và những người thân đã động viên, tạo mọi điều kiện trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài này./ Hà Nội, ngày 27 tháng 3 năm 2017 Tác giả luận văn Ngô Thị Mỹ Ninh
  5. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU GIÁ QUYỀN 7 SỬ DỤNG ĐẤT 1.1 Khái niệm và đặc điểm của đấu giá quyền sử dụng đất 7 1.2 Mục đích, vai trò của đấu giá quyền sử dụng đất 14 1.3 Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất 24 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 30 TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1 Thực trạng pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất 30 2.2 Thực tiễn áp dụng các quy định về đấu giá quyền sử dụng đất tại 41 quận Hà Đông- Thành phố Hà Nội. 2.3. Kết quả đấu giá quyền sử dụng đất của một số dự án trên địa bàn 53 quận Hà Đông Chương 3: MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẤU GIÁ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG 67 THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Một số đánh giá về công tác đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn 67 quận Hà Đông. 3.2. Một số giải pháp về công tác đấu giá quyền sử dụng đất theo pháp 73 luật đất đai KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BĐS Bất động sản CSHT Cơ sở hạ tầng CNH - HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ĐG Đấu giá GPMB Giải phóng mặt bằng GCN Giấy chứng nhận HĐĐG Hội đồng đấu giá QSD Quyền sử dụng XHCN Xã hội chủ nghĩa TW Trung ương UBND Ủy ban nhân dân XD Xây dựng
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của mọi quốc gia. Trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay, các chính sách, pháp luật về đất đai đóng vai trò quan trọng, góp phần khai thác nguồn lực từ đất đai một các hợp lý và hiệu quả để phục vụ cho mục tiêu phát triển của đất nước. Bên cạnh việc quản lý đất đai bằng các biện pháp hành chính, pháp luật đất đai ngày càng chú trọng đến việc quản lý đất đai bằng các biện pháp kinh tế nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất đai thông qua việc quy định giá đất và các vấn đề tài chính về đất đai, thực hiện việc đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất bên cạnh hình thức nhà nước giao đất, cho thuê đất Trong đó, việc áp dụng rộng rãi cơ chế đấu giá quyền sử dụng đất đã góp phần khắc phục được tình trạng xin – cho, giảm thiểu sự tham nhũng, tiêu cực trong việc phân phối đất đai và đảm bảo công bằng, bình đẳng trong sử dụng đất, góp phần tăng nguồn thu từ đất đai cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên bên cạnh những mặt đã đạt được, thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề đấu giá quyền sử dụng đất trong thời gian qua đã gặp phải những vướng mặc, bộc lộ những bất cập và hạn chế. Thực trạng đó làm giảm hiệu quả quản lý Nhà nước về đất đai, khiến mục đích đúng đắn của chính sách đấu giá quyền sử dụng đất không đạt được, và trực tiếp nhất là gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân, gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước. Yêu cầu đặt ra là cần nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc và toàn diện các quy định của pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, cần tìm hiểu cơ chế thực thi, thực tiễn thi hành các quy định về đấu giá quyền sử dụng đất trong thực tế, trên địa bàn cụ thể để tìm ra nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc đó, trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả tổ chức, thực hiện pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất. 1
  8. Thủ đô Hà Nội được mở rộng địa giới hành chính kể từ ngày 01/8/ có 334.470,02 ha đất tự nhiên và khoảng 6,2 triệu nhân khẩu, đến nay có 30 đơn vị hành chính trực thuộc với mật độ dân số cao (1.918 người/km2). Do đó nhu cầu sử dụng đất để xây dựng các khu công nghiệp, các khu đô thị mới, hệ thống giao thông công cộng ngày càng trở nên cấp thiết nhằm góp phần đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô. Quận Hà Đông trước và sau khi hợp nhất về Hà Nội là khu vực trung tâm có tốc độ đô thị hóa nhanh. Bên cạnh đó theo định hướng quy hoạch chung phát triển thủ đô Hà Nội đến năm 2030 việc thực hiện các dự án đô thị, làng nghề, khu dân cư và công tác đấu giá QSD đất trên địa bàn của quận là rất cần thiết. Tuy nhiên quá trình thực hiện việc đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà Đông còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc chưa đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô. Đứng trước những đòi hỏi về mặt lý luận và thực tiễn nêu trên, Học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Đấu giá quyền sử dụng đất theo pháp luật đất đai từ thực tiễn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội” để nghiên cứu và làm đề tài Luận văn tốt nghiệp Cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề bán đấu giá tài sản nói chung từ lâu đã nhận được nhiều sự quan tâm, tìm hiểu của các tác giả, vì thế đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết về vấn đề này. Riêng đối với hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất, đây là một vấn đề khá mới mẻ, thực tiễn hoạt động này diễn ra rất phong phú, phức tạp và còn nhiều vướng mắc nhưng chưa có nhiều nghiên cứu trực tiếp, chuyên sâu. Nghiên cứu pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở Việt Nam nói chung có thể kể đến một số công trình như: “Pháp luật về hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất” – Luận án Tiến sỹ của tác giả Trần Quang Huy (năm 2008); “Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở Việt Nam” – Luận án Tiến sỹ của tác giả Đặng Thị Bích Liễu (năm 2012). Một số bài viết trên các tạp chí liên quan đến vấn đề này có 2
  9. thể kể đến như: “Lý luận và thực tiễn về đấu giá quyền sử dụng đất” của tác giả Nguyễn Thị Nga; “Các vấn đề pháp lý về tài chính đất đai và giá đất” của tác giả Trần Quang Huy (Tạp chí Luật học – Đặc san về Luật đất đai, số 5/2004) Các công trình nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn thi hành pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất trên một địa bàn cụ thể có thể kể đến như: “Bán đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội” – Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Vĩnh Diện (năm 2006); “Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác đấu giá quyền sử dụng đất tại địa bàn thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang” – Luận văn thạc sỹ của tác giả Phạm Văn Vượng (năm 2011); “Đánh giá thực trạng đấu giá quyền sử dụng đất và hiệu quả sử dụng quỹ đất sau đấu giá tại một số dự án trên địa bàn Quận Hà Đông, thành phố Hà Nội” – Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Trung Đạt (năm 2012) Trong khi những công trình nghiên cứu chung về pháp luật đấu giá quyền sử dụng đất của Việt Nam đem lại cái nhìn tổng quan về hệ thống pháp luật, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật ở quy mô toàn quốc thì những nghiên cứu ở một địa bàn nhất định lại đem đến cái nhìn cụ thể hơn, góp phần quan trọng vào việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất trong thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đấu giá quyền sử dụng đất, tìm hiểu thực trạng thi hành các quy định về vấn đề này trên địa bàn quận Hà Đông, đồng thời nhận diện những tồn tại, bất cập trong các quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật. Trên cơ sở đó, đưa ra một số đề xuất giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất nói chung và nâng cao hiệu quả thực thi công tác đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà Đông thành phố Hà Nội. Nhiệm vụ: Nghiên cứu tổng quan các quy định về đấu giá quyền sử dụng đất, tìm hiểu các chính sách, văn bản liên quan, đánh giá vai trò của công tác đấu giá 3
  10. quyền sử dụng đất và tầm quan trọng của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất. Tìm hiểu các quy định và chính sách pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà Đông. Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định đó trên địa bàn quận để nhìn nhận những mặt tích cực và hạn chế trong quá trình thực thi pháp luật. Tập trung phân tích những tồn tại, vướng mắc để tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp phù hợp. Đưa ra một số kiến nghị giải pháp góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác đấu giá quyền sử dụng đất của quận Hà Động thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: các quy định pháp lý liên quan đến vấn đề đấu giá quyền sử dụng đất, chính sách và quy chế đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà Đông thành phố Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề về đấu giá quyền sử dụng đất với tính chất là một hình thức để Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất dưới góc độ pháp lý về mặt lý luận, có đối chiếu với thực tiễn thi hành pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà Đông giai đoạn 2011-2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận Mác – Lê nin với phép biện chứng khoa học duy vật và biện chứng khoa học lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá: được sử dụng để phân tích, tổng hợp số liệu thu thập được tại Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, sở Tài nguyên và Môi trường, phòng tài nguyên và môi trường quận Hà Đông để đánh giá, phân tích thực trạng công tác đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà Đông. 4
  11. Phương pháp so sánh: phương pháp này được sử dụng để đối chiếu các quy định của pháp luật, tìm ra các điểm bất cập, chưa phù hợp, chưa thống nhất trong hệ thống pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất nói chung và cụ thể trên địa bàn quận Hà Đông để đưa ra kiến nghị giải pháp, nâng cao hiệu quả công tác thực thi pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất trong thực tiễn. Phương pháp thu thập, kế thừa các tài liệu đã có: kết quả nghiên cứu của đề tài có sự tiếp thu, kế thừa các thông tin, tài liệu tổng kết thi hành Luật Đất đai 2003, thực hiện Luật Đất đai năm 2013, các số liệu của các nghiên cứu đã công bố, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, đồng thời nhìn nhận những tồn tại, bất cập của pháp luật về vấn đề này để đề xuất các giải pháp phù hợp theo các mục tiêu đề ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. Thực trạng thi hành pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà Đông, cho đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Việc nghiên cứu đề tài có những ý nghĩa nhất định về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Về mặt lý luận, nghiên cứu đề tài sẽ đem đến cái nhìn tổng quan về thực trạng quy định của pháp luật và việc thi hành pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất trong thực tiễn, trên cơ sở nghiên cứu cụ thể việc áp dụng pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà Đông thành phố Hà Nội. Từ đó đánh giá hiệu quả của công tác áp dụng pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất trong thực tiễn: những quy định nào được thực hiện hiệu quả, những quy định nào còn hạn chế, vướng mắc ; tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp khắc phục những bất cập đó. Về mặt thực tiễn, qua quá trình nghiên cứu đề tài sẽ đưa ra những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả công tác đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà Đông, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội cũng như chủ trương chính 5
  12. sách của Đảng bộ chính quyền thành phố Hà Nội trong việc quản lý nhà nước về đất đai. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Đề tài gồm 03 Chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đấu giá quyền sử dụng đất Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội. Chương 3: Một số đánh giá và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội 6
  13. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU GIÁ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 1.1. Khái niệm và đặc điểm của đấu giá quyền sử dụng đất 1.1.1. Khái niệm đấu giá quyền sử dụng đất Đấu giá là một phương thức bán hàng đặc biệt đã được biết đến và sử dụng từ rất lâu đời, từ khi xã hội hình thành nền kinh tế hàng hoá, trong đó có người bán, người mua, có hàng hoá, tiền tệ làm vật ngang giá chung và có sự cạnh tranh về giá cả trong mua bán. Như vậy, về mặt khách quan, bán đấu giá là một hoạt động kinh tế, dân sự diễn ra theo quy luật vận hành của nền kinh tế hàng hoá – thị trường. Về phương diện kinh tế, đấu giá là phương pháp xác định giá trị của một hàng hoá có mức giá không thể xác định hoặc quá quý hiếm. Thông qua đấu giá, hàng hoá sẽ được mua và bán với giá gần đúng với giá trị của hàng hoá đó. Theo từ điển kinh tế học hiện đại: “Đấu giá là một thị trường trong đó người mua tiềm tàng đặt giá cho hàng hoá chứ không phải đơn thuần trả theo giá người bán; thị trường đấu giá là thị trường có tổ chức, tại đó giá cả được điều chỉnh liên tục theo biến đổi của cung và cầu” [1, tr.6] Dưới góc độ quan hệ pháp luật dân sự, bán đấu giá có thể được hiểu là hình thức bán hàng đặc biệt để cho những người mua tự trả giá, không thấp hơn giá thấp nhất do người bán quy định. Ai trả giá cao nhất sẽ được mua. Bán đấu giá có thể được thực hiện dưới hình thức tất cả những người mua được trả giá một lần thông qua bỏ phiếu kín hoặc những người mua được phép trả giá nhiều lần công khai trong một khoảng thời gian xác định. Từ phương diện pháp lý, các luật gia cũng đưa ra nhiều khái niệm về đấu giá tài sản và cho rằng: đấu giá tài sản là một phương thức định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận phương thức định đoạt tài sản thông qua đấu giá từ khá sớm. Theo quy định của Quy chế bán đấu giá tài sản, ban hành kèm theo Nghị định số: 86/CP ngày 19/12/1996: “Bán đấu giá là hình thức bán tài sản công khai mà có nhiều người muốn mua tham gia trả giá theo thủ tục được quy định 7
  14. tại Quy chế này; người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm là người mua được tài sản bán đấu giá đó” [4]. Tiếp đó, Nghị định số: 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản đưa ra khái niệm bán đấu giá tài sản như sau: “Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai theo phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định này” [5]. Hiện nay, phương thức bán đấu giá tài sản được điều chỉnh bởi Nghị định số: 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ (có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2010), trong đó cũng đã nêu rõ: “Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai theo phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định này. Phương thức trả giá lên là phương thức trả giá từ thấp lên cao cho đến khi có người trả giá cao nhất” [6]. Như vậy có thể thấy, mặc dù có nhiều cách định nghĩa bán đấu giá tài sản, song về cơ bản các khái niệm được đưa ra đều dựa trên những đặc điểm chung thống nhất của hình thức bán hàng đặc biệt này. Do đó, có thể khái quát về khái niệm đấu giá tài sản như sau: Bán đấu giá tài sản là một hình thức mua bán công khai và được tổ chức theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định, do người bán đấu giá điều khiển, nhằm mục đích bán được tài sản ở giá cao nhất; người trả giá cao nhất đối với tài sản sẽ mua được tài sản bán đấu giá. Nếu bán đấu giá tài sản nói chung là hình thức mua bán công khai, tồn tại lâu đời trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thì bán đấu giá quyền sử dụng đất chỉ xuất hiện khi Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại tài sản và cho phép mua bán nó trên thị trường bất động sản với tư cách là một loại hàng hoá đặc biệt. Dưới góc độ pháp luật dân sự, quyền sử dụng đất là một loại tài sản: Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Quy định này được thể hiện lại tại khoản 1 Điều 105 của BLDS năm 2015. 8
  15. Quyền tài sản được định nghĩa tại Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Theo đó, quyền tài sản, trước tiên phải được hiểu là xử sự được phép của chủ thể mang quyền. Quyền này phải được trị giá bằng tiền hay nói cách khác nó phải tương đương với một đại lượng vật chất nhất định. Xét dưới góc độ kinh tế, quyền sử dụng đất mang những dấu hiệu như những loại hàng hoá thông thường, có giá trị và giá trị sử dụng. Trong đa số các trường hợp, người sử dụng đất phải bỏ ra một khoản tiền nộp vào ngân sách Nhà nước để nhận quyền sử dụng đất; hoặc nhận quyền sử dụng đất từ những chủ thể khác thông qua các giao dịch trên thị trường. Thực chất đó là tiền mua quyền sử dụng đất cùng với tất cả những quyền khác gắn liền với nó như pháp luật quy định. Bên cạnh đó, nhìn nhận từ một khía cạnh quan trọng khác, gắn với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về chế độ sở hữu đối với đất đai, chúng ta sẽ thấy được tính đặc biệt của loại hàng hoá quyền sử dụng đất: Xuất phát từ quan điểm: đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước, là nguồn sống của nhân dân ta [10, tr 46], pháp luật hiện hành của nước ta quy định: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý [8, Điều 53], [9, Điều 4]. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng quyền sử dụng đất lại được Nhà nước trao cho người sử dụng đất thông qua các hình thức: giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, các quyền của người sử dụng đất ngày càng được mở rộng, người sử dụng đất được quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Do vậy, khái niệm quyền sử dụng đất cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn khái niệm “quyền sử dụng” tài sản thông thường trong pháp luật dân sự. Đó không chỉ đơn giản là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ một đối tượng tài sản, mà còn là sự bảo đảm từ phía Nhà nước về mọi phương diện trong quá trình sử dụng đất với người sử dụng đất. Nó tách bạch giữa quyền của chủ 9
  16. sở hữu và quyền của người sử dụng đất, để đảm bảo cho một phương thức khai thác đất đai phù hợp với lợi ích của chủ sở hữu và người trực tiếp sử dụng đất. Như vậy có thể hiểu quyền sử dụng đất là những quyền năng của người sử dụng đất được pháp luật quy định và đảm bảo thực hiện trong quá trình khai thác và sử dụng đất. Nó là một quyền tài sản – có thể trị giá được bằng tiền và có thể được chuyển giao trong giao dịch dân sự. Với tư cách là một loại tài sản, một loại hàng hoá đặc biệt, quyền sử dụng đất có thể được đem giao dịch trong thị trường bất động sản. Nhà nước có thể trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất bằng nhiều hình thức, trong đó, hình thức đấu giá quyền sử dụng đất để Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất được pháp luật quy định trong một số trường hợp nhất định. Việc Nhà nước giao đất hoặc cho người sử dụng đất thuê đất theo hình thức đấu giá quyền sử dụng đất có nghĩa là, Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai, trực tiếp đưa quyền sử dụng đất tham gia vào thị trường bất động sản. Như thế, Nhà nước đã tạo ra một kênh mới cung ứng quyền sử dụng đất cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất theo định hướng thị trường. Dưới góc độ pháp lý, bán đấu giá quyền sử dụng đất là một loại quan hệ mua bán tài sản. Trong đó, đối tượng được đem ra mua – bán là quyền sử dụng đất; chủ thể của quan hệ này, một bên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất bằng hình thức bán đấu giá quyền sử dụng đất với tư cách là “người” đại diện thực hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai – bên bán, một bên là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất tham gia đấu giá quyền sử dụng đất – bên mua. Mỗi bên khi tham gia quan hệ mua - bán nêu trên đều có những quyền, nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật. Tương tự như bán đấu giá tài sản thông thường, “bên bán” quyền sử dụng đất thông qua đấu giá đưa ra mức giá khởi điểm để những người mua cùng công khai trả giá, người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm là người mua được quyền sử dụng đất đem bán đấu giá. 10
  17. Như vậy, từ nhận thức chung về bán đấu giá tài sản và thực tiễn tổ chức, thực hiện bán đấu giá quyền sử dụng đất tại Việt Nam trong thời gian qua, có thể đưa ra khái niệm: “Đấu giá quyền sử dụng đất để Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất là một hình thức mua – bán tài sản đặc biệt, được tổ chức công khai theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, do người bán đấu giá (cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất) điều khiển nhằm bán được quyền sử dụng đất cho người mua (tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất) với giá cao nhất. Người trúng đấu giá quyền sử dụng đất là người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm mà người bán đưa ra. 1.1.2. Đặc điểm đấu giá quyền sử dụng đất Nếu như thông thường, việc mua bán tài sản thường được thực hiện thông qua hình thức mua bán trực tiếp, thoả thuận theo nguyên tắc “thuận mua – vừa bán”: người bán thường đưa ra mức giá cao hơn so với giá trị thực của hàng hoá, người mua thường “mặc cả” cho đến khi giá cả đưa ra được người bán chấp nhận. Thì ngược lại, trong bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất, trên cơ sở giá bán mà người bán đưa ra, những người mua cạnh tranh nhau bằng cách đưa ra các mức giá ít nhất bằng giá khởi điểm hoặc cao hơn để mua được quyền sử dụng đất; ai là người trả giá cao nhất sẽ là người thắng đấu giá. Bán đấu giá quyền sử dụng đất là một hình thức mua bán tài sản đặc biệt. Do tính chất đặc thù của đất đai, đặc trưng của chế độ sở hữu toàn đân về đất đai và tính chất đặc biệt của quyền sử dụng đất mà việc đấu giá quyền sử dụng đất có những đặc điểm riêng để phân biệt nó với các hình thức bán đấu giá tài sản thông thường hoặc các hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất khác. Thứ nhất, trong đấu giá quyền sử dụng đất, “người” có tài sản bán đấu giá và điều hành việc đấu giá là các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, đại diện cho chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Cơ quan này được quyền quy định, xét mức giá khởi điểm, bước giá, xác nhận kết quả bán đấu giá, thu tiền theo kết quả bán đấu giá và sử dụng số tiền thu được theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước. Khi tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, bên tổ chức 11
  18. đấu giá có nghĩa vụ thông báo công khai hồ sơ mời đấu giá, những nội dung có liên quan đến thửa đất, hình thức trả giá, kết quả đấu giá, ban hành quy chế đấu giá; xác định tư cách người tham gia đấu giá, giá khởi điểm, bước giá, kết quả đấu giá, hoàn thiện các giấy tờ pháp lý liên quan đến quyền sử dụng đất và bàn giao đất cho các tổ chức, cá nhân trúng đấu giá theo đúng quy định. Như vậy, trong quan hệ đấu giá quyền sử dụng đất, Nhà nước tham gia với tư cách là một chủ thể trực tiếp (thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Đặc điểm này của đấu giả quyền sử dụng đất khác với đấu giá các tài sản thông thường khác (đấu giá thương mại). Trong quan hệ đấu giá thương mại, người có tài sản bán đấu giá là chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu uỷ quyền bán tài sản. Người điều hành việc đấu giá là tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp mà người bán lựa chọn để bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật. Chủ thể của quan hệ đấu giá thương mại nhìn chung được quy định rộng hơn nhiều so với đấu giá quyền sử dụng đất. Đặc điểm này của đấu giá quyền sử dụng đất cũng khác với chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trong quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Nhà nước không tham gia với tư cách là một chủ thể trực tiếp. Chủ thể trực tiếp là những người sử dụng đất được quyền sử dụng đất hợp pháp được Nhà nước trao cho hoặc Nhà nước công nhận. Việc chuyển nhượng hoàn toàn do các bên thoả thuận và Nhà nước chỉ tham gia với vai trò là người quy định trình tự, thủ tục, cách thức thực hiện chuyển nhượng, quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như công nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên. Thứ hai, trong đấu giá quyền sử dụng đất, người tham gia đấu giá – “người mua” là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất, đăng ký tham gia đấu giá theo quy định của pháp luật và được hưởng các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và quy chế đấu giá. Số lượng các tổ chức, cá nhân tham gia đấu giá quyền sử dụng đất trong từng phiên đấu giá tối thiểu là 02 (hai). Do đấu giá quyền sử dụng đất là một phương thức bán tài sản công khai theo phương thức trả giá từ thấp lên 12
  19. cao và người trả giá cao nhất là người trúng đấu giá nên nhất thiết phải có sự tham gia của nhiều chủ thể. Người trúng đấu giá là người trả giá cao nhất trong số những người tham gia đấu giá. Người trúng đấu giá quyền sử dụng đất được Nhà nước giao đất sử dụng ổn định, lâu dài hoặc được cho thuê đất với thời hạn tuỳ theo loại đất, mục đích sử dụng đất mà cơ quan có thẩm quyền đã quyết định. Thông qua đấu giá, người trúng đấu giá quyền sử dụng đất được chuyển giao một cách có điều kiện quyền chiếm hữu, quyền quản lý và quyền sử dụng đất chứ không được chuyển giao quyền sở hữu đối với đất đai. Thời điểm chuyển giao quyền sử dụng đất là thời điểm người trúng đấu giá hoàn thành thủ tục để nhận quyền sử dụng đất và nộp tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất theo kết quả đấu giá đã được phê duyệt và người mua được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc quản lý, sử dụng tiền thu được từ đấu giá quyền sử dụng đất phải được thực hiện theo các quy định của pháp luật. Tiền thu được từ đấu giá quyền sử dụng đất được nộp vào một tài khoản riêng tại kho bạc Nhà nước hoặc thu nộp ngân sách hàng năm. Số tiền này được sử dụng để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng chung phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc sử dụng tiền thu được từ đấu giá quyền sử dụng đất phải tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý đầu tư, xây dựng và quản lý ngân sách Nhà nước. Đây cũng là đặc điểm khác với đấu giá hàng hoá trong thương mại, việc đấu giá quyền sử dụng đất không đem đến quyền sở hữu đất đai cho người trúng đấu giá mà chỉ chuyển giao quyền sử dụng đất. Tiền trúng đấu giá trong đấu giá tài sản thông thường (sau khi trừ đi các khoản phí và chi phí bán đấu giá) sẽ thuộc về người có tài sản bán đấu giá. Trong đấu giá quyền sử dụng đất, số tiền đó không thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức bán đấu giá, mà là một nguồn thu của Ngân sách nhà nước và được quản lý, sử dụng theo chế độ ngân sách Nhà nước. Thứ ba, việc bán đấu giá quyền sử dụng đất được tiến hành theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về đấu giá tài sản. Việc đấu giá quyền sử dụng đất được tiến hành công khai, liên tục 13
  20. theo phương thức trả giá lên. Những người tham gia đấu giá đưa ra những mức giá ngày càng tăng so với mức giá khởi điểm để cạnh tranh nhau khi đấu giá quyền sử dụng đất. Người trúng đấu giá sẽ là người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm mà người đấu giá quyền sử dụng đất đưa ra. Khác với đấu giá thương mại, trong đấu giá thương mại, việc đấu giá các tài sản thông thường có thể được tiến hành theo nhiều phương pháp và hình thức khác nhau. Trong đó, phổ biến nhất là hai phương pháp: phương pháp nâng giá và phương pháp hạ giá. Phương pháp nâng giá: đấu giá viên đưa ra giá khởi điểm thấp nhất cho hàng hoá được bán đấu giá, sau đó khách hàng tham gia đấu giá sẽ nâng dần mức giá theo một mức nhất định. Việc nâng giá có thể bằng phát ngôn, có thể bằng cách làm dấu hiệu. Hàng hoá sẽ được bán cho người trả giá cao nhất. Phương pháp hạ giá: đấu giá viên đưa ra giá khởi điểm cao nhất rồi hạ giá dần theo một mức nhất định tới khi có người đồng ý mua. Phương pháp đấu giá này (còn gọi là phương pháp đấu giá kiểu Hà Lan) khiến cho khách hàng sợ lỡ cơ hội mua được hàng hoá nên thường phải chấp nhận giá cao hơn dự định. Hình thức đấu giá thương mại có thể được thực hiện công khai bằng lời nói hoặc bằng hình thức bỏ phiếu kín trực tiếp. Đặc điểm này của đấu giá quyền sử dụng đất cũng khác với chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Cả hai đều là phương thức chuyển quyền sử dụng đất và về bản chất đều là quan hệ mua bán tài sản và đối tượng đều là quyền sử dụng đất. Nhưng trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có sự cạnh tranh về giá, không có sự trả giá từ thấp lên cao như trong đấu giá quyền sử dụng đất. Quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập khi có sự thoả thuận của các bên, theo đó, bên chuyển nhượng có nghĩa vụ giao quyền sử dụng đất cho bên nhận chuyển nhượng và nhận tiền, còn bên nhận chuyển nhượng có nghĩa vụ trả tiền và nhận quyền sử dụng đất. 1.2. Mục đích, vai trò của đấu giá quyền sử dụng đất 1.2.1. Mục đích của đấu giá quyền sử dụng đất 14