Luận văn Xử phạt vi phạm pháp luật lao động - Hậu quả pháp lý của nó

pdf 84 trang vuhoa 25/08/2022 4120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Xử phạt vi phạm pháp luật lao động - Hậu quả pháp lý của nó", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_xu_phat_vi_pham_phap_luat_lao_dong_hau_qua_phap_ly.pdf

Nội dung text: Luận văn Xử phạt vi phạm pháp luật lao động - Hậu quả pháp lý của nó

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THU HẰNG XỬ PHẠT VI PHẠM PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG - HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA NÓ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THU HẰNG XỬ PHẠT VI PHẠM PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG - HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA NÓ Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Hoài Thu HÀ NỘI - 2014 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch•a tõng ®•îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Hoµng Thu H»ng 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM PHÁP LUẬT LAO 5 ĐỘNG - HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA NÓ 1.1. Quan niệm về vi phạm pháp luật lao động và xử phạt vi phạm 5 pháp luật lao động 1.1.1. Khái niệm và các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật lao động 5 1.1.2. Khái niệm về xử phạt vi phạm pháp luật lao động 10 1.2. Sự điều chỉnh của pháp luật trong việc xử phạt vi phạm pháp 12 luật lao động 1.2.1. Nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật trong việc xử phạt vi 12 phạm pháp luật lao động 1.2.2. Thẩm quyền tham gia xử phạt vi phạm pháp luật lao động 14 1.2.3. Hình thức xử phạt 15 1.2.4. Thủ tục xử phạt 19 1.2.5. Thời hiệu xử phạt 20 1.3. Ý nghĩa của xử phạt vi phạm pháp luật lao động 21 1.4. Hậu quả pháp lý của việc xử phạt vi phạm pháp luật lao động 26 Chương 2: THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM PHÁP LUẬT LAO 28 ĐỘNG VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về xử phạt vi phạm pháp luật 28 lao động 2.1.1. Trong lĩnh vực lao động việc làm 28 2.1.2. Trong lĩnh vực thỏa ước lao động tập thể 32 2.1.3. Trong lĩnh vực tiền lương 33 2.1.4. Trong lĩnh vực về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi 35 2.1.5. Trong lĩnh vực về kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất 36 4
  5. 2.1.6. Trong một số trường hợp là lao động đặc thù 37 2.1.7. Đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam 41 2.1.8. Trong lĩnh vực về an toàn lao động, vệ sinh lao động 42 2.2. Thực trạng xử phạt vi phạm pháp luật lao động và hậu quả 43 pháp lý của nó 2.2.1. Những kết quả đạt được 43 2.2.2. Những tồn tại, hạn chế 47 2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 53 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO 57 HIỆU QUẢ XỬ PHẠT VI PHẠM PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về xử phạt 57 vi phạm pháp luật lao động ở Việt Nam 3.1.1. Về mặt kinh tế - xã hội 57 3.1.2. Về chính trị 58 3.1.3. Về mặt pháp lý 60 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm pháp luật ở Việt 61 Nam hiện nay 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm 61 pháp luật lao động 3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật 65 lao động 3.2.3. Tăng cường vai trò của tổ chức Công đoàn 68 3.2.4. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về lao động trong các 69 doanh nghiệp ở Việt Nam giai đoạn hiện nay KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, số lượng vi phạm pháp luật lao động ở nước ta ngày càng tăng. Các vi phạm pháp luật không chỉ giới hạn ở một doanh nghiệp, một địa phương mà còn xảy ra trên phạm vi rộng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó, như ý thức của người lao động, người sử dụng lao động còn thấp, đặc biệt hệ thống pháp luật về lao động còn thiếu đồng bộ, chưa được quan tâm và hiệu quả thực thi pháp luật về lao động còn hạn chế. Bộ luật lao động năm 2012, Bộ luật hình sự năm 2009, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/08/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các văn bản pháp lý liên quan được ban hành nhằm đáp ứng một cách cơ bản yêu cầu về một hành lang pháp lý cần thiết cho việc xử phạt vi phạm pháp luật lao động. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về lao động hiện nay chưa được quan tâm đúng mức từ các nhà lập pháp, các nhà quản lý và các chủ thể. Hoạt động ban hành, triển khai, thực hiện pháp luật về lao động còn bất cập, hạn chế. Việc hoàn thiện pháp luật về lao động nói chung và vấn đề xử phạt vi phạm nói riêng thực sự mang tính cấp thiết, cần được quan tâm, coi trọng. Qua nghiên cứu cho thấy, các quy định về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực lao động ở nước ta phần lớn mới được ban hành, còn tồn tại nhiều nội dung chưa phù hợp với thực tiễn, chưa thể đi vào thực tiễn, có những quy định chưa bắt nguồn từ thực tiễn. Thông qua việc hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực lao động sẽ góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống vi phạm trong lĩnh vực lao động một cách có hiệu quả, tăng cuờng pháp chế xã hội chủ nghĩa. 6
  7. Vì vậy, tôi chọn đề tài "Xử phạt vi phạm pháp luật lao động - hậu quả pháp lý của nó" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề xử phạt vi phạm pháp luật và hậu quả pháp lý của nó là vấn đề luôn có tính thời sự và được nhiều tác giả quan tâm, nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này. Nghiên cứu vấn đề xử phạt vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể, có một số công trình khoa học về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực như giáo dục, xây dựng, bảo vệ rừng trong lĩnh vực lao động, đã có một số đề tài, công trình nghiên cứu về vi phạm pháp luật lao động như: Ngô thị Thanh Huyền, Vi phạm pháp luật lao động về hợp đồng lao động, Luận văn Thạc sĩ luật học - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2009; Đinh Thị Thùy Nga, Vi phạm pháp luật lao động và hậu quả pháp lý của nó, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, năm 2000. Ngoài ra còn có nhiều bài viết như "Bàn về xử lý vi phạm hành chính", của TS. Trần Minh Hương, đăng trên Tạp chí Luật học, số 4/1999; "Nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính", của TS. Trần Thị Hiền đăng trên tạp chí Luật học, số đặc san về vi phạm hành chính Nhìn chung, các công trình khoa học nói trên đều xem xét vấn đề xử phạt vi phạm dưới các góc độ, mức độ khác nhau. Các công trình, bài viết đó mới chỉ tập trung vào liệt kê các hành vi vi phạm pháp luật và đã đem lại những giá trị khoa học quý giá ở góc độ lý luận cũng như thực tiễn, là tài liệu tham khảo hữu ích về vấn đề xử phạt vi phạm. Tuy nhiên, cho đến nay nghiên cứu về vấn đề xử phạt vi phạm pháp luật lao động và hậu quả pháp lý của nó thì chưa có một công trình khoa học nào đề cập đến. Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề "Xử phạt vi phạm pháp luật lao động - hậu quả pháp lý của nó" là việc làm mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 7
  8. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích Nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của yêu cầu khách quan. Từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu xử phạt vi phạm trong lĩnh vực lao động. * Nhiệm vụ + Phân tích cơ sở lý luận về lao động như: Phân tích một số khái niệm liên quan, đối tượng áp dụng xử phạt vi phạm pháp luật lao động, điều kiện để áp dụng và hậu quả pháp lý của nó. + Phân tích, đánh giá khái quát thực trạng của xử phạt vi phạm pháp luật lao động từ đó rút ra những nguyên nhân, hạn chế. + Đề xuất luận chứng quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vấn đề xử phạt vi phạm pháp luật lao động. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm có tính lý luận của Đảng trong các đường lối, chủ trương đổi mới về lao động, hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học Mác - Lênin như: Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể và một số phương pháp của các bộ môn khoa học khác như: Phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, 5. Phạm vi nghiên cứu Xử phạt vi phạm trong lĩnh vực lao động bao gồm nhiều vấn đề đặt ra cần quan tâm nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu của luận văn tập trung chú ý vào 8
  9. việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn để hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm pháp luật lao động. Là một đề tài nghiên cứu lý luận, luận văn không đi quá sâu ở từng nội dung trong hoạt động xử phạt vi phạm trong lĩnh vực lao động. Tuy nhiên, luận văn có phân tích và khái quát hóa các yêu cầu thực tế của từng nội dung để làm nổi bật vấn đề quan tâm chủ yếu là: Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm pháp luật lao động. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về xử phạt vi phạm pháp luật lao động và hậu quả pháp lý của nó. Chương 2: Thực trạng xử phạt vi phạm pháp luật lao động và hậu quả pháp lý của nó. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm pháp luật lao động. 9
  10. Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG - HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA NÓ 1.1. QUAN NIỆM VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VÀ XỬ PHẠT VI PHẠM PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG 1.1.1. Khái niệm và các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật lao động 1.1.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật Trong đời sống xã hội, pháp luật là những chuẩn mực, thước đo cho hành vi xử sự của con người. Vi phạm pháp luật lao động là hiện tượng xã hội xuất hiện trong quá trình lao động. Đó là những hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về lao động. Vi phạm pháp luật lao động được thể hiện dưới những dạng thức khác nhau: có thể là việc thực hiện không đúng hoặc không thực hiện những quy định của pháp luật lao động đã được ghi trong Bộ luật lao động và các văn bản pháp luật khác [40, tr. 137]. Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật lao động là người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động; người lao động; tập thể lao động; tổ chức công đoàn khi thực hiện quyền đại diện cho người lao động. Vi phạm pháp luật lao động được hiểu là những hành vi không thực hiện hoặc thực hiện trái các quy định của pháp luật lao động, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động của Nhà nước và xã hội [22, tr. 160]. Như vậy, chúng ta có thể hiểu vi phạm pháp luật lao động là hành vi hành động hoặc không hành động trái pháp luật lao động và có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại tới quan hệ lao động và các quan hệ có liên quan đến quan hệ lao động. 10
  11. 1.1.1.2. Các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật lao động Các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật là tổng hợp các dấu hiệu pháp lý (khách quan và chủ quan) do từng ngành luật tương ứng quy định thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể vi phạm pháp luật. Thông thường một cấu thành vi phạm pháp luật gồm bốn yếu tố: Khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan. * Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật lao động Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý, nghĩa là theo quy định của pháp luật thì họ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi trái pháp luật của mình trong trường hợp đó [40, tr. 211]. Để đưa ra các biện pháp xử lý thích hợp đối với hành vi vi phạm pháp luật lao động việc xác định chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hết sức cần thiết. Chủ thể vi phạm pháp luật lao động có thể là: (i) Người sử dụng lao động; tổ chức đại diện người sử dụng lao động; (ii) Người lao động; (iii) Tập thể lao động; (iv) Tổ chức công đoàn; (v) Cơ quan tiến hành tố tụng lao động. - Người sử dụng lao động: Người sử dụng lao động là một chủ thể của quan hệ pháp luật lao động, bao gồm: cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cơ quan, tổ chức nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, cá nhân, hộ gia đình. Các chủ thể này trong quá trình sử dụng lao động đã không thực hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định của pháp luật lao động làm xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. - Người lao động: Người lao động trong các quan hệ thường là công dân Việt Nam. Để trở thành chủ thể quan hệ pháp luật lao động "Người lao động là người ít nhất có đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động" [32, Điều 6]. 11
  12. Người lao động chỉ có thể trở thành chủ thể của vi phạm pháp luật lao động khi họ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quyền và nghĩa vụ lao động dẫn đến xâm hại quyền và nghĩa vụ chủ thể khác trong quan hệ lao động. - Tổ chức công đoàn: Tổ chức công đoàn là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động và là tổ chức xã hội tập hợp đông đảo người lao động. Tổ chức công đoàn chỉ trở thành chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật lao động khi họ không thực hiện chức năng đại diện của mình, chống lại quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Trên thực tế, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là các tổ chức công đoàn rất ít, hầu như không có. Trong giai đoạn hiện nay công đoàn đã từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, thông qua đó bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của người lao động. - Cơ quan quản lý lao động, cơ quan tố tụng lao động: Các cơ quan này đại diện cho Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực lao động, đảm bảo cho pháp luật lao động được thi hành nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội thông qua việc thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật trong các cơ quan, tổ chức đối với cơ quan quản lý lao động và trong hoạt động xét xử các tranh chấp lao động với cơ quan tố tụng lao động. Ví dụ về những hành vi vi phạm pháp luật lao động của những cơ quan này có thể kể ra là: Đối với cơ quan quản lý nhà nước về lao động, trong quá trình thực hiện việc kiểm tra giám sát những quy định của pháp luật lao động phát hiện ra những hành vi vi phạm pháp luật lao động nhưng đã không xử lý hoặc xử lý không đúng với các quy định của pháp luật lao động hoặc đã cho phép sử dụng máy móc thiết bị không đảm bảo yêu cầu về an toàn vệ sinh lao động 12
  13. hay đã chấp thuận những giải pháp không đảm bảo vệ sinh lao động khi mở rộng hoặc cải tạo các cơ sở để sản xuất, sử dụng, lưu giữ chất phóng xạ Đối với cơ quan tố tụng lao động, trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động đã ra những bản án, quyết định trái với quy định của pháp luật lao động, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong việc đảm bảo thi hành các quy định của pháp luật lao động từ đó dẫn đến sự coi thường các quy định pháp luật lao động. * Khách thể của vi phạm pháp luật lao động Mọi hành vi trái pháp luật đều xâm hại tới những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh và bảo vệ. Vì vậy, những quan hệ xã hội ấy là khách thể của vi phạm pháp luật. Tính chất của khách thể có ý nghĩa quan trọng xác định mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật [21, tr. 391]. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật lao động, các chủ thể đều hướng tới mục đích nhất định, lợi ích mà các bên hướng tới rất khác nhau. Đối với người sử dụng lao động, khi tham gia vào quan hệ pháp luật lao động lợi ích mà họ hướng tới đó là lợi nhuận cao, đồng thời quá trình sản xuất đảm bảo trật tự nề nếp. Còn đối với người lao động lợi ích mà họ hướng tới là có thu nhập cao để đảm bảo cuộc sống của gia đình họ, nhưng đồng thời phải đảm bảo những điều kiện phù hợp cho quá trình lao động của mình. Đối với cơ quan quản lý nhà nước về lao động và cơ quan tố tụng lao động, lợi ích mà họ hướng tới là đảm bảo việc sử dụng lao động một cách hợp lý, đồng thời các quy định của pháp luật phát huy vai trò của nó trong việc bảo vệ quyền và lợi ích các bên trong quan hệ lao động, đặc biệt là người lao động. * Về mặt khách quan Về mặt khách quan là những dấu hiệu biểu hiện bên ngoài của vi phạm luật lao động, nó bao gồm các dấu hiệu như: hành vi vi phạm, hậu quả của hành vi vi phạm và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả [41, tr. 209]. 13
  14. Cũng như các loại vi phạm pháp luật khác, vi phạm pháp luật lao động được thể hiện qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định pháp luật pháp luật, gây thiệt hại chung cho xã hội hoặc thiệt hại trực tiếp về vật chất hay tinh thần cho từng thành viên cụ thể trong xã hội. Đây là dấu hiệu cơ bản bắt buộc phải có trong một vi phạm, những gì mới chỉ nằm trong tư tưởng trong suy nghĩ mà chưa thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi thì chưa thể là vi phạm. Những hành vi này có thể là không tuân thủ quy định của Bộ luật lao động năm 2012 về việc làm, học nghề, hợp đồng lao động, và khi những hành vi này được thực hiện nó có thể gây ra những hậu quả nhất định như sự tổn thất về vật chất hoặc tinh thần của các chủ thể hoặc xâm hại đến trật tự kỷ cương của Nhà nước. Những thiệt hại của các chủ thể, phải là sự hiện thực hóa khả năng gây hậu quả của hành vi trái pháp luật. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả do hành vi vi phạm gây ra là một dấu hiệu quan trọng của mặt khách quan. Quan hệ nhân quả ở đây được hiểu là hành vi vi phạm gây ra hậu quả và hậu quả xảy ra bắt nguồn trực tiếp từ hành vi vi phạm là nguyên nhân và kết quả của nhau. Nếu hậu quả xảy ra không liên quan hoặc không xuất phát trực tiếp từ hành vi vi phạm thì không phải là mối quan hệ nhân quả. Việc xác định được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật lao động và hậu quả gây ra có ý nghĩa trong việc xác định hành vi vi phạm cũng như trách nhiệm của người thực hiện hành vi. * Về mặt chủ quan Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật [41, tr. 210]. Nó được đặc trưng bởi yếu tố lỗi, động cơ và mục đích của chủ thể thực hiện vi phạm pháp luật lao động. Lỗi được coi là một dấu hiệu cơ bản trong cấu thành của mọi vi phạm. Nó là yếu tố quyết định đến các yếu tố khác trong mặt chủ quan của vi phạm pháp luật lao động. Lỗi là trạng thái tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái 14
  15. độ của người đó đối với hành vi vi phạm pháp luật của mình. Lỗi trong vi phạm pháp luật lao động được quy định dưới hai hình thức: cố ý và vô ý. Lỗi cố ý thể hiện ở việc người sử dụng lao động hay người lao động nhận thức được tính chất trái pháp luật của hành vi nhưng vẫn thực hiện. Trong trường hợp, người sử dụng lao động hay người lao động không nhận thức được hành vi của mình trái pháp luật lao động hoặc nhận biết được nhưng lại sơ suất cho rằng có thể ngăn ngừa hậu quả vi phạm thì đó là lỗi vô ý. Thông thường, trước khi tiến hành xử lý vi phạm pháp luật lao động người ta phải xét đến yếu tố lỗi của chủ thể. Trong nhiều trường hợp, yếu tố lỗi được xét đến như tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ. Động cơ là lý do thúc đẩy chủ thể thực hiện vi phạm pháp luật lao động còn mục đích là kết quả mà chủ thể muốn đạt được khi thực hiện vi phạm đó. Người sử dụng lao động thường quan tâm đến lợi nhuận và giảm thiểu chi phí trong kinh doanh. Chính vì thế họ không đảm bảo đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Người lao động có thể do không hiểu biết các quy định của pháp luật mà vi phạm. 1.1.2. Khái niệm về xử phạt vi phạm pháp luật lao động Vi phạm pháp luật là một xử sự phi xã hội, chống lại trật tự xã hội chủ nghĩa, gây tác hại cho lợi ích xã hội, cho từng thành viên và tổ chức của nó. Để bảo vệ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa thì ngăn ngừa vi phạm pháp luật là một trong những hoạt động chính của nhà nước và xã hội. C. Mác - Ph. Ăngghen coi việc phòng ngừa và ngăn chặn các tội phạm là hướng chính trong việc loại trừ tội phạm (vi phạm pháp luật). C.Mác - Ph. Ăngghen đã nhấn mạnh: "Một người làm luật thông thái sẽ làm tất cả những gì nhằm ngăn chặn tội phạm hơn là việc bắt buộc phải xử phạt" [13]. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường thì vấn đề vi phạm pháp luật là khó tránh khỏi. Vì vậy phải xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm nhằm hạn chế sự vi phạm 15
  16. và loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của sự vi phạm đó đối với xã hội. Để thực hiện việc xử phạt vi phạm pháp luật đạt hiệu quả cao thì phải tuân theo những yêu cầu cơ bản chung cho tất cả các loại trách nhiệm pháp lý được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật lao động đó là: đảm bảo tính giáo dục và sự phát triển hài hòa, ổn định của quan hệ lao động và thị trường lao động. Mỗi một vi phạm pháp luật lao động nhất thiết phải dẫn đến việc xử phạt. Điều 52 Hiến pháp 1992 của nước ta khẳng định: "Mọi công dân bình đẳng trước pháp luật" [27]. Vì vậy với bất cứ ai, ở địa vị nào trong quan hệ lao động (là người sử dụng lao động, người lao động hay chủ thể khác) khi có hành vi vi phạm pháp luật lao động đều bị xử phạt vi phạm. Xử phạt vi phạm pháp luật lao động của người lao động hoặc người sử dụng lao động là nhằm bảo vệ và tạo điều kiện cho môi trường lao động phát triển lành mạnh, đảm bảo cho quá trình điều chỉnh pháp luật được tiến hành bình thường và có hiệu quả. Việc xử phạt vi phạm pháp luật chủ yếu do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Cơ quan quản lý nhà nước, Tòa án ) áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Tức là áp dụng các biện pháp cưỡng chế đã được Nhà nước quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Việc áp dụng các biện pháp này đem lại những hậu quả bất lợi cho người vi phạm. Ngoài tác dụng trừng phạt, các biện pháp để xử phạt vi phạm pháp luật còn có ý nghĩa rất lớn trong việc phòng ngừa, cải tạo, giáo dục những người vi phạm pháp luật và ngăn ngừa tiếp tục vi phạm. Nó còn có tác dụng răn đe tất cả những người khác khiến họ phải tuân theo pháp luật, giáo dục ý thức tôn trọng và tự nguyện thực hiện pháp luật, tích cực đấu tranh chống mọi biểu hiện vi phạm pháp luật, dần dần từng bước hạn chế và tiến tới loại trừ hiện tượng vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, Nhà nước áp dụng các biện pháp xử phạt phù hợp với các vi phạm để không chỉ nhằm trừng phạt người vi phạm mà còn giáo dục cá nhân, tập thể vi phạm sửa chữa, ngăn ngừa và triệt tiêu sự vi phạm trong tương lai. 16
  17. Đồng thời còn nhằm giáo dục các thành viên trong tập thể lao động tôn trọng pháp luật, biết đấu tranh phòng ngừa và chống sự vi phạm pháp luật lao động đảm bảo cho môi trường lao động tồn tại và phát triển lành mạnh. Như vậy, ta có thể định nghĩa, xử phạt vi phạm pháp luật lao động là một hoạt động cưỡng chế mang tính quyền lực Nhà nước phát sinh khi có hành vi vi phạm trong lĩnh vực lao động biểu hiện ở việc áp dụng các chế tài mang tính chất trừng phạt do các chủ thể có thẩm quyền nhân danh Nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật. 1.2. SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC XỬ PHẠT VI PHẠM PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG 1.2.1. Nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật trong việc xử phạt vi phạm pháp luật lao động Nguyên tắc xử phạt vi phạm pháp luật lao động là những tư tưởng chỉ đạo quá trình áp dụng các quy định của văn bản quy phạm pháp luật vào xử phạt vi phạm hành chính về pháp luật lao động [40, tr. 139]. Việc xử phạt vi phạm pháp luật không bao giờ là tùy tiện mà cần phải tuân thủ những quy định chặt chẽ của pháp luật, đó chính là các nguyên tắc khi xử phạt vi phạm. Vi phạm pháp luật lao động cần tuân thủ các nguyên tắc sau: Thứ nhất, việc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động do người có thẩm quyền theo quy định thực hiện. Những cá nhân, tổ chức không có thẩm quyền không được tiến hành việc xử phạt; Thứ hai, việc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động phải được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật; Thứ ba, việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, thân nhân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ (chẳng hạn 17
  18. người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi ), tình tiết tăng nặng (chẳng hạn vi phạm có tổ chức, vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm trong cùng một lĩnh vực ) để quyết định hình thức và biện pháp xử phạt phù hợp; Tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ là những tình tiết làm tăng hoặc giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Do vậy việc xem xét kỹ tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ sẽ giúp cho người có thẩm quyền ra những quyết định đúng đắn đó. Thứ tư, một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt; Thứ năm, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính. Xử phạt vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động nói riêng là một trong những hoạt động quản lý nhà nước rất quan trọng. Theo quan điểm của C. Mác thì: Hình phạt chẳng qua là sự tự vệ của xã hội đối với những hành vi xâm phạm đến điều kiện tồn tại của nó. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động bao gồm nhiều hoạt động cụ thể khác nhau. Trong lĩnh vực lao động thì hoạt động xử phạt vi phạm hành chính là một trong những hoạt động quan trọng nhất, có ý nghĩa to lớn trong đấu tranh phòng chống vi phạm, có tác dụng trực tiếp củng cố và tăng cường trật tự quản lý nhà nước. Thực chất của việc xử phạt vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động nói riêng là việc áp dụng các chế tài hành chính có tính chất răn đe do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc áp dụng chế tài hành chính 18
  19. không phải tập trung vào mục đích răn đe mà chủ yếu hướng đến giáo dục người vi phạm. 1.2.2. Thẩm quyền tham gia xử phạt vi phạm pháp luật lao động Bản chất của xử phạt là một hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động xử phạt vi phạm pháp luật lao động phải do cơ quan, cán bộ quản lý nhà nước có thẩm quyền chung là Ủy ban nhân các cấp và người có thẩm quyền xử phạt là Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan chuyên ngành là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trong đó người có thẩm quyền xử phạt là thanh tra lao động. Trong quá trình thi hành công vụ của mình thanh tra nhà nước về lao động giữ vai trò rất quan trọng trong việc phát hiện, xử phạt các hành vi vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền của mình hoặc đề nghị Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện việc xử phạt nhằm mục đích bảo vệ, duy trì trật tự quản lý nhà nước về lao động. Trong trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi vi phạm cụ thể. Nếu các hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người thuộc các cơ quan khác nhau, thì quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm. Thanh tra nhà nước về lao động (thanh tra viên lao động, người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành đang thi hành công vụ; Chánh thanh tra lao động cấp Sở; Chánh thanh tra lao động cấp Bộ); Thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực an toàn lao động, vệ sinh lao động thuộc các ngành công an, quốc phòng, khoa học và công nghệ, công nghiệp, giao thông vận tải quản lý. Trong trường hợp những người có thẩm quyền đương nhiên được xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật mà vắng mặt thì cấp phó 19
  20. được ủy quyền có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Nghiên cứu về vấn đề này, TS. Trần Minh Hương có nêu: "Nhiều người quan niệm rằng việc ủy quyền phải được thể hiện bằng văn bản theo vụ việc, nếu tuân thủ quy định thì sẽ phải lập văn bản ủy quyền nhiều lần và như vậy sẽ không giải quyết kịp thời các vụ vi phạm trong trường hợp cấp trưởng đi vắng" [20]. Theo Luật xử lý vi phạm hành chính của Trung Quốc thì chủ thể có thẩm quyền xử phạt là Hội đồng nhà nước (cơ quan quyền lực nhà nước - tương đương Quốc hội) hoặc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, vùng tự trị được Hội đồng nhà nước ủy quyền có thể chỉ định một cơ quan hành chính thực hiện quyền xử phạt hành chính của các cơ quan hành chính có liên quan. Trong phạm vi quyền hạn luật định, cơ quan hành chính có thể ủy quyền cho các tổ chức có đủ điều kiện thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính. 1.2.3. Hình thức xử phạt Hình thức xử lý đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật lao động gồm có các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả. Hình thức xử phạt thể hiện sự răn đe, trừng phạt của pháp luật đối với những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước thông qua việc buộc người vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất hoặc tinh thần. Ngoài ra, các quy định này còn mang tính giáo dục đối với cá nhân, tổ chức bị xử phạt góp phần nâng cao ý thức của công dân trong việc chấp hành pháp luật và các quy tắc quản lý nhà nước, qua đó bảo vệ duy trì trật tự quản lý nhà nước. Các biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính mang tính cưỡng chế nhà nước, được áp dụng nhằm mục đích khắc phục triệt 20
  21. để hậu quả do vi phạm hành chính gây ra, bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng và hoạt động bình thường của xã hội. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động bao gồm hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung. Các hình thức xử phạt chính Hình thức xử phạt chính là hình thức xử phạt "được áp dụng một cách độc lập, nghĩa là đối với mỗi vi phạm hành chính có thể áp dụng một hình thức xử phạt chính mà không nhất thiết phải áp dụng các hình thức phạt bổ sung kèm theo" [21, tr. 567]. Khi có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động do pháp luật quy định, cá nhân, tổ chức vi phạm bắt buộc phải chịu một trong hai hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Bộ luật xử phạt vi phạm hành chính của Liên bang Nga quy định 8 hình thức xử phạt hành chính gồm: Cảnh cáo; phạt tiền hành chính; tịch thu có bồi hoàn công cụ thực hiện hoặc là đối tượng của vi phạm hành chính; tước quyền đã cấp cho người vi phạm; giam giữ hành chính; trục xuất đối với người nước ngoài hoặc người không quốc tịch và tước quyền đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo pháp nhân. Về nguyên tắc, mỗi cá nhân, tổ chức vi phạm chỉ phải chịu một trong những hình thức xử phạt chính. Pháp luật quy định và áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hay phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật lao động dựa trên đánh giá của Nhà nước về tính chất, mức độ xâm hại của hành vi đó đối với các quy tắc quản lý nhà nước về lao động, tùy theo nhân thân và tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng của người vi phạm. Hình thức phạt cảnh cáo là một biện pháp về mặt tinh thần. So với hình thức phạt tiền, thì cảnh cáo là hình thức xử phạt nhẹ hơn, mang tính ý nghĩa giáo dục nhiều hơn trừng phạt. Đây là hình thức cảnh báo cho đương sự 21