Luận văn Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_xu_ly_vi_pham_hanh_chinh_doi_voi_nguoi_chua_thanh_n.pdf
Nội dung text: Luận văn Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN KHÁNH MY XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG LĨNH VỰC TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH ĐẮK LẮK, 2020
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN KHÁNH MY XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG LĨNH VỰC TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.TRẦN QUỐC TOÀN ĐẮK LẮK, 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện độc lập và dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Quốc Toàn. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Đắk Lắk, ngày tháng năm 2020 HỌC VIÊN Nguyễn Khánh My i
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG MỞ ĐẦU 1 Chương 1 8 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG LĨNH VỰC TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm của xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội 8 1.2. Đặc điểm, nguyên tắc, biện pháp, hình thức xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội 15 1.3. Các yếu tố tác động đến xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội 33 Tiểu kết Chương 1 36 Chương 2 37 THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG LĨNH VỰC TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK 37 2.1. Khái quát về thành phố Buôn Ma Thuột 37 2.2. Thực tiễn xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk 39 2.3. Đánh giá xử lý vi phạm hành chính và thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính về trật tự an toàn xã hội đối với người chưa thành niên trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột 56 Tiểu kết Chương 2 62 Chương 3 63 ii
- PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG LĨNH VỰC TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK 63 3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk 63 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk 65 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 iii
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VPHC: Vi phạm hành chính XLVPHC: Xử lý vi phạm hành chính NCTN: Người chưa thành niên iv
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Tình hình vi phạm hành chính trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột do người chưa thành niên thực hiện theo lĩnh vực, giai đoạn 2015-2019 57 Bảng 2.2. Tình hình vi phạm hành chính trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột do người chưa thành niên thực hiện theo độ tuổi, giai đoạn 2015-2019 60 Bảng 2.3. Tình hình vi phạm hành chính trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột do người chưa thành niên thực hiện theo giới tính, giai đoạn 2015-2019 62 Bảng 2.4. Hình thức xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột do người chưa thành niên thực hiện giai đoạn 2015-2019 65 v
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thanh thiếu niên trẻ, người chưa thành niên được xác định là thế hệ tương lai của đất nước, là lớp người sẽ kế tục sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, có vai trò xung kích quan trọng trong các cuộc cách mạng dân tộc và quá trình xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa, xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp. Chính vì tầm quan trọng như vậy, nên vấn đề chăm sóc, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ và đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn thế hệ trẻ, người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm. Có thể nói, lứa tuổi chưa thành niên là giai đoạn phát triển về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ. Do đó, họ cần được đối xử khác với cách đối xử dành cho người đã thành niên và cần được gia đình, xã hội và Nhà nước bảo vệ, chăm sóc đặc biệt. Quan điểm, chính sách cơ bản này đã được thể hiện nhất quán, xuyên suốt trong Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được cụ thể hóa trong một số các Bộ luật, luật quan trọng ở cả hai hệ thống hành chính và hình sự, được quy định riêng (có chương riêng, các điều khoản riêng) về các loại trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật áp dụng đối với người chưa thành niên. Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực từ ngày 01/7/2013, cùng với các Nghị định, Thông tư hướng dẫn liên quan trong trong lĩnh vực này cũng đã tương đối đầy đủ, là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần bảo đảm trật tự kỷ cương quản lý hành chính, an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Đối với đối tượng người chưa thành niên vi phạm, Luật xử lý vi phạm hành chính đã dành một phần riêng để quy định về chính sách xử lý đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính và quy định về các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính (bao gồm nhắc nhở, quản lý tại gia đình); điều kiện, thẩm quyền và thủ 1
- tục áp dụng các biện pháp thay thế. Ðây là một nội dung mới, tiến bộ, thể hiện chính sách nhất quán của Ðảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm đến đối tượng người chưa thành niên nói chung, người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói riêng, nâng cao một bước phát triển về thể chế pháp lý bảo vệ quyền con người trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Đồng thời góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, thực hiện tốt việc phòng, chống, ngăn ngừa, xử lý và tuyên truyền có hiệu quả những hành vi vi phạm của các đối tượng là người chưa thành niên. Tuy vậy về tổng thể hệ thống pháp luật này vẫn còn tản mạn, phân tán trong nhiều luật, văn bản pháp luật khác nhau, khó khăn cho việc nghiên cứu, áp dụng, thực thi. Đặc biệt đối tượng áp dụng là người chưa thành niên do đặc thù về thể chất và trí tuệ nên việc xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm hành chính nói riêng là vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn. Trên thực tế, tình hình vi phạm pháp luật hành chính do người chưa thành niên thực hiện có chiều hướng gia tăng và có diễn biến phức tạp, phổ biến và rất đáng lo ngại, được đánh giá là nguy hiểm cho xã hội, với nhiều vấn đề mới nảy sinh trên thực tiễn mà các quy định pháp luật có thể chưa theo kịp để điều chỉnh. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến qui định của pháp luật về người chưa thành niên, về xử lý vi phạm hành chính áp dụng đối với người chưa thành niên, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị đề xuất để tiếp tục hoàn thiện pháp luật hiện hành và giải quyết những vướng mắc của thực tiễn áp dụng là việc làm cần thiết. Điều này không những có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa cả về thực tiễn trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay ở Việt Nam, và đảm bảo cho pháp luật thực thi đạt được hiệu quả cao nhất, góp phần ngăn ngừa, đấu tranh, phòng chống những hành vi vi phạm pháp luật do chủ thể là người chưa thanh niên thực hiện, vừa không lạm dụng các biện pháp cưỡng chế hạn chế quyền và lợi ích của người chưa thành niên, vừa quản lý, giáo dục có hiệu quả với đối tượng này. Điều này đặc biệt có ý nghĩa hơn đối với thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn xây dựng và phát triển trở thành Trung tâm vùng Tây 2
- Nguyên theo Kết luận số 67 của Bộ Chính trị. Hiện nay bên cạnh những thành quả tốt đẹp đạt được đã xuất hiện một thực trạng đáng lo ngại là người chưa thành niên vi phạm pháp luật đang dần gia tăng. Hậu quả tiêu cực của người chưa thành niên vi phạm pháp luật không chỉ ảnh hưởng một cách không tốt đến tình hình kinh tế - xã hội, trật tự an toàn xã hội đang trên đà phát triển của thành phố Buôn Ma Thuột mà còn ảnh hưởng lớn đến những giá trị tốt đẹp, chuẩn mực sống, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Với những lý do trên tác giả đã lựa chọn đề tài “Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu trong lĩnh vực này nhận được nhiều quan tâm và đã có nhiều tác giả, nhìn chung các công trình, nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung, tổng quan. Trong đó có thể tìm hiểu một số công trình khoa học sau: - Luận án tiến sĩ luật, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính về “Biện pháp xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật” của tác giả Hoàng Minh Khôi, Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2014) có phạm vi nghiên cứu rộng. Luận án này trên cơ sở tiếp cận những khái niệm chung nhất về các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật và căn cứ làm phát sinh trách nhiệm pháp lý của người chưa thành niên vi phạm pháp luật, luận án đã xây dựng lý luận về bản chất, đặc điểm của người chưa thành niên vi phạm pháp luật thuộc đối tượng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính và bản chất, đặc điểm của các biện pháp đó. Làm rõ các yếu tố đặc thù và tính tồn tại khách quan của chúng với tư cách là phạm trù pháp lý cần được Pháp điển hóa. Đồng thời, từ cơ sở lý luận trên, hệ thống những nội dung cơ bản hình thành khung lý thuyết của luận án đã được nghiên cứu và làm sáng tỏ. - Luận văn thạc sỹ luật học về “Pháp luật hành chính về quyền của người chưa thành niên” của tác giả Lê Thị Ngọc Thanh (2010) nghiên cứu các vấn đề lý 3
- luận và pháp lý hành chính về quyền của người chưa thành niên: khái niệm, nội dung cơ bản của quyền con người; khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền của người chưa thành niên; cơ sở pháp lý hành chính Việt Nam về quyền của người chưa thành niên; hực trạng pháp luật hành chính về quyền của người chưa thành niên, nhận xét, đánh giá thực trạng pháp luật hành chính về quyền của người chưa thành niên cuối cùng là phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật hành chính về quyền của người chưa thành niên ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó có một số công trình như: Luận văn thạc sỹ luật học về “Hoàn thiện pháp luật về xử lý hành chính với người chưa thành niên” của tác giả Nguyễn Ngọc Bích, Đại học Luật Hà Nội (2003); Luận văn thạc sỹ luật học về “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính: Lý luận và thực tiễn” của tác giả Bùi Tiến Đạt, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2008); Luận văn “Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên - Lý luận và thực tiễn”, tác giả Đồng Thúy An (2011) Các nghiên cứu này nghiên cứu một cách tổng quan những vấn đề lý luận liên quan đến xử lý vi phạm hành chính, về chủ thể là người chưa thành niên Tuy vậy các nghiên cứu liệt kê trên được tiến hành đã lâu, trước thời điểm Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 ban hành, và cho đến nay thì hệ thống pháp luật hành chính và xử lý vi phạm hành chính đã có thay đổi một cách toàn diện. Các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn trong công tác xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên; tuy nhiên, chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu về công tác xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, cũng như đưa ra các giải pháp để phòng ngừa, ngăn chặn, hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi vi phạm trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, tác giả sẽ tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn từ các công trình nghiên cứu nêu trên và có những nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu về xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội từ thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 4
- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu -Mục đích nghiên cứu: Đánh giá thực trạng xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển về con người của địa phương. Nhiệm vụ nghiên cứu: -Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội và các yếu tố tác động làm gia tăng vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên và xử lý vi phạm hiện nay. - Phân tích thực trạng công tác xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2015-2019. - Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu -Đối tượng nghiên cứu: là công tác xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. -Phạm vi nghiên cứu: - Về nội dung: Xử lý vi phạm hành chính (gồm xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính) đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk - Về thời gian và không gian: Từ năm 2015 đến năm 2019 tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk 5
- 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng làm cơ sở, phương pháp luận cho việc nghiên cứu để giải quyết những vấn đề lý luận tình hình về vấn đề vi phạm hành chính của người chưa thành niên về vấn đề trật tự an toàn xã hội. -Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập thông tin: Được thực hiện thông qua nghiên cứu, tổng hợp từ các tài liệu, công trình đã công bố như: sách, giáo trình, tập bài giảng, luận án, luận văn, báo cáo nghiên cứu, và được thu thập qua các giáo trình, luận văn, luận án, văn bản pháp luật của các tác giả thu thập thông qua tham khảo ý kiến chuyên gia, trao đổi với các nhà quản lý liên quan đến lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính. - Phương pháp xử lý thông tin: Thông tin được xử lý thông qua các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh. - Phương pháp thống kê: Các số liệu sau khi thu thập được hệ thống hóa, thống kê qua từng năm. - Phương pháp phân tích: Phân tích những khía cạnh khác nhau của số liệu, từ đó chọn lọc những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn -Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ vấn đề lý luận quản lý nhà nước về vi phạm hành chính của người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội; hệ thống hóa và làm rõ về vi phạm hành chính của người chưa thành niên tác hại đến sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, tổn hại đến lợi ích của cộng đồng. Đánh giá và phân tích rõ thực trạng xử lý vi phạm hành chính của người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột, 6
- tỉnh Đắk Lắk. -Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp các cơ quan tổ chức tham khảo để vận dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ nhận thức và ý thức pháp luật cho người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội; đề ra phương án cụ thể, trước mắt và lâu dài nhằm nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả, tăng cường quản lý nhà nước trong việc xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung về xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội. Chương 2: Thực trạng xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG LĨNH VỰC TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI 1.1. Khái niệm, đặc điểm của xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội 1.1.1. Người chưa thành niên Đã có nhiều văn bản quốc tế về quyền con người của trẻ em, của người chưa thành niên ra đời trong hơn nửa thế kỷ qua. Đồng thời, việc tăng cường bảo vệ các quyền của trẻ em cũng là một khía cạnh quan trọng trong hoạt động của các cơ quan và chương trình của Liên Hợp Quốc (LHQ). Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của LHQ về vấn đề trẻ em sử dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em xác định rõ: "Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn". Trong một số văn bản, khái niệm trẻ em được gọi là người chưa thành niên hoặc thanh, thiếu niên. Tuy nhiên, trong quan hệ với pháp luật và thực thi pháp luật, trẻ em thường được gọi là người chưa thành niên: - Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh), được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 29-11-1985 nêu rõ: "Người chưa thành niên là trẻ em hay người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn". - Quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do thông qua ngày 14-12-1990 nêu cụ thể: "Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”. Dựa trên những quy định của luật pháp quốc tế về người chưa thành niên, các quốc gia trên thế giới đã đưa ra các quy định về người chưa thành niên nói 8
- chung, người chưa thành niên phạm tội nói riêng, các chế tài xử lý người chưa thành niên phạm tội phù hợp với điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội, phong tục, tập quán, pháp luật của mỗi nước. Chẳng hạn như: Như vậy người chưa thành niên là những người chưa trưởng thành do họ còn non nớt về thể chất và trí tuệ. Do đó, người chưa thành niên cần được đối xử khác với cách đối xử dành cho người đã thành niên và cần được gia đình, xã hội và Nhà nước bảo vệ, chăm sóc đặc biệt. Quan điểm, chính sách cơ bản này đã được thể hiện trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam cũng như trong một số luật quan trọng ở cả hệ thống hành chính và hình sự. Theo đó, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Tóm lại: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. * Đặc điểm của người chưa thành niên Việc tìm hiểu đặc điểm người chưa thành niên là điều quan trọng đối với cơ quan pháp luật nói chung, và các cơ quan tiến hành xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên nói riêng. Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Chính vì vậy mà họ có những đặc điểm riêng về tâm lý và các nghiên cứu khoa học về tâm lý học đã phân tích rõ các đặc điểm này, đó là: - Về trạng thái cảm xúc 9
- Người chưa thành niên là người đang trong quá trình phát triển cả về sinh lí, tâm lí và ý thức. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt, đó là sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc của người chưa thành niên. Trên thực tế, trạng thái thần kinh, trạng thái cảm xúc không cân bằng có thể là yếu tố gây nên các hành vi lệch chuẩn. Có không ít trường hợp, do xuất phát từ những mâu thuẫn nhỏ, nhưng không kiềm chế được sự nóng giận quá khích mà người chưa thành niên đã phạm phải hành động sai lầm, thậm chí là thực hiện hành vi phạm tội. - Về nhận thức pháp luật Có thể nói, lứa tuổi chưa thành niên là giai đoạn phát triển về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ. Đó là lứa tuổi mà kinh nghiệm trong cuộc sống còn quá ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp luật còn nhiều hạn chế. Một phần không nhỏ người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu, hứng thú không đúng đắn của cá nhân, không quan tâm đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Chỉ khi được giải thích, phân tích thì các em mới hiểu rằng hành vi của mình là phạm tội. - Về nhu cầu độc lập Nhu cầu độc lập có thể được hiểu là việc cá nhân tự hành động và tự ra quyết định theo ý kiến riêng mà không muốn bị ảnh hưởng của người khác. Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý rằng, nhu cầu độc lập không chỉ có mặt tích cực mà còn có mặt tiêu cực nếu một khi nó phát triển theo hướng thái quá. Đặc biệt, ở lứa tuổi chưa thành niên, nhu cầu độc lập thái quá thường biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng các hành vi như ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ, phô trương. Tất cả những hành vi này của người chưa thành niên đều mang tính chất của hành vi lệch chuẩn, dễ dẫn tới các hành vi phạm tội. - Về nhu cầu khám phá cái mới Tìm hiểu, khám phá cái mới là một trong những nhu cầu của các em ở lứa tuổi chưa thành niên. Tuy vậy, sự tò mò và khám phá cái mới cũng có thể trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em, nếu các em 10
- thiếu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của gia đình, xã hội, không tự chủ được bản thân và không phân biệt được phải trái, đúng sai. Như đã phân tích trên, điểm đặc thù của người chưa thành niên là sự hạn chế về nhận thức, do vậy việc xử lý họ chủ yếu nhằm giáo dục, qua đó giúp họ nhận thức được sai lầm và tuân thủ quy định của pháp luật. Và xuất phát từ những đặc điểm khác biệt về thể chất và tinh thần của người chưa thành niên so với người trưởng thành mà pháp luật xử lý vi phạm hành chính có quy định riêng đối với người chưa thành niên vi phạm. 1.1.2. Người chưa thành niên vi phạm hành chính Trong thực tiễn thi hành và áp dụng pháp luật hiện nay, VPHC thường được hiểu một cách chung nhất là hành vi vi phạm các quy tắc quản lý của Nhà nước nhưng không phải là tội phạm và bị xử lý theo thủ tục hành chính do những người có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính Nhà nước tiến hành mà không phải là cơ quan Tòa án với các thủ tục tư pháp. Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm “VPHC” lần đầu tiên được định nghĩa một cách chính thức tại Pháp lệnh Xử phạt VPHC ngày 30/11/1989, Điều 1 của Pháp lệnh này quy định “VPHC là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Định nghĩa này sau đó đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi hành pháp luật và đưa vào các giáo trình giảng dạy về pháp luật. Theo Pháp lệnh xử lý VPHC năm 1995 và sau đó là Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002 thì khái niệm VPHC không được định nghĩa riêng biệt nữa mà được đưa “lẩn” vào trong khái niệm “xử lý VPHC”, nếu trích dẫn từ định nghĩa về “xử lý VPHC” được quy định tại khoản 2 Điều 1 xử lý VPHC năm 2002 thì VPHC được hiểu là “hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân, tổ chức, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt VPHC”. Luật xử lý VPHC 2012 quy định “VPHC là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy 11
- định của pháp luật phải bị xử phạt VPHC”. Về ngôn ngữ thể hiện, có thể thấy có đôi chút khác nhau giữa định nghĩa về VPHC được quy định trong các Pháp lệnh về xử phạt/xử lý VPHC 1989, 1995 và 2002, 2012, tuy nhiên về bản chất hành vi VPHC thì các định nghĩa trong các văn bản pháp luật này, về cơ bản, không có gì khác nhau. VPHC có 04 dấu hiệu cơ bản sau đây: Thứ nhất, VPHC là hành vi trái pháp luật, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý Nhà nước; tác hại (tính nguy hiểm) do hành vi gây ra ở mức độ thấp, chưa hoặc không cấu thành tội phạm hình sự và hành vi đó được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt VPHC. Đây chính là dấu hiệu “pháp định” của vi phạm. Thứ hai, hành vi đó phải là một hành vi khách quan đã được thực hiện (hành động hoặc không hành động), phải là một việc thực, chứ không phải chỉ tồn tại trong ý thức hoặc mới chỉ là dự định, đây có thể coi là dấu hiệu “vật chất” của vi phạm. Thứ ba, hành vi đó do một cá nhân hoặc pháp nhân (tổ chức) thực hiện, đây là dấu hiệu xác định“chủ thể” của vi phạm. Thứ tư, hành vi đó là một hành vi có lỗi, tức là người vi phạm nhận thức được vi phạm của mình, hình thức lỗi có thể là cố ý, nếu người vi phạm nhận thức được tính chất trái pháp luật trong hành vi của mình, thấy trước hậu quả của vi phạm và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc ý thức được hậu quả và để mặc cho hậu quả xảy ra; hình thức lỗi là vô ý trong trường hợp người vi phạm thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng chủ quan cho rằng mình có thể ngăn chặn được hậu quả hoặc không thấy trước hậu quả sẽ xảy ra dù phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả của vi phạm. Tóm lại, từ các phân tích trên, có thể đưa đến khái niệm vi phạm hành chính như sau: Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm hành chính thực hiện, xâm hại vào các quan hệ được luật hành chính bảo vệ mà theo quy định của pháp luật thì phải chịu trách nhiệm hành chính. Để xác định rõ người chưa thành niên VPHC ngoài xác định yêu tố hành vi, cần xác định người chưa thành niên bị xử phạt hành chính theo luật xử lý VPHC là những đối tượng nào. Theo điều 5 Luật Xử lý VPHC 2012 quy đinh:“Các đối tượng 12
- bị xử phạt VPHC có người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt VPHC về VPHC do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt VPHC về mọi VPHC”. Như vậy có thể hiểu những người chưa thành niên bị xử phạt hành chính là những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Như vậy, người chưa thành niên VPHC là những người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi vi phạm quy định của pháp luật về quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt VPHC. 1.1.3. Xử phạt vi phạm hành chính Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội. Pháp luật có ba chức năng: điều chỉnh, bảo vệ và giáo dục. Sở dĩ pháp luật có chức năng bảo vệ vì trong xã hội vẫn tồn tại những “vi phạm pháp luật” - là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các lợi ích ủa xã hội, quyền và lợi ích của công dân, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách có lỗi. Và người phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý - hậu quả của vi phạm pháp luật và được thể hiện trong việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế (hay là chế tài xử lý). Như đã nói trên, xử lý vi phạm hành chính là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nhằm duy trì trật tự, kỷ cương hành chính trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Khoản 2 Điều 2 của Luật XLVPHC đề cập: “Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”. Vi phạm hành chính là hành vi hành động hoặc không hành động) trái pháp luật, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành vi hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật tự nhà nước và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu 13
- của Nhà nước, của tổ chức và của cá nhân, xâm phạm các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính. Và chủ thể thực hiện vi phạm hành chính phải chịu trách nhiệm hành chính - là hậu quả của vi phạm hành chính, thể hiện ở sự áp dụng bởi cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền những chế tài pháp luật hành chính đối với chủ thể vi phạm hành chính theo thủ tục do luật hành chính quy định. Đó là sự phản ứng tiêu cực của Nhà nước đối với người thực hiện vi phạm hành chính, kết quả là chủ thể thực hiện vi phạm hành chính phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, thiệt hại về vật chất và tinh thần so với tình trạng ban đầu của họ. Trên cơ sở tiếp thu các luận giải của các nhà khoa học về khái niệm xử lý, xử phạt VPHC, tác giả đưa ra khái niệm xử lý VPHC như sau: Xử phạt VPHC là hoạt động của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt VPHC, các biện pháp khắc phục hậu quả, các biện pháp ngăn chặn VPHC và đảm bảo việc xử phạt VPHC đối với những cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi VPHC nhằm đảm bảo trật tự và kỷ luật trong quản lý nhà nước. * Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính Thuật ngữ xử lý VPHC chỉ mới xuất hiện và được chính thức quy định lần đầu tiên ở nước ta trong pháp lệnh xử lý VPHC năm 1995. Xử lý VPHC trong Pháp lệnh này bao gồm xử phạt VPHC và các biện pháp XLHC khác. Luật xử lý VPHC năm 2012 cũng không đưa ra khái niệm về xử lý VPHC, dựa trên cơ sở các quy định của luật, có thể thấy thuật ngữ bao gồm xử phạt VPHC và áp dụng các biện pháp XLHC. Cũng trong Luật này, nhà làm luật còn đưa ra các biện pháp thay thế xử lý VPHC, tuy nhiên các biện pháp này chỉ được xem xét và áp dụng đối với người có hành vi VPHC, cụ thể là: - Xử phạt VPHC là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi VPHC theo quy định của pháp luật về xử phạt VPHC. - Biện pháp xử lý VPHC là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao 14