Luận văn Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay ngân hàng từ thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay ngân hàng từ thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_xu_ly_tai_san_the_chap_la_quyen_su_dung_dat_de_bao.pdf
Nội dung text: Luận văn Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay ngân hàng từ thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ HUẾ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI -2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ HUẾ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. GVCC. DOÃN HỒNG NHUNG HÀ NỘI - 2017
- MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM. 7 1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng và nghĩa vụ trả nợ tiền vay tại Ngân hàng ở Việt Nam. 7 1.2. Quyền sử dụng đất và pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng ở Việt Nam 11 1.3.Xử lý tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất 18 CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 23 2.1.Thực trạng pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất 23 2.2 Pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay của Ngân hàng. 25 2.3.Áp dụng pháp luật trong việc xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay trong các hợp đồng tín dụng của Ngân hàng từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. 46 CHƢƠNG 3 HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ĐỂ ĐẢM BẢO TIỀN VAY NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP 60 3.1.Cơ sở để hoàn thiện pháp luật xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng 60 1
- 3.2.Hoàn thiện pháp luật xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng và nâng cao hiệu quả xử lý tài sản thế chấp 63 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75 2
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng như sự thông thoáng của cơ chế cho vay trong thị trường tài chính thì việc cho vay của các tổ chức tín dụng đã góp phần tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp và cá nhân phát triển kinh tế. Do đó, hoạt động vay vốn ngân hàng đã và đang diễn ra sôi động, ngày càng trở nên quan trọng và không thể thiếu trong bối cảnh nền kinh tế thị trường. Đi kèm với nó là việc bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng mà đặc trưng nhất là thế chấp tài sản. Trong số các tài sản được sử dụng để thế chấp bảo đảm khoản vay ngân hàng thì quyền sử dụng đất (QSDĐ) là tài sản được sử dụng phổ biến và được bên nhận thế chấp ưa chuộng hơn so với tài sản khác.Tuy nhiên, trong tình hình kinh tế nước ta hiện nay rơi vào khủng hoảng, các doanh nghiệp đầu tư làm ăn thua lỗ kéo theo nợ xấu ở các ngân hàng tăng lên. Khi khách hàng không còn khả năng trả nợ thì các tổ chức tín dụng muốn thu hồi vốn đã cho vay chỉ còn cách xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên hiện nay việc xử lý tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất không hề dễ dàng mà phát sinh rất nhiều các vấn đề liên quan.Có nguyên nhân khách quan từ thị trường bất động sản, nhưng cũng có nguyên nhân chủ quan chính các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó từ thực tế giải quyết mới thấy pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất còn nhiều vấn đề vướng mắc do pháp luật hiện hành quy định việc xử lý tài sản là quyền sử đụng đất để bảo đảm tiền vay còn chưa rõ ràng, chưa cụ thể cũng như còn một số điểm bất hợp lý. Việc nghiên cứu và áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án tranh chấp về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay là hết sức cần thiết, có ý nghĩa thiết thực, từ đó đề ra được những phương hướng để hoàn thiện pháp luật. Do đó, học viên đã chọn đề tài “Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay Ngân hàng từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 3
- 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua cũng có rất nhiều chuyên gia nghiên cứu các vấn đề có liên quan thuộc phạm vi của luận văn, có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây; Lê Thị Thu Thủy (2006) “Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng”; Nguyễn Thị Nga (2009)“Pháp luật về thế chấp QSDĐ ở Việt Nam”;Vũ Thị Hồng Yến (2013) “Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành”; Nguyễn Quỳnh Hoa (2015) “Xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ theo pháp luật Việt Nam”;Lê Thị Thúy Bình (2016) “Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam”; các bài viết có nội dung liên quan đến vấn đề xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ trên các tạp chí luật học chuyên ngành. Xét trong mối quan hệ với các nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn thì các công trình khoa học nêu trên mới chỉ đề cập đến những vấn đề về xử lý tài sản thế chấp của tất cả các loại tài sản hoặc chỉ tập trung vào việc xác lập, đăng ký giao dịch thế chấp tài sản và xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ theo các phương thức quy định trong pháp luật về giao dịch bảo đảm. Dựa trên các vấn đề lý luận đã có, luận văn được xem như là một công trình nghiên cứu độc lập và có tính hệ thống về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và việc áp dụng pháp luật để xử lý trực tiếp thực tế giải quyết tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận, cơ sở pháp lý và thực trạng của các quy định pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ được áp dụng xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến các quy định của pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất để đảm bảo tiền vay của Ngân hàng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định của pháp luật áp dụng để giải quyết các tranh chấp về xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay Ngân hàng từ thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu dựa trên các vấn đề lý luận để đánh giá quy trình giải quyết tại TAND thành phố Hà Nội, từ đó xác định được các vấn đề pháp lý có thể phát sinh từ thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó ta nhận xét được việc áp dụng pháp luật vào thực tế có những thuận lợi, khó khăn gì, tác động ảnh hưởng đến các vấn đề kinh tế - xã hội như thế nào. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh pháp luật để làm sáng tỏ mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đềtài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Từ những phân tích, đánh giá của luận văn đã làm sang tỏ các vấn đề pháp luật liên quan đến đề tài, có ứng dụng trong thực tiễn, cụ thể như sau: -Thứ nhất, dựa trên những vấn đề lý luận về biện pháp thế chấp, luận văn tập trung nghiên cứu các khía cạnh pháp lý và thực tiễn của xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ. -Thứ hai, luận văn chú trọng đến thực tiễn áp dụng các quy định về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để đưa ra những đánh giá, nhận định về hệ thống pháp luật hiện hành. -Thứ ba, luận văn tìm hiểu thực trạng xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ từ đó đưa ra hướng giải quyết phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam và thông lệ quốc tế. 5
- -Thứ tư, luận văn đề xuất các giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ. 7. Cơ cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 03 chương; Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động cho vay và biện pháp bảo đảm tiền vay là quyền sử dụng đất tại Ngân hàng ở Việt Nam. Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay của Ngân hàng từ thực tiễn xét xửtại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để đảm bảo tiền vay ngân hàng tại Việt Nam và nâng cao hiệu quả xử lý tài sản thế chấp. 6
- CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM. 1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng và nghĩa vụ trả nợ tiền vay tại Ngân hàng ở Việt Nam. 1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay của Ngân hàng Theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho vay giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. Trong đó “Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng” và “Kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay cho tổ chức tín dụng”. Hoạt động cho vay của ngân hàng là một khái niệm mang tính kinh tế hơn là pháp lý. Các hành vi cho vay của ngân hàng có cùng một logíc kinh tế, hứng chịu rủi ro cho một người mà ngân hàng tin tưởng ứng vốn cho vay, nhưng nó không chỉ gồm một giao dịch pháp lý mà nhiều loại (cho vay, bảo lãnh, cầm cố ). Cho vay có thể diễn ra dưới các hình thức là cho vay có bảo đảm và cho vay không có bảo đảm.Trong đó, cho vay có bảo đảm là việc tổ chức tín dụng cho vay vốn mà nghĩa vụ trả nợ của bên vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, hoặc bảo lãnh của người thứ ba.Còn cho vay không bảo đảm là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có 7
- hiệu suất và phương án kinh doanh hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung là tài sản bảo đảm. 1.2.2. Nghĩa vụ trả nợ tiền vay tại Ngân hàng ở Việt Nam 1.2.2.1. Khái niệm Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Hợp đồng vay tài sản được xác lập trên nguyên tắc tự nguyện, trung thực, không trái pháp luật, phù hợp với đạo đức xã hội. Khi giao kết hợp đồng vay, bên vay có nghĩa vụ trả nợ theo quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015: - Nếu tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. -Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý. - Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. - Trường hợp cho vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật luật dân sự năm 2015 trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. - Trường hợp cho vay có tính lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi. Theo đó, lãi tính trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468; Trường hợp khoản vay bị quá hạn thì bên vay phải chịu lãi quá hạn tính bằng 150% 8
- lãi suất vay theo hợp đồng tín dụng tính trên nợ gốc quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.[22, Điều 468] Như vậy nghĩa vụ trả nợ tiền vay chính là việc bên vay phải trả lại tài sản như đã thỏa thuận, việc trả tiền và cách tính lãi suất được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. 1.2.2.2. Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản Trong các biện pháp bảo đảm tiền vay thì biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là biện pháp có tính phổ biến nhất bởi khi bảo đảm bằng tài sản bên cho vay sẽ có được độ an toàn cao hơn, tránh được rủi ro bị thất thoát khoản vay. Thứ nhất: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp Theo điều 317 Bộ luật dân sự 2015 thì “thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)”. Như vậy, thế chấp tài sản là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ do hai bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Thế chấp tài sản là hình thức theo đó bên đi vay phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các tài sản bảo đảm cho bên cho vay nắm giữ trong thời gian thỏa thuận để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho vay. Tuy nhiên không phải tất cả các loại tài sản đều có thể đem đi thế chấp mà nó phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định, tùy thuộc vào quy định của pháp luật. Tài sản là động sản, bất động sản, quyền sử dụng đất có thể thế chấp để bảo đảm tiền vay theo quy định tại Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015 [22, Điều 318] Thứ hai: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố Theo điều 309 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”.Như vậy, bản chất của cầm cố là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo đó bên có nghĩa vụ giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên có quyền để đảm bảo 9
- thực hiện nghĩa vụ; nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thỏa thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản hoặc giao cho bên thứ ba giữ. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, cầm cố tài sản được hiểu là việc khách hàng (bên vay vốn) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình giao cho tổ chức tín dụng (bên cho vay) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.[22] Thứ ba: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản của người thứ ba Bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba là biện pháp bảo đảm trong đó bên thứ ba sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thế chấp hoặc cầm cố cho Ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Bản chất của bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba cũng chính là biện pháp bằng thế chấp hoặc cầm cố tài sản nhưng chủ thể đưa tài sản vào thế chấp hoặc cầm cố không phải là bên vay vốn mà là người khác. Thứ tư: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành trong tương lai Thế chấp tài sản hình thành trong tương lai là một biện pháp bảo đảm phổ biến áp dụng trong hoạt động kinh doanh dự án bất động sản, theo đó tài sản hình thành trong tương lại được thế chấp cho Ngân hàng để vay vốn thực hiện dự án. Do đó, pháp luật quy định quyền huy động vốn của chủ đầu tư phải đáp ứng một số quy định tại Điều 147 Luật nhà ở 2014 [31, Điều 147], theo đó Tổ chức, cá nhân xây dựng nhà ở hình thành trong tương lai trên thửa đất ở hợp pháp của mình; tổ chức, cá nhân mua nhà ở hình thành trong tương lai trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở của chủ đầu tư được thế chấp nhà ở này tại tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt Nam để vay vốn phục vụ cho xây dựng nhà ở hoặc để mua chính nhà ở đó. Việc thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai chỉ được thực hiện theo quy định tại Luật này; các trường hợp thế chấp tài sản là dự án đầu tư xây dựng nhà ở hoặc nhà ở hình thành trong tương lai không đúng với quy định tại Luật này thì không có giá trị pháp lý [31, Điều 148]. Tài sản hình thành trong tương lai có thể hiểu là loại tài sản tồn tại hoặc chưa tồn tại ở tại thời điểm giao dịch.Tuy nhiên, nó được đảm bảo thuộc quyền sở hữu của cá nhân hoặc tổ chức nhất định trong giao dịch về tài sản đó.Có nghĩa là tài sản 10
- hình thành trong tương lai gồm cả tài sản chưa hình thành hoặc đã hình thành nhưng việc chuyển giao quyền sở hữu cho bên bảo đảm chưa được hoàn thành. 1.2 . Quyền sử dụng đất và pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng ở Việt Nam 1.2.1 .Khái niệm quyền sử dụng đất Đất đai là một tài nguyên thiên nhiên quý giá của mỗi quốc gia và nó cũng là yếu tố mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái đất. Đất đai có tính cố định vị trí, không thể di chuyển được, tính cố định vị trí quyết định tính giới hạn về quy mô theo không gian và chịu sự chi phối của các yếu tố môi trường nơi có đất. Mặt khác, đất đai không giống các hàng hóa khác có thể sản sinh qua quá trình sản xuất do đó, đất đai là có hạn. Theo lý thuyết truyền thống của pháp luật dân sự, đất đai là một tài sản nên chủ sở hữu đất đai có ba quyền đó là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Đây là ba quyền năng cơ bản của chủ sở hữu đối với tài sản. Ở Việt Nam, pháp luật không thừa nhận sở hữu tư nhân đối với đất đai, mà Điều 53 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” do vậy Nhà nước mới là chủ thể có đầy đủ ba quyền năng đối với đất đai. Theo đó, để thực hiện quyền năng của chủ sở hữu, Nhà nước “Trao QSDĐ cho người sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất”. Trên cơ sở Hiến pháp, sau đó ngày 29/11/2013, Quốc hội cũng đã thông qua Luật đất đai mới thay thế Luật đất đai năm 2003, Điều 4 Luật đất đai năm 2013 đã thể chế hóa rất rõ Điều 53 của Hiến pháp năm 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của luật này” Nhà nước công nhận QSDĐ cho người sử dụng đất (cá nhân, tổ chức, hộ gia đình, cơ sở tôn giáo) thông qua quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc hợp đồng cho thuê đất giữa Nhà nước với bên có nhu cầu sử dụng hoặc công nhận QSDĐ đối với người đang sử dụng đất ổn định lâu dài. 11
- QSDĐ ở nước ta được hình thành trên cơ sở quy định chung của pháp luật, được điều chỉnh các giao dịch liên quan theo hệ thống pháp luật nước ta. Căn cứ vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và sự phân chia giới hạn kiểm soát đất đai giữa Nhà nước với người sử dụng đất theo quy định của pháp luật đã tạo ra một loại tài sản mới đó là QSDĐ. Người sử dụng đất chỉ được chuyển QSDĐ (chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, gópvốn ). Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về QSDĐ như sau: “QSDĐ là quyền của các chủ thể sử dụng đất bao gồm quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, góp vốn, tặng cho QSDĐ; quyền được khai thác các thuộc tính, công dụng của đất, quyền được hưởng những thành quả lao động kết quả đầu tư trên đất và các quyền khác theo quy định của phápluật”. 1.2.2 Thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay trong Hợp đồng tín dụng của Ngân hàng tại Việt Nam 1.2.2.1 Khái niệm Các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất được quy định cụ thể trong pháp luật đất đai và pháp luật dân sự. Cơ sở pháp lý tiền đề cho các giao dịch về QSDĐ nói chung và thế chấp QSDĐ nói riêng vận hành trong nền kinh tế thị trường được đánh dấu bằng sự ghi nhận trong đạo luật gốc – Điều 18 Hiến pháp năm 1992: “Nhà nước giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ổn định, lâu dài và được chuyển QSDĐ theo quy định pháp luật”. Hay quy định tại Khoản 2 Điều 54 Hiến pháp năm 2013: “Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ. Người sử dụng đất được chuyển QSDĐ, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. QSDĐ được pháp luật bảo hộ”. Vì vậy, tài sản thế chấp trong các giao dịch bảo đảm chỉ là QSDĐ mà không phải là quyền sở hữu đất đai. Do vậy, thực hiện pháp luật TCQSDĐ là đặc trưng của pháp luật Việt Nam. Cụ thể hóa Hiến pháp, các quy định của Luật Đất đai năm 2003 đến Luật đất đai năm 2013 đã nối tiếp ghi nhận và ngày càng mở rộng, phát triển một nhóm các quyền cụ thể đối với người sử dụng đất bao gồm: quyền chuyển đổi, quyền chuyển 12
- nhượng, quyền cho thuê, quyền cho thuê lại, quyền thừa kế, quyền tặng cho, quyền góp vốn, quyền thế chấp và quyền bảo lãnh QSDĐ. Với các quyền nêu trên của người sử dụng đất cho thấy, đất đai (QSDĐ) không còn là thứ tài nguyên thuần túy được thiên nhiên ban tặng và được Nhà nước cấp phát như trước đây, mà nó đã trở thành tài sản được định giá bằng tiền và giá đó được thể hiện thông qua các giao dịch về QSDĐ trên thị trường, trong đó có giao dịch thế chấp QSDĐ. Trong nền kinh tế thị trường cho thấy, thế chấp QSDĐ là một lĩnh vực có nội hàm vừa mang tính chất rộng, chịu sự tác động và điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật chung (Pháp luật dân sự) khi xem xét các quan hệ thế chấp QSDĐ với ý nghĩa là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng tài sản. Song thế chấp QSDĐ vừa là lĩnh vực có nội hàm hẹp, bị giới hạn, chi phối và ràng buộc bởi lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, điều chỉnh những nội dung mang tính chất đặc thù của tài sản và QSDĐ. Vì vậy, quan hệ thế chấp QSDĐ còn được điều chỉnh ở cả lĩnh vực pháp luật đất đai, pháp luật tín dụng ngân hàng và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan.[14] Sự điều chỉnh này hướng đến việc hướng dẫn các quy trình và cách thức cụ thể trong việc xác lập, thực hiện giao dịch thế chấp, cũng như những phương thức giải quyết các trường hợp phát sinh trong thực tế khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ thế chấp QSDĐ. Tuy nhiên, xuyên suốt toàn bộ các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực nêu trên cho thấy, pháp luật quy định khá cụ thể, chi tiết các điều kiện về chủ thể, về đối tượng, cũng như các trình tự, thủ tục về việc xác lập, thực hiện và chấm dứt quan hệ thế chấp QSDĐ, song lại không thấy bất kỳ một khái niệm hay một định nghĩa nào về thế chấp QSDĐ. Vì vậy, việc đưa ra một khái niệm cụ thể, độc lập về thế chấp QSDĐ có ý nghĩa quan trọng nhằm định hướng cho các bên trong quá trình kể từ khi có ý định xác lập quan hệ thế chấp, cho đến khi giao dịch được xác lập, thực hiện và chấm dứt. Trên cơ sở khái niệm đó, chúng ta có thể rút ra được bản chất và những đặc trưng riêng biệt của thế chấp QSDĐ. Từ đó, mỗi chủ thể tham gia trực tiếp vào quan hệ thế chấp và các chủ thể khác có liên quan sẽ ý thức và hiểu hơn vị thế, vai trò cũng như nghĩa vụ và trách 13
- nhiệm của mình thông qua những quy phạm pháp luật cụ thể ở cả lĩnh vực pháp luật chung và pháp luật chuyên ngành[14]. Việc TCQSDĐ chính là sự thỏa thuận giữa các bên tuân theo các điều kiện, nội dung, hình thức chuyển QSDĐ được BLDS và pháp luật đất đai quy định, theo đó bên sử dụng đất dùng QSDĐ của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Đây là một trong những quyền quan trọng của người sử dụng đất.Các quy định về thế chấp tài sản là QSDĐ là những chuẩn mực pháp lý cụ thể của Nhà nước, cũng như trách nhiệm pháp lý mà các chủ thể khi thiết lập quan hệ thế chấp tài sản phải tuân theo. Điều chỉnh pháp luật về thế chấp tài sản là việc Nhà nước thông qua pháp luật tạo ra những chuẩn mực, hành lang pháp lý để tác động, điều chỉnh các hành vi của các chủ thể tham gia các quan hệ xã hội với mục đích trước hết là duy trì trật tự chung của xã hội. Bên cạnh đó, tùy thuộc từng tính chất của những quan hệ về QSDĐ có tác dụng làm cân bằng và hài hòa quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ bảo đảm.[14] Nhìn một cách tổng thể quan hệ thế chấp QSDĐ ở cả phương diện pháp lý và thực tế, có thể hiểu khái niệm thế chấp QSDĐ như sau: Thế chấp QSDĐ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên có QSDĐ (gọi là bên thế chấp) dùng QSDĐ của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự - kinh tế với bên kia (gọi là bên nhận thế chấp); bên thế chấp được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn thế chấp. 1.2.2.2 Đặc điểm của thế chấp quyền sử dụng đất. Với vị trí, vai trò đặc biệt đối với kinh tế - xã hội và với đặc điểm QSDĐ bị chi phối bởi chế độ sở hữu toàn dân về đất đai nên việc thế chấp QSDĐ có những đặc thù như sau: Thứ nhất, đối tượng thế chấp là một tài sản đặc biệt được biểu hiện dưới dạng quyền và không thuộc quyền sở hữu của người thế chấp BLDS năm 2005 và cả BLDS năm 2015 thay thế sau đó, mặc dù không đưa ra khái niệm cụ thể về thế chấp bất động sản nhưng bằng cách gián tiếp quy định về thế chấp tài sản (Điều 317) và khái niệm về bất động sản, động sản (Điều 107) cho chúng ta nhận định được rõ ràng phạm vi của thế chấp đối với tài sản là bất động 14
- sản bao gồm những tài sản gì. Đối với bất động sản là đất đai, để trở thành tài sản bảo đảm trong quan hệ thế chấp, Luật đất đai năm 2013 quy định khá cụ thể điều kiện của từng chủ thể và từng loại đối tượng được phép tham gia [19, Điều 188]. Qua các chế định cụ thể nêu trên cho thấy, đối tượng tài sản trong quan hệ thế chấp là QSDĐ được chỉ định bởi pháp luật chứ không phải bản thân đất đai hay QSDĐ nói chung. QSDĐ của chủ thể thế chấp có được trên cơ sở được chủ sở hữu đại diện là Nhà nước xác lập và cho phép giao dịch. Vì vậy, QSDĐ là đối tượng trong giao dịch thế chấp bị ràng buộc, chi phối và phụ thuộc bởi ý chí của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu. Đây cũng chính là điểm khác biệt cơ bản khi xem xét về đối tượng thế chấp bất động sản ở các quốc gia duy trì hình thức sở hữu tư nhân với các quốc gia duy trì hình thức sở hữu Nhà nước hay sở hữu đại diện của Nhà nước về đất đai [46]. Như vậy, QSDĐ không phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của người mang đi thế chấp mà thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Do bị chi phối bởi hình thức sở hữu đại diện của nhà nước về đất đai nên các quy định về thế chấp QSDĐ bị ràng buộc một cách chặt chẽ bởi các quy định của Nhà nước. Với quan hệ thế chấp QSDĐ thì không phải QSDĐ nào của người sử dụng đất cũng đương nhiên là đối tượng trong giao dịch thế chấp mà chỉ có những QSDĐ được Nhà nước cho phép, được pháp luật chỉ định mới trở thành đối tượng của các giao dịch đó. Thứ hai, xét về nguồn gốc và bản chất của thế chấp tài sản thì thế chấp QSDĐ không phải là hình thức chuyển QSDĐ Thế chấp QSDĐ là một trong những quyền của người sử dụng đất được pháp luật đất đai hiện hành quy định trong nhóm quyền chuyển QSDĐ bao gồm: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, góp vốn, tặng cho và thế chấp QSDĐ. Tuy nhiên, thế chấp QSDĐ là một hình thức chuyển QSDĐ có điều kiện hoặc đây là hình thức chuyển QSDĐ không trọn vẹn, không đầy đủ. Tính không trọn vẹn, không đầy đủ thể hiện ở chỗ, khi ký kết hợp đồng thế chấp QSDĐ, bên có tài sản thế chấp chỉ chuyển giao chứng thư pháp lý xác nhận về nguồn gốc hợp pháp đối 15
- với QSDĐ thế chấp đó, mà không chuyển giao QSDĐ về mặt thực tế để bên nhận thế chấp chiếm hữu và nắm giữ, cũng như khai thác giá trị của chúng, mà quyền đó vẫn thuộc về bên thế chấp. Tính có điều kiện thể hiện ở chỗ, bên thế chấp QSDĐ có thể nhận lại, khôi phục lại hoàn toàn QSDĐ về phương diện pháp lý khi nghĩa vụ trả nợ đã được thực hiện đầy đủ theo đúng thời gian và những cam kết, thỏa thuận giữa hai bên. Hoặc QSDĐ cũng có thể bị chấm dứt một cách tuyệt đối và xác lập quyền cho phía bên kia (bên nhận thế chấp) nếu bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ khi đến hạn.[14] Mục đích của bên thế chấp luôn luôn hướng tới việc có được một nguồn vốn để đầu tư, khai thác một cách có hiệu quả trên mảnh đất hợp pháp của mình. Bên thế chấp mong muốn được khai thác, sử dụng, duy trì và tồn tại tài sản là QSDĐ của mình mãi mãi chứ không hướng tới việc chuyển hẳn QSDĐ của mình để lấy một khoản tiền từ phía bên kia, rồi phải chấm dứt QSDĐ hợp pháp của mình. Việc chấm dứt và từ bỏ QSDĐ của bên thế chấp để xác lập cho bên nhận thế chấp chỉ là giải pháp cuối cùng và trong trường hợp bên thế chấp không còn con đường lựa chọn nào khác để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình. Hay nói cách khác, việc chuyển giao giấy tờ pháp lý đối với QSDĐ cho bên nhận thế chấp nắm giữ chỉ là cách thức mà các bên tiến hành để làm cơ sở pháp lý để ràng buộc trách nhiệm lẫn nhau trong quá trình thực hiện giao dịch, chứ không nhằm mục đích chuyển QSDĐ cho bên nhận thế chấp sau khi đã thỏa mãn nhu cầu về vốn. Việc chuyển giao QSDĐ chỉ xảy ra khi đến hạn mà bên thế chấp không trả được nợ.Tuy nhiên, việc chuyển giao QSDĐ trong trường hợp này không phải bản thân của thế chấp tạo ra mà phải thông qua hình thức chuyển nhượng hoặc đấu giá hoặc có được bởi một phán quyết có hiệu lực của Tòa án [14]. Thứ ba, trình tự thủ tục thế chấp QSDĐ được quy định chặt chẽ hơn nhiều so với các trình tự, thủ tục thực hiện các giao dịch bảo đảm bằng các tài sản khác Do tính chất đặc biệt của tài sản là QSDĐ, các giao dịch về QSDĐ nói chung và đặc biệt là giao dịch về thế chấp QSDĐ nói riêng được pháp luật quy định khá chặt chẽ và nghiêm ngặt. Các bên trong quan hệ thế chấp QSDĐ có quyền tự do 16