Luận văn Xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần đại chúng

pdf 80 trang vuhoa 25/08/2022 8242
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần đại chúng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_xu_ly_tai_san_the_chap_de_bao_dam_tien_vay_tai_cac.pdf

Nội dung text: Luận văn Xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần đại chúng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN YÊN GIANG XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẠI CHÚNG Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN AM HIỂU HÀ NỘI, 2016 HÀ NỘI - năm
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá nhân tôi. Mọi tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực. Những kết quả, những đánh giá trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu khoa học nào. Hà Nội, ngày 10 tháng 7 năm 2016 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Yên Giang
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự NHTM : Ngân hàng thương mại NHNN : Ngân hàng nhà nước PvcomBank : Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam TMCP : Thương mại cổ phần TSBĐ : Tài sản bảo đảm TMCP : Thương mại cổ phần
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1:TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI . 6 1.1. Khái quát chung 6 1.2. Các quy định về tài sản thế chấp 9 1.3. Các quy định về xử lý tài sản thế chấp 24 Chương 2: ÁP DỤNG QUY ĐỊNH XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN TẠI PVCOMBANK 31 2.1. Xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay tại các Ngân hàng Thương mại 31 2.2. Thực trạng tại PvcomBank 34 Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY 51 3.1.Những vướng mắc trong áp dụng quy định xử lý tài sản thế chấp 51 3.2.Một số kiến nghị hoàn thiện quy đinh pháp luật về chấp thế chấp và xử lý tài sản chấp 67 KẾT LUẬN 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại là hoạt động mang tính rủi ro, ngoài ngành nghề kinh doanh được pháp luật cho phép thì hoạt động chủ yếu của NHTM là huy động vốn và cho vay. Hoạt động cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro, khách hàng vay vốn vì nhiều lý do không trả được nợ (bao gồm cả nợ gốc và nợ lãi) dẫn đến NHTM phải tự bù đắp cho khoản vay mà khách hàng không trả được theo hợp đồng tín dụng đã ký, vừa phải trả lãi tiền huy động từ tổ chức và người dân. Do vậy, việc xử lý tài sản bảo đảm từ khoản vay của khách hàng là một trong những nhiệm vụ vô cùng quan trọng của NHTM. Khi khách hàng vay nhưng không trả được nợ thì ngân hàng sẽ phải xử lý tài sản tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Áp dụng các quy định của pháp luật thì ngân hàng có thể thỏa thuận với khách hàng về xử lý tài sản hay tự xử lý tài sản mà không cần ý kiến của khách hàng hoặc chủ sở hữu tài sản (người dùng tài sản thuộc sở hữu của mình đảm bảo cho khoản vay của khách hàng) hoặc ngân hàng sẽ phải khởi kiện khách hàng ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền để giải quyết. Trong những năm vừa qua, việc tăng trưởng tín dụng quá nóng dẫ đến tình hình nợ xấu tại Việt Nam gia tăng nhanh bởi những lý do chủ quan và khách quan. Nợ xấu là nguyên nhân cản trở sự phát triển của các ngân hàng, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, làm suy giảm năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng dẫn đến giảm uy tín và khả năng hội nhập của các ngân hàng trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Điều này đã thể hiện ở việc hàng loạt ngân hàng đã rời vào tình trạng khó khăn dẫn đến phải sáp nhập hoặc bị Ngân hàng Nhà nước mua lại cổ phần với giá không đồng. 1
  6. Do vậy, việc xử lý nợ xấu đang là vấn đề được Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại ưu tiên xử lý hàng đầu trong thời gian vừa qua. Tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay chiếm phần lớn giá trị khoản nợ của các ngân hàng trong các tài sản được bảo đảm cho khoản vay tại ngân hàng. Vì vậy, nếu ngân hàng xử lý được tài sản thế chấp thì có thể góp phần vào việc hạ tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Xuất phát từ tầm quan trọng về xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại và thực trạng của tình hình xử lý tài sản để thu hồi nợ học viên chọn đề tài: “Xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay tại ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng thương mại cổ phần Đại chúng Việt Nam” nhằm nghiên cứu những vấn đề thực tiễn đối với vấn đề xử lý tài sản thế chấp trong hoạt động cho của Ngân hàng thương mại và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại chúng Việt Nam, từ đó đưa ra một số nhận xét về ưu điểm, tồn tại cũng như đề ra phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện tại đã có rất nhiều bài viết của các tác giả về các giao dịch thế chấp tài sản bảo đảm nhưng đa phần các bài viết đó chỉ đề cập đến một khía cạnh nhất định trong loại giao dịch này. Ở mỗi đề tài, mỗi tác giả đều có cách tiếp cận khác nhau. Ví dụ như: - Nguyễn Thị Nga (2009), Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; - Ngô Ngọc Linh (2015), Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là Bất động sản qua thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội; - Phan Hồng Điệp (2012), Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong các tổ chức tín dụng - Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện 2
  7. pháp luật, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội; - Dương Thị Phương Liên (2014), Cầm cố tài sản và thế chấp tài sản tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu (GP.Bank), Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội; Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu nói trên chỉ phân tích, nghiên cứu về mặt lý luận về biện pháp thế chấp tài sản và đánh giá chung về quy định xử lý tài sản thế chấp mà chưa có những đánh giá về thực trạng áp dụng và xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại. Đề tài này của học viên phần nào đáp ứng được tính cấp thiết của việc nghiên cứu trong tình hình hiện nay, khi mà việc xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại đang là nhiệm vụ cấp thiết để giải quyết vấn đề nợ xấu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay, thực trạng quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này. Đồng thời, qua việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại chúng Việt Nam để đưa ra những nhận xét, đánh giá về những quy định của pháp luật hiện hành áp dụng trên phạm vi cả nước nói chung. Tổng hợp các phương pháp để hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản thế chấp và nâng cao hiệu quả của việc xử lý tài sản thế chấp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay từ đó rút ra kinh nghiệm nhằm hoàn thiện các quy định đảm bảo đáp ứng các yêu cầu thực tiễn. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn tập trung vào hai khía cạnh sau: Thứ nhất, về mặt lý luận: luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về 3
  8. xử lý tài sản thế chấp của NHTM, cơ chế điều chỉnh của pháp luật về xử lý tài sản thế chấp trong hoạt động xử lý nợ của NHTM. Thứ hai, về mặt thực tiễn: luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật và đánh giá hoạt động áp dụng pháp luật về xử lý tài sản thế chấp trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại chúng Việt Nam. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu trên, luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu được áp dụng phổ biến trong khoa học xã hội và nhân văn như: phương pháp tổng hợp, phân tích, khái quát hóa, so sánh, đối chiếu, thống kê và khảo sát Các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa được sử dụng để làm rõ các vấn đề lý luận về xử lý tài sản thế chấp của NHTM, cơ chế và xu hướng điều chỉnh pháp luật và thực trạng pháp luật về xử lý tài sản thế chấp trong hoạt động xử lý nợ của NHTM. Các phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, thống kê, khảo sát được sử dụng để làm rõ các vấn đề thực tiễn về xử lý tài sản thế chấp trong hoạt động xử lý nợ của NHTM nói chung và NHTM cổ phần Đại chúng Việt Nam nói riêng, trên cơ sở đó luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản thế chấp và nâng cao hiệu quả của việc xử lý tài sản thế chấp trong hoạt động xử lý nợ của NHTM. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sang tỏ và hoàn thiện lý luận về xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay tại các ngân hang thương mại. Những phân tích của luận văn đã nêu lên được những khó khăn khi thực hienj xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay và những vấn đề bất cập trong quy định của pháp luật dẫn đến trong thực tiễn thực hiện của các ngân hang đã gặp những khó khăn giải quyết. Do vậy, các giải pháp nêu trong luận 4
  9. văn góp phàn vào việc hoàn thiện pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay của các ngân hàng hiện nay. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy và tài liệu cho các ngân hàng tại Việt Nam tham khảo. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung chính của luận văn được kết cấu thành ba chương như sau: Chương 1: Tổng quan pháp luật về xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng thương mại. Chương 2: Áp dụng quy định xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay tại các Ngân hàng thương mại và thực tiễn tại PVcomBank. Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay. 5
  10. Chương 1 TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát chung 1.1.1. Hoạt động cho vay của NHTM Hoạt động ngân hàng là một loại hình kinh doanh có đối tượng kinh doanh đặc biệt là tiền tệ. Hoạt động kinh doanh này đóng vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, bao gồm chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, nó liên quan tới mọi hoạt động kinh doanh khác; tuy nhiên bản thân nó lại tiềm ẩn những rủi ro lớn không thể tránh khỏi. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường tài chính Việt Nam ngày càng phát triển nhanh chóng với sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng, chất lượng và đa dạng hóa loại hình dịch vụ. Theo Quyết định 1627/2001-QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.”. [8.Khoản 1 Điều 3] Hoạt động cho vay là hoạt động chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn, nhưng nó lại là hoạt động chính của ngân hàng cho vay. Bên cạnh rủi ro tiềm ẩn thì ngân hàng cho vay thu đươc lãi suất phù hợp với các khoản vay đó và đó cũng là thu nhập chính của ngân hàng cho vay. Đây là một trong những hoạt động tín dụng của NHTM và cũng là hoạt động sinh lời lớn nhất của NHTM. Thông qua hoạt động cho vay, ngân hàng đã cung cấ́p một lượng vốn lớn cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Tuỳ theo mỗi hình thức cho vay mà các chủ thể tham gia hoạt động cho vay có các bên khác nhau, với mức độ nhất định hoặc không tham gia vào hình thức cho vay nào đó. Các bên tham gia hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại gồm có: 6
  11. Bên cho vay: Là ngân hàng thương mại thực hiện cho bên vay vay một khoản tiền nào đó trên cơ sở hợp đồng cho vay có thoả thuận các điều kiện về mức vay, thời hạn vay, lãi suất, hình thức trả gốc và lãi, tài sản đảm bảo Bên vay: Là cá nhân hoặc tổ chức có phương án, dự án cần có vốn để thực hiện nó. Các cơ quan quản lý nhà nước: Là các cơ quan công quyền như ngân hàng nhà nước, cơ quan công chứng, toà án, thuế quan Những cơ quan này có trách nhiệm kiểm soát việc tuân thủ quy định pháp luật, đồng thời công nhận tính hợp pháp của các giao dịch cho vay, quyền sở hửu pháp lý đối với tài sản và xét xử giải quyết tranh chấp. 1.1.2. Phân loại cho vay theo hình thức bảo đảm Các khoản cho vay có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Bao gồm cho vay theo mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, phương pháp hoàn trả. Theo hình thức bảo đảm thì cho vay có 2 loại: cho vay có tài sản bảo đảm và cho vay không có tài sản bảo đảm. Cho vay không cần tài sản bảo đảm có thể được cấp cho những khách hàng có uy tín, thường là những khách hàng đã được Ngân hàng xếp hạng tốt, có tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Trong trường hợp này, có thể nói uy tín, tình hình tài chính lành mạnh và khả năng thành công của dự án của khách hàng chính là những tài sản bảo đảm. Ngoài ra các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu, các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn cũng có thể không cần tài sản bảo đảm. Đối với những trường hợp còn lại,̣ khi cho vay ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có tài sản bảo đảm. Lý do là khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. 7
  12. Những biến cố không mong đợi có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn, vì vậy mà ngân hàng muốn có được nguồn thu hồi thứ hai khi nguồn thu thứ nhất là thu nhập từ hoạt động kinh doanh không bảo đảm trả nợ Trong bất cứ lúc nào, với khách hàng nào thì cho vay có bảo đảm là nguyên tắc hoàn toàn hợp lý cầ̀n thiết để bảo đảm cho Ngân hàng đối phó với những tổn thất mỗi khi món nợ quá hạn, khó đòi hoặc khách hàng không có khả̉ năng thanh toán. Mục đích của Ngân hàng trong việc đặt ra các đảm bảo tín dụng là tạo điều kiện cho Ngân hàng có thể thu hồi nợ một cách chắc chắn, đồng thời có cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng. Hơn nữa việc Ngân hàng có quyền phát mại tài sản của người vay được dùng làm đảm bảo đã góp phần nâng cao ý thức hoàn trả của người vay. Với các hình thức bảo đảm nêu trên, căn cứ vào quy định của Luật dân sự có các biện pháp bảo đảm cụ thể như sau: a. Cầm cố tài sản Cầm cố tài sản là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. b. Thế chấp tài sản Thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. c. Đặt cọc Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự. Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản. d. Ký cược Ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên cho thuê một 8
  13. khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quí hoặc vật có giá trị khác trong một thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê. e. Ký quỹ Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quí hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong toả tại một ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. f. Bảo lãnh Bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. 1.2. Các quy định về tài sản thế chấp 1.2.1 Khái niệm tài sản Tại Điều 163 BLDS năm 2005 và Điều 163BLDS năm 2015 (sẽ có hiệu lực và 01/01/2017) quy định về tài sản được nêu: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” [17. Điều 163]. Theo quy định tại điều 174 BLDS 2015 thì tài sản được quy định bổ sung thêm là bất động sản và động sản. Để nhận diện được tài sản thì cần chỉ ra các đặc điểm pháp lý của chúng, theo đó tài sản có các đặc điểm pháp lý cơ bản như sau: Tài sản phải trị giá được bằng tiền. Tài sản là những đối tượng mà con người có thể kiểm soát được. Nếu là vật hữu hình thì con người phải nắm giữ hoặc chiếm giữ được; nếu là vật vô hình thì phải có các thức để quản lý. 1.2.2 Khái niệm tài sản bảo đảm Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay có nhiều quy định liên quan đến tài sản bảo đảm, cụ thể như: Khoản 7, Điều 3 về “Giải thích từ ngữ”, Nghị định số 163/2006/NĐ- CP 9
  14. Về giao dịch bảo đảm quy định: “Tài sản bảo đảm là tài sản mà Bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với Bên nhận bảo đảm.” [11. Khoản 7, Điều 3]. Điều 4 về “Tài sản bảo đảm”, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 11/2012/NĐ- CP quy định: “Tài sản bảo đảm là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai mà pháp luật không cấm giao dịch.” [11. Điều 4]. Điều 320 về “Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch. Vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình thành trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của Bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết.”. [17. Điều 320]. Các quy định nêu trên đã bao hàm một phạṃ vi rất rộng các tài sản đủ điều kiện có thể sử dụng làm tài sản bảo đảm. Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1, Điều 320 về “Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2005: Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của Bên bảo đảm chưa thực sự phù hợp với đối tượng là tài sản hình thành trong tương lai vì vào thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm, những tài sản này chưa hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Bên có nghĩa vụ hoặc Bên thứ ba. 1.2.3 Khái niệm bảo đảm tiền vay Việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự trước hết là dựa vào sự tự giác của các bên nhưng trong thực tế không phải bất cứ ai khi tham gia giao dịch đều có thiện chí trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình. Để nghĩa vụ cam kết được đảm bảo thực hiện và bên có quyền trong 10
  15. quan hệ đó có được thế chủ động trong viêc được hưởng quyền đó, pháp luật cho phép các bên có thể thỏa thuận đặt ra các biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp đồng cũng như việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Theo khoản 1, Điều 318 về “Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng có quy định: “Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: a) Cầm cố tài sản; b) Thế chấp tài sản; c) Đặt cọc; d) Ký cược; đ) Ký quỹ; e) Bảo lãnh; g) Tín chấp.”. [17. Khoản 1, Điều 318]. Và khoản 1, Điều 323 về “Đăng ký giao dịch bảo đảm”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này.”[17. Khoản 1, Điều 323]. Theo quy định tại khoản 1, Điều 2 về “Giải thích từ ngữ”, Nghị định số 178/1999 /NĐ-CP “Về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng”, thì: “1. Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay” [13. Khoản 1 Điều 2]. Tuy nhiên, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm được ban hành thay thế Nghị định số 178/1999/NĐ-CP Về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, các văn bản liên quan và thống nhất hóa các quy định về giao dịch bảo đảm. Nhưng Nghị định số 163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm không đưa ra một định nghĩa cụ thể về biện pháp bảo đảm, mà chỉ cụ thể hóa Điều 318 về “Biện pháp bảo 11
  16. đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” trong Bộ luật Dân sự năm 2005 bằng cách liệt kê các biện pháp bảo đảm. 1.2.4 Khái niệm thế chấp tài sản Theo Điều 342 của BLDS 2005 về Thế chấp tài sản quy định: “1. Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. [17. Khoản 1, Điều 342]. Như vậy có thế hiểu, thế chấp tài sản là sự thoả thuận giữa các bên về việc một bên dùng một tài sản để thay thế, chấp hành một nghĩa vụ được xác lập trước đó. Theo đó Bên thế chấp cam kết dùng tài sản của mình thông qua việc chuyển giao toàn bộ hồ sơ pháp lý của tài sản cho Bên nhận thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mà không phải chuyển giao tài sản thế chấp đó. Như vậy, chủ sở hữu tài sản vẫn có thể dùng tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự mà vẫn được quản lý, sử dụng tài sản thế chấp. Có lẽ đây là ưu điểm của biện pháp thế chấp so với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác. 1.2.5 Đặc điểm của thế chấp tài sản Thế chấp tài sản là một biện pháp bảo đảm nên nó cũng mang những đặc điểm chung của giao dịch bảo đảm: có ý nghĩa bổ̉ sung cho nghĩa vụ chính; có tính chất dự phòng, chỉ được áp dụng khi nghĩa vụ được bảo đảm không được thực hiện hoặc bị vi phạm, đồng thời phạm vi bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm; đối tượng giao dịch bảo đảm tiền vay là những lợi ích vật chất; mục đích của việc xác lập giao dịch thế chấp tài sản là nhằm tạo cơ sở kinh tế, pháp lý để Bên nhận bảo đảm thu hồi nợ; hiệu lực của giao dịch thế chấp tài sản không phụ thuộc vào hợp đồng chính. Giao dịch thế chấp tài sản có điểm đặc thù so với các biện pháp bảo đảm khác đó là: Bên thế chấp chỉ chuyển giao hồ sơ pháp lý của tài sản thế 12
  17. chấp cho Bên nhận thế chấp mà không chuyển giao tài sản thế chấp. Điều này có nghĩa rằng, Bên thế chấp vẫn được quyền quản lý, sử dụng, đầu tư, vào tài sản thế chấp. Đặc điểm này cũng tạo cho giao dịch thế chấp có ưu điểm vượt trội so với các biện pháp bảo đảm khác. 1.2.6 Đặc điểm pháp lý của tài sản thế chấp Dựa vào các quy định của pháp luật, có thể thấy tài sản thế chấp có một số đặc điểm pháp lý như sau: Tài sản thế chấp phải thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền quản lý của Bên thế chấp (Trường hợp, chủ sở hữu tài sản ủy quyền cho người khác quản lý, sử dụng tài sản. Theo đó, người được ủy quyền có thể thực hiện việc đưa tài sản vào thế chấp theo nội dung ủy quyền). Quy định này xuất phát từ bản chất về quyền của người sở hữu, sử dụng quản lý tài sả̉n theo quy định của pháp luật. Chỉ những chủ thể này mới có thể có quyền đưa tài sản thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ. Tài sản thế chấp phải được phép giao dịch. Do tài sản thế chấp là đối tượng của hợp đồng thế chấp nên phải tuân thủ các điều kiện nói chung của đối tượng hợp đồng là tính xác định và có thể chuyển giao trong các giao lưu dân sự. Đó là những tài sản pháp luật không cấm mua, bán, chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho và các giao dịch khác. Đặc điểm này bắt nguồn từ một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung theo điểm b, khoản 1, Điều 122 về “Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2005: “Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. [17. Điểm b, khoản 1, Điều 122]. Tài sản thế chấp có thể là bất động sản, động sản. Thế chấp là một trong những biện pháp bảo đảm phổ biến nhất mà các tổ chức tín dụng áp dụng để bảo đảm cho khoản vay của khách hàng vay không chỉ bởi giá trị của tài sản thế chấp thường lớn mà còn bởi tài sản được dùng để thế chấp thường rất phong phú, bao gồm cả động sản và bất động sản 13
  18. đã hình thành hoặc sẽ hình thành trong tương lai. Trường hợp Bên thế chấp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ, thì vật phụ ̣đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trường hợp Bên thế chấp thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ, thì vật phụ thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Tài sản thế chấp cũng có thể là tài sản hình thành trong tương lai. Như đã phân tích ở trên, tài sản hình thành trong tương lai là những tài sản có thể đã tồn tại dưới dạng vật chất nhưng chưa được xác lập quyền sở hữu cho Bên thế chấp vào thời điểm xác lập giao dịch thế chấp. Việc xác lập quyền sở hữu đối với loại tài sản này chỉ được thực hiện sau khi giao dịch thế chấp được xác lập. Như vậy, tài sản thế chấp phải đáp ứng được các yêu cầu sau: Chắc chắn bên thế chấp có quyền thế chấp đối với tài sản. Tài sản thế chấp không có bất kỳ tranh chấp nào để giảm thiểu tối đa những rủi ro tiềm ẩn đối với tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp không thuộc đối tượng cấm chuyển giao hay cấm kê biên theo quy định của pháp luật. 1.2.7 Phân loại tài sản thế chấp Có nhiều cách phân loại tài sản thế chấp khác nhau, tuy nhiên với góc độ đề cập là tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay luân văn chỉ nêu những cách phân loại tài sản thế chấp như sau: Dựa trên các tiêu chí khác nhau, tài sản thế chấp cũng sẽ được chia thành nhiều loại khác nhau. Ở đây tác giả căn cứ vào thực tế áp dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại; quy chế pháp lý đặc thù đối với các loại tài sản này mà phân chia thành tài sản là bất động sản, động sản, tài sản hình thành trong tương lai và tài sản thuộc sở hữu của Bên thứ ba. Bất động sản Khoản 1, Điều 174 về “Bất động sản và động sản” Bộ luật Dân sự năm 14
  19. 2005 quy định Bất động sản theo hướng liệt kê bao gồm: “Đất đai, nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định.”.[17. Khoản 1, Điều 174] Như vậy, với quy định về bất động sản như trên thì có thể thấy bất động sản là mộ lĩnh vực rộng để chỉ các tài sản như đất trống và công trình xây dựng dùng cho các mục đích cư trú, giải trí, nông nghiệp, công nghiệp, kinh doanh và thương mại Có thể nói bất động sản,bao gồm đất đai và tất cả mọi thứ gắn liền và lâu dài với nó. Có quan điểm cho rằng, để một tài sản được coi là bất động sản phải hội tụ bốn điều kiện sau: “Là một yếu tố vật chất có ích cho con người; Được chiếm giữ bởi cá nhân, tổ chức hoặc cộng đồng; Có thể đo lường bằng giá trị nhất định; Không thể di dời hoặc di dời hạn chế và tồn tại lâu dài.” [37] Động sản Khoản 2, Điều 174 về “Bất động sản và động sản”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.” [17. Khoản 2, Điều 17] Như vậy, những tài sản không phải là đất đai; nhà; công trình xây dựng gắn liền với đất đai, các tài sản khác gắn liền với đất đai, một số tài sản khác do pháp luật quy định được coi là động sản. Bộ luật Dân sự không đưa ra khái niệm bất động sản và động sản theo hướng quy định những đặc điểm, tính chất cơ bản của hai loại tài sản này mà quy định theo hướng liệt kê. Tài sản hình thành trong tương lai Khoản 2, Điều 4 về “Tài sản bảo đảm”, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm định nghĩa về tài sản hình thành trong tương lai như sau: 15
  20. “Tài sản hình thành trong tương lai là tài sả̉n thuộc sở hữu của Bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm”. [11, khoản 2, Điều 4]. Qua khái niệm trên ta có thể hiểu được một số đặc điểm của tài sản hình thành trong tương lai: Là tài sản (Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản, điều 163 BLDS). Thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết; Bao gồm cả tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm; Khoản 2, Điều 1, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm liệt kê các loại tài sản hình thành trong lương lai như sau: Tài sản được hình thành từ vốn vay; Tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc đang được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm; Tài sản đã hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyề̀n sở hữu, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của pháp luật. Tài sản hình thành trong tương lai không bao gồ̀m quyền sử dụng đất. Như vậy, những tài sản thỏa mãn một trong các trường hợp nêu trên sẽ được coi là tài sản hình thành trong tương lai và có quy chế pháp lý điều chỉnh chi tiết. Riêng đối với nhà ở hình thành trong tương lai là nhà ở, khoản 1, Điều 16
  21. 3 về “Giải thích từ ngữ”, Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD- BTP-BTNMT Hướng dẫn thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai quy định: Nhà ở hình thành trong tương lai làm tài sản thế chấp là nhà ở được tổ chức, cá nhân mua của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở mà tại thời điểm xác lập hợp đồng thế chấp nhà ở đó đang trong quá trình đầu tư xây dựng theo hồ sơ thiết kế được duyệt và Giấy phép xây dựng (đối với trường hợp phải có Giấy phép xây dựng) hoặc đã hoàn thành việc xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi tắt là Giấy chứng nhận) [9. Khoản 1, Điều 3]. Đối với các tổ chức tín dụng, việc ra đời thông tư liên tịch hướng dẫn về thủ tục thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nhà ở cùng các tài sản khác hình thành trong tương lai theo định nghĩa nêu trên thường gắn với những sản phẩm tín dụng của các tổ chức tín dụng như cho vay mua nhà ở, Quy định này góp phần thúc đẩy việc phát triển tín dụng của các Ngân hàng Thương mại. Tài sản thuộc sở hữu của Bên thứ ba Việc thế chấp không chỉ được thực hiện bởi chính Bên có nghĩa vụ mà có thể được thực hiện bằng tài sản thuộc sở hữu của Bên thứ ba. Khi đó bất cứ tài sản nào thuộc đối tượng tài sản được thế chấp theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu của Bên thứ ba đều có thể được sử dụng để thế chấp bảo đảm nghĩa vụ của Bên có nghĩa vụ. Với cách phân loại nêu trên, có thể xảy ra trường hợp giữa các loại tài sản có sự giao thoa, trùng lặp. Chẳng hạn, tài sản thuộc sở hữu của Bên thứ ba có thể là động sản hoặc bất động sản; hay đối với tài sản hình thành trong tương lai cũng hoàn toàn có thể bao gồm quyền sở hữu nhà ở (bất động sản) và ô tô, máy móc, dây chuyền sản xuất (động sản). Tuy nhiên, việc phân loại 17