Luận văn Xử lý một số vi phạm quyền sở hữu trí tuệ dưới góc độ luật cạnh tranh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Xử lý một số vi phạm quyền sở hữu trí tuệ dưới góc độ luật cạnh tranh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_xu_ly_mot_so_vi_pham_quyen_so_huu_tri_tue_duoi_goc.pdf
Nội dung text: Luận văn Xử lý một số vi phạm quyền sở hữu trí tuệ dưới góc độ luật cạnh tranh
- MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT 6 CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ 1.1 Bản chất và mục đích của pháp luật cạnh tranh 6 1.1.1. Bản chất và mục đích điều chỉnh của pháp luật cạnh 6 tranh 1.1.2. Bản chất của các hành vi cạnh tranh không lành 15 mạnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ 1.2 Bản chất và mục đích của pháp luật bảo hộ quyền sở 26 hữu trí tuệ 1.2.1. Khái niệm 26 1.2.2. Mục đích điều chỉnh 32 1.2.3. Đối tượng điều chỉnh 33 1.2.4. Phạm vi điều chỉnh 34 1.3 Mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật 34 bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong điều chỉnh pháp luật 1.3.1. Phân biệt giữa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí 34 tuệ và hành vi cạnh tranh không lành mạnh có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ 1.3.2. Mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật 36 bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong điều chỉnh pháp luật Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐIỀU CHỈNH 40 CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ 2.1 Bối cảnh chung của nền kinh tế và thực trạng các hành 40 vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ 2.1.1. Bối cảnh chung của nền kinh tế 40 2.1.2. Thực trạng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh 42 xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ 2.2 Thực trạng pháp luật điều chỉnh các hành vi cạnh tranh 48 không lành mạnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ 2.2.1. Thực trạng các quy định pháp luật 48
- 2.2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật 50 2.2.3. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật 53 Chương 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU 59 CHỈNH CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH XÂM PHẠM QUỲÊN SỞ HỮU TRÍ TUỆ 3.1 Những yêu cầu và định hướng hoàn thiện pháp luật 59 3.1.1. Bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân 59 3.1.2. Bảo đảm trật tự cạnh tranh kinh tế, nâng cao hiệu quả 60 của nền kinh tế thị trường. 3.1.3. Nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật 61 3.2 Những giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật điều chỉnh 62 các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ 3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật 62 3.2.2. Hoàn thiện các cơ chế áp dụng và thực thi pháp luật 68 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ 1.1. BẢN CHẤT VÀ MỤC ĐÍCH ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH 1.1.1 Bản chất và mục đích điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh. 1.1.1.1 . Khái niệm pháp luật cạnh tranh. a. Vài nét về sự ra đời pháp luật cạnh tranh. Cạnh tranh đã xuất hiện từ rất lâu trong xã hội, khi mà lòai người bắt đầu ý thức được về giá trị vật chất và tiến hành các giao lưu kinh tế. Manh nha lúc đầu chỉ là việc các ông chủ muốn quảng cáo sản phẩm của mình nhằm bán được nhiều hàng hoá hơn. Đó cũng là những biểu hiện đầu tiên của các hành vi cạnh tranh. Xã hội ngày càng phát triển, cạnh tranh cũng xuất hiện dưới các hình thức khác hơn, phong phú và đa dạng hơn. Trên thế giới, pháp luật về cạnh tranh đã xuất hiện hơn 100 năm nay ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, đặc biệt là việc chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Pháp luật về cạnh tranh ra đời khi ở nền kinh tế một số nước tiên tiến xuất hiện việc tập trung quyền lực dưới hình thức Tờ rớt. Việc nghiên cứu xây dựng pháp luật về cạnh tranh nằm trong nghiên cứu tổng thể hình thành chính sách cạnh tranh trong nền kinh tế. Một số trường phái kinh tế thể hiện quan điểm trong việc xây dựng chính sách cạnh tranh như trường phái kinh tế tự do; trường phái kinh tế tân cổ điển; Trường phái Chicago về chống Tờ rớt Từ các quan điểm xây dựng chính sách cạnh tranh này hình thành các hệ thống pháp luật về cạnh tranh trên thế giới, song nội dung chủ yếu là pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh và kiểm soát độc quyền như pháp luật chống độc 6
- quyền của Mỹ, của một số nước Châu Âu lục địa, Vương quốc Anh, CHLB Đức, Nhật Bản Tuỳ theo tình hình thực tế của nền kinh tế đất nước và nhu cầu điều chỉnh pháp luật, các nước có thể xây dựng các đạo luật riêng biệt hoặc một đạo luật chung nhằm điều chỉnh cả hai lĩnh vực. Ví dụ: Cộng hoà Liên bang Đức có cả hai đạo luật là Luật chống cạnh tranh không lành mạnh 1909 và Luật chống hạn chế cạnh tranh 1990. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan tâm nghiên cứu và xây dựng chính sách pháp luật về cạnh tranh kể cả các quốc gia trước đây có nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung nay chuyển sang cơ chế thị trường như Nga và các nước Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG), Ba Lan, Cộng hoà Séc Điều ước quốc tế sớm nhất liên quan đến pháp luật về cạnh tranh là Công ước Paris được ký kết ngày 20/03/1883. Cho đến nay, trước xu thế toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại thế giới cũng xuất hiện hàng loạt những đề xuất ký kết các Điều ước Quốc tế hay thoả thuận đa phương trước hết là trong Tổ chức OECD, sau đó là trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về vấn đề cạnh tranh. Một trong những vòng đàm phán mới của WTO sẽ là các cam kết về bảo đảm cạnh tranh lành mạnh tại mỗi quốc gia thành viên Liên minh Châu Âu cũng chủ trương ký kết một thoả ước, theo đó, các quốc gia phải thông qua một hệ thống pháp luật về cạnh tranh. Ở Việt Nam, dưới thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cạnh tranh và kinh tế thị trường bị coi như là một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản và không được thừa nhận tại các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng. Chỉ đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cơ chế kinh tế thị trường - được coi là tinh hoa chọn lọc trong quá trình phát triển của nhân loại, mới được thừa nhận. Hiến pháp năm 1992 ra đời đã tạo ra tiền đề pháp lý vững chắc cho sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị 7
- trường bằng việc thừa nhận và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu, khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho các chủ thể kinh doanh. Những nhân tố này đã phá vỡ các khuôn mẫu của chế độ kinh tế được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980, làm nảy sinh những tiền đề vật chất cho hoạt động cạnh tranh tồn tại và phát triển, cũng như việc hình thành các nguyên tắc pháp lý để điều chỉnh hoạt động cạnh tranh. Trên thực tế, kinh tế Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đang dần hình thành những nhân tố cần thiết của một thể chế thị trường. Do vậy, thực tế đặt ra rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết, bắt đầu từ nhận thức của người dân đối với vấn đề cạnh tranh đến hoạt động cạnh tranh trên thương trường đang diễn ra gay gắt và phức tạp về mức độ, tính chất cũng như tính phổ biến. Chính bởi vậy, mà Nhà nước đã thực hiện chức năng quản lý của mình bắt đầu từ việc cho ra đời pháp luật về cạnh tranh, mà cụ thể là việc ban hành Luật Cạnh tranh năm 2004. b. Khái niệm. Trong nền kinh tế thị trường, với các đặc trưng của mình, thị trường khiến các doanh nghiệp ganh đua nhau, luôn luôn phát triển và tự hoàn thiện mình, mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Xét dưới góc độ là động lực, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nội tại của nền kinh tế. Bên cạnh đó, cạnh tranh còn thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển. Cạnh tranh cũng có thể được coi là kết quả của sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh có mục tiêu và lợi ích giống nhau. Tất cả những yếu tố trên đã góp phần lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Xét về khái niệm, pháp luật cạnh tranh có thể được đề cập đến ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, pháp luật cạnh tranh được hiểu là một hệ thống các quy phạm nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động cạnh 8
- tranh và quản lý hoạt động cạnh tranh. Các quy phạm này nằm rải rác trong nhiều đạo luật như Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh, Luật Kiểm soát độc quyền, Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Hình sự . Và trong các hiệp định song phương, đa phương về chống cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát độc quyền mà quốc gia tham gia hoặc ký kết. Theo nghĩa này, pháp luật cạnh tranh là bộ phận chủ yếu của chính sách của mỗi quốc gia. Theo nghĩa hẹp, pháp luật cạnh tranh gồm có hai lĩnh vực chính là Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh và Luật Kiểm soát độc quyền. Cơ sở khoa học cho sự phân định hai lĩnh vực pháp luật này là tính chất và mức độ nguy hại của hai nhóm hành vi là cạnh tranh không lành mạnh và độc quyền đối với thị trường cùng với tính nghiêm khắc của pháp luật trong việc trừng trị hai nhóm hành vi này. Hai nhóm hành vi xâm hại đến những nhóm lợi ích khác nhau, do vậy cần có sự phân biệt rõ để đưa ra những quy định và biện pháp thích hợp trong việc điều chỉnh đối với từng nhóm hành vi cụ thể. 1.1.1.2. Mục đích điều chỉnh. Như chúng tôi đã trình bày trong Mục 1.1.1.1, hầu hết các quốc gia trên thế giới có nền kinh tế thị trường phát triển đều xây dựng pháp luật về cạnh tranh. Việt Nam cũng vậy. Từ đầu những năm 1990, khi Nhà nước thi hành hàng loạt các chính sách xoá bỏ bao cấp thì cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế bắt đầu diễn ra gay gắt. Nhà nước rất quan tâm đến việc nghiên cứu, xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh ở trong nước, đồng thời, tìm ra các giải pháp khắc phục những khuyết tật vốn có của thị trường. Hàng loạt các nghiên cứu về môi trường cạnh tranh ở Việt Nam đã được thực hiện, trong đó có thể kể đến các nghiên cứu của Viện Nghiên cứu thị trường - giá cả (1996), Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (năm 2000 và năm 2002), Viện Nghiên cứu Nhà 9
- nước Pháp luật (năm 2001) Và kết quả đưa lại là Luật Cạnh tranh năm 2004 đã ra đời và có hiệu lực từ ngày 01/ 7/2005. Mục đích chính của việc ban hành pháp luật cạnh tranh trước hết nhằm xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích và bảo vệ cạnh tranh bình đẳng, công bằng trong mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh trên thị trường nhằm đảm bảo lợi ích và quyền cạnh tranh hợp pháp của các nhà sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, của Nhà nước và xã hội. Nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cạnh tranh không diễn ra trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung nhưng lại là yếu tố quan trọng trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, là động lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế. Chính bởi vậy, xây dựng pháp luật cạnh tranh còn nhằm mục đích bảo đảm để cạnh tranh trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế, đưa đến tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy các chủ thể kinh doanh sử dụng tài nguyên môi trường một cách hợp lý, tăng cường việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm cải tiến sản xuất, nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả sản xuất. Bên cạnh đó, pháp luật cạnh tranh ra đời nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu kiểm soát độc quyền, đặc biệt khi mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Độc quyền trong kinh doanh dù hình thành và tồn tại bằng cách nào cũng thường gây ra nhưng hậu quả tiêu cực nhất định đối với nền kinh tế quốc dân. Độc quyền trong kinh doanh sẽ dẫn đến hình thành gía cả độc quyền, giá cả lũng đoạn cao, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Ở hầu hết các nước đều tồn tại các loại độc quyền tự nhiên, độc quyền Nhà nước. Ở nước ta, với xuất phát điểm thấp và một số đặc điểm tồn tại của tình hình kinh tế - xã hội, trong thời gian tới, sẽ vẫn tồn tại một số ngành có độc quyền Nhà nước. Tuy nhiên, thông qua các quy định của pháp luật cạnh tranh, Nhà nước đã tạo ra cơ chế 10
- kiểm soát nhằm hạn chế hiện tượng tiêu cực do độc quyền gây lên như: cửa quyền, lũng đoạn, lạm dụng vị trí độc quyền Cùng với quá trình mở cửa thị trường thông qua việc ký kết và gia nhập các hiệp ước song phương và đa phương, đã và cũng sẽ xuất hiện công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam. Những công ty này với thế mạnh kinh tế của mình có khả năng nâng cao và tạo lập được vị trí độc quyền và trong bối cảnh đó các doanh nghiệp nội địa Việt Nam với tiềm năng kinh tế hạn chế không đủ sức cạnh tranh và dần bị loại bỏ khỏi nền kinh tế. Tình trạng loại bỏ đối thủ để thiết lập vị thế độc quyền diễn ra ở mức độ nghiêm trọng. Vì vậy, pháp luật cạnh tranh ra đời giúp nâng cao sức cạnh tranh cho các chủ thể kinh doanh trên thị trường nội địa cũng như thị trường quốc tế. Cuối cùng, pháp luật cạnh tranh với vai trò riêng điều chỉnh các hành vi vi phạm làm lành mạnh hoá thị trường, tạo ra một sân chơi bình đẳng trong hoạt động kinh doanh, đồng thời, cũng đòi hỏi các chủ thể kinh doanh khi tham gia thị trường phải tôn trọng pháp luật, hoạt động kinh doanh tự do trong khuôn khổ của pháp luật, gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích chung của toàn xã hội cũng là mục đích cao cả của pháp luật cạnh tranh. 1.1.1.3. Đối tượng điều chỉnh. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh bao gồm các quan hệ chủ yếu sau: Thứ nhất, mối quan hệ cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh trên thị trường. Đây được coi là nhóm quan hệ chủ yếu, cơ bản, bởi vì, cạnh tranh là thuộc tính hoạt động của các chủ thể kinh doanh khi tiến hành nhằm đạt mục đích tìm kiếm lợi nhuận ở mức tối đa. Trong khi cạnh tranh, họ có thể sử dụng mọi thủ 11
- pháp, kể cả thủ pháp bị coi là không lành mạnh, miễn sao đưa lại hiệu quả mong đợi. Nhưng nếu các quan hệ cạnh tranh này chịu sự điều chỉnh của pháp luật thì pháp luật sẽ “can thiệp ” và “định hướng” công khai đối với các hành vi cạnh tranh của các chủ thể, buộc các chủ thể phải lựa chọn cách xử sự hợp lý nhất tuân theo trật tự mà pháp luật mong muốn. Pháp luật định ra cách xử sự và những tiêu chí lành mạnh cho quá trình cạnh tranh, chỉ ra và ngăn cấm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, những thỏa thuận, liên kết đưa đến những hạn chế sự cạnh tranh hoặc những hành vi mà hậu quả của nó làm triệt tiêu sự cạnh tranh (tình trạng độc quyền) Để đảm bảo cho việc điều chỉnh pháp luật đạt hiệu quả trong mối quan hệ này, pháp luật cũng cần xác định rõ các yếu tố sau: - Địa vị pháp lý của các chủ thể cạnh tranh; - Cơ sở làm phát sinh, biến đổi hoặc chấm dứt sự tồn tại của quan hệ cạnh tranh; - Giới hạn hành vi, giới hạn quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ cạnh tranh; - Các biện pháp tác động pháp lý trong những trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật hoặc không thực hiện các nghĩa vụ của các chủ thể, khả năng, tính chất và mức độ của các chế tài tương ứng. Thứ hai, mối quan hệ của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các chủ thể kinh doanh khi tiến hành các hoạt động cạnh tranh. Đây là nhóm quan hệ thể hiện rõ nhất tính chất can thiệp và định hướng của Nhà nước đối với vấn đề cạnh tranh và độc quyền. Trong điều kiện Nhà nước quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động của nền kinh tế, không thể thiếu vắng sự hiện diện của cơ quan quản lý nhà 12
- nước thực hiện các chức năng điều tiết, kiểm soát các quan hệ cạnh tranh trên thị trường. Nhóm quan hệ này thể hiện tính chất hành chính, mệnh lệnh. Với một thiết chế Nhà nước và nội dung quản lý nhà nước cụ thể trong lĩnh vực cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh quy định rõ về khuôn khổ nguyên tắc, cơ chế áp dụng và thực thi pháp luật, các biện pháp chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, hiệu lực của các quyết định xử lý vi phạm, sự phối hợp của các cơ quan có thẩm quyền trong việc giám sát, kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm về cạnh tranh. Thứ ba, mối quan hệ giữa các cơ quan tài phán, cơ quan tiến hành tố tụng với các chủ thể kinh doanh. Đây là nhóm quan hệ mang tính chất tố tụng, thể hiện vai trò cuả các cơ quan tố tụng, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc chống các thoả thuận, hành vi hạn chế cạnh tranh và kiểm soát độc quyền. Quan hệ này xuất hiện khi xảy ra các trường hợp vi phạm pháp luật về cạnh tranh, có kiện tụng hoặc cần thiết phải áp dụng các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với các chủ thể có hành vi vi phạm. Những quan hệ mang tính tố tụng đó bao gồm: - Khi các chủ thể kinh doanh có quyền và lợi ích bị xâm phạm bởi các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, họ được quyền khởi kiện đến toà án yêu cầu bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình phát sinh quan hệ kiện tụng giữa nguyên đơn và bị đơn. Toà án nhân dân sẽ áp dụng thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để giải quyết việc kiện và từ đó nảy sinh quan hệ giữa toà án nhân dân và các bên đương sự. Hậu quả pháp lý của việc giải quyết sẽ là một bản án hay quyết định buộc chủ thể vi phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm và bồi thường thiệt hại phát sinh. - Khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành các quy định pháp luật về cạnh tranh, nếu phát hiện thấy vi phạm, cơ quan chức năng có thẩm quyền được quyền áp dụng các biện pháp điều tra, xử lý vi 13
- phạm hành chính làm phát sinh quan hệ giữa cơ quan chức năng của Nhà nước và chủ thể có hành vi vi phạm. - Trong trường hợp các hành vi vi phạm có tính chất nghiêm trọng, cấu thành tội phạm hình sự, thì sẽ bị xử lý về về mặt hình sự. Từ đó làm phát sinh mối quan hệ giữa các cơ quan tố tụng trong hình sự với các chủ thể có hành vi nguy hiểm cấu thành tội phạm hình sự. Các quan hệ tố tụng phát sinh tuỳ thuộc vào bản chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh và thái độ của Nhà nước trong việc xử lý những hành vi này. 1.1.1.4. Phạm vi điều chỉnh. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật có nghĩa là giới hạn hay ranh giới của việc sử dụng pháp luật vào điều chỉnh các quan hệ cạnh tranh hoặc liên quan đến cạnh tranh. Đó cũng là ranh giới của sự can thiệp công khai thông qua pháp luật của Nhà nước để duy trì, bảo đảm cơ chế hoạt động cạnh tranh, môi trường và trật tự cạnh tranh lành mạnh. Hay nói cách khác, đó là những nhóm quan hệ, hành vi nào mà pháp luật về cạnh tranh cần thiết phải can thiệp và định hướng để bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh. Nếu xem xét chủ thể tham gia quan hệ cạnh tranh, quan hệ quản lý nhà nước đối với vấn đề cạnh tranh và các quan hệ có tính chất tố tụng thì phạm vi điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh bao gồm tất cả các chủ thể đã thực hiện hành vi cạnh tranh, liên quan đến cạnh tranh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trên thị trường, không phân biệt loại hình và quy mô kinh doanh. Những hành vi của chủ thể cạnh tranh làm phát sinh mối quan hệ là đối tượng điều chỉnh trực tiếp mà các quy phạm pháp luật về cạnh tranh thực hiện điều chỉnh. 14
- Nếu xét theo hành vi, pháp luật về cạnh tranh điều chỉnh các nhóm hành vi: Thoả thuận hạn chế cạnh tranh, các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền, các hành vi tập trung kinh tế, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, trong quá trình kinh doanh, hành vi cạnh tranh của các chủ thể sẽ thể hiện sự giành giật với các chủ thể khác gây ra tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến chủ thể thứ ba hình thành nên những mối quan hệ cạnh tranh, liên quan đến cạnh tranh Những mối quan hệ này chính là đối tượng điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh là một lĩnh vực đặc thù trong dân luật nhằm bảo vệ uy tín và tài sản chính đáng của các doanh nghiệp. Tính không lành mạnh của hành vi cạnh tranh lệ thuộc vào nhiều yếu tố của quan hệ tố tụng và luôn được điều chỉnh bằng phương thức của luật tư. Điều đó có nghĩa, cho đến khi nào người bị ảnh hưởng, bị vi phạm chưa đưa ra phản đối, khiếu kiện thì pháp luật và Toà án chưa thể can thiệp. 1.1.2. Bản chất của các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. 1.1.2.1. Khái quát về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Trước hết cần xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là một hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, sử dụng các thủ pháp cạnh tranh không lành mạnh thông qua việc xâm phạm các quyền sở hữu trí tuệ đã được pháp luật bảo hộ của đối thủ cạnh tranh. Nhìn nhận về mặt khách quan, các hành vi này có biểu hiện xâm phạm trực tiếp tới các quyền sở hữu trí tuệ như: Làm giả, làm nhái nhãn hiệu hàng hoá, sử dụng trái phép tên thương mại, làm giả kiểu dáng hàng công nghiệp, xâm phạm bí mật kinh doanh 15
- Tuy nhiên, hành vi này không chỉ nhằm mục đích trục lợi cho bản thân chủ thể thực hiện hành vi, mà về ý thức chủ quan, chủ thể vi phạm còn nhằm mục đích triệt hạ đối thủ cạnh tranh gây thiệt hại cho quyền lợi của người tiêu dùng và nhiều hậu quả bất lợi khác cho xã hội như: sự mất ổn định về trật tự kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho công tác quản lý kinh tế, quản lý thị trường. Chính bởi vậy, nếu chỉ xử lý các hành vi này bằng các quy định của pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thì chưa phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của nó, mà cần thiết phải áp dụng các quy định của pháp luật cạnh tranh với các biện pháp phù hợp hơn để tạo điều kiện cho các chủ thể bị xâm phạm, cũng như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chủ động trong việc phòng ngừa, kiểm soát và xử lý vi phạm. 1.1.2.2. Một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Luật Cạnh tranh quy định tại Điều 39 về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bao gồm: + Chỉ dẫn gây nhầm lẫn; + Xâm phạm bí mật kinh doanh; + Ép buộc trong kinh doanh; + Gièm pha doanh nghiệp khác; + Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; + Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; + Phân biệt đối xử của hiệp hội; + Bán hàng đa cấp bất chính; + Các hành vi khác. 16
- Tuy nhiên, trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, không phải hành vi nào cũng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh đối với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: - Chỉ dẫn gây nhầm lẫn: Là hành vi doanh nghiệp sử dụng, kinh doanh hàng có sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khác theo quy định của pháp luật để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh. - Xâm phạm về bí mật kinh doanh: Là hành vi doanh nghiệp tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh; việc tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh; việc vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh; việc tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh làm thủ tục lưu hành sản phẩm bằng hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm. Tất cả các hành vi trên đều cấu thành hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, một trong những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. - Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh: Là việc doanh nghiệp dùng những hành vi như: so sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng 17
- hoá, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác; bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng; đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một số nội dung (Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công; Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành); các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác; các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm. - Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: Là việc doanh nghiệp tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng; khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng; phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại; tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình; và các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm. Ngoài ra trong pháp luật về sở hữu trí tuệ còn có các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong sở hữu trí tuệ như: - Sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được bảo hộ là một nước thành viên Công ước Paris hoặc là thành viên của một điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định tương tự như Điều 6septies hoặc có quy định áp dụng Điều 6septies Công ước Paris, với điều kiện một năm trước ngày bắt đầu thực hiện hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại đó người thực hiện hành vi sử dụng còn là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu đó taị Việt Nam và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc không có lý do chính đáng; Hành vi sản xuất, lắp ráp, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu, xuất khẩu, cho thuê 18
- phương tiện, kể cả thiết bị có gắn phương tiện, mà phương tiện đó chủ yếu được sử dụng để giúp cho việc vô hiệu hoá các biện pháp công nghệ được sử dụng trong thương mại để kiểm soát việc nghe âm thanh, xem hình ảnh, chạy chương trình máy tính, ghi âm. ghi hình, ghi chương trình máy tính (trừ biện pháp công nghệ do người khác không phải là người có quyền kiểm soát hợp pháp đối với âm thanh, hình ảnh, chương trình máy tính đó sử dụng) hoặc hành vi sản xuất, lắp ráp, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu, xuất khâu, cho thuê bản ghi chương trình maý tính có chức năng vô hiệu hoá biện pháp công nghệ nêu trên kể cả trong trường hợp chương trình máy tính đó có chứa các chương trình khác, hoặc hành vi cung cấp chương trình máy tính nêu trên qua mạng thông tin điện tử; hành vi bán, chuyển nhượng, trưng bày để bán, chuyển nhượng, nhập khẩu, xuất khẩu cho người không được chỉ định hoặc cho người đó thuê phương tiện kể cả thiết bị có gắn phương tiện, mà phương tiện đó chủ yếu được sử dụng để giúp cho việc vô hiệu hoá các biện pháp công nghệ được người kiểm soát hợp pháp đối với âm thanh, hình ảnh, chương trình máy tính đang sử dụng trong thương mại để kiểm soát việc nghe âm thanh, xem hình ảnh, chạy chương trình máy tính, ghi âm, ghi hình, chi chương trình máy tính, thiết bị lưu trữ chương trình máy tính có chức năng vô hiệu hoá biện pháp công nghệ nêu trên, kể cả trong truờng hợp chương trình máy tính đó có chứa chương trình khác”. - Trong trường hợp các tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh phát hiện ra, các chủ thể đó có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc người thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải chấm dứt hành vi cạnh tranh không lành mạnh đó và bối thường thiệt hại. 19
- 1.1.2.2. Bản chất của các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. a. Hành vi làm hàng giả. Làm hàng giả và buôn bán hàng giả là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay chưa có sự hiện hữu của các quy phạm pháp luật về cạnh tranh, nhưng những hành vi này lại được quy định bởi các quy định của Luật Hành chính và Luật Hình sự. Bộ luật Hình sự 1999 có quy định 3 tội danh: Tội sản xuất và buôn bán hàng giả (Điều 156 BLHS); Tội sản xuất và buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh ( Điều 157 BLHS); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi ( Điều 158 BLHS) Về mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội này bao gồm hai loại hành vi sau: - Hành vi sản xuất hàng giả: Là hành vi tạo ra các loại hàng hoá giả mạo. Người phạm tội có thể tham gia vào toàn bộ quá trình làm hàng giả hoặc chỉ là tham gia vào một công đoạn nào đó của quá trình làm ra hàng giả như chỉ lắp ráp các bộ phận hoặc đóng gói hoặc dán nhãn hiệu để toạ ra hàng giả. - Hành vi buôn bán hàng giả: Là hành vi mua đi bán lại loại hàng hoá biết rõ là giả nhằm thu lợi bất chính. Hành vi buôn bán hàng giả có thể là buôn bán hàng giả đã thành phẩm hoặc buôn bán những bộ phận, chi tiết giả. Mặt chủ quan: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội biết rõ hành vi sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn muốn thực hiện hành vi đó. 20
- Hậu quả xã hội của hành vi: Hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả xâm hại trật tự của nền sản xuất hàng hoá, làm mất đi sự ổn định của thị trường, xâm hại lợi ích của người tiêu dùng. b. Hành vi xâm phạm về bí mật kinh doanh. Về mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội này gồm các hành vi như hành vi doanh nghiệp tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh; việc tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh; việc vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh; việc tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh làm thủ tục lưu hành sản phẩm bằng hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan Nhà nước hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm. Mặt chủ quan: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội biết rõ hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn muốn thực hiện hành vi đó. Hậu quả xã hội của hành vi: Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh xâm phạm trực tiếp tới lợi ích của chủ thể kinh doanh bị xâm phạm. c. Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Về mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội này gồm các hành vi như so sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác; bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn 21