Luận văn Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

pdf 86 trang vuhoa 24/08/2022 9800
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_xet_xu_phuc_tham_vu_an_hinh_su_tu_thuc_tien_tinh_do.pdf

Nội dung text: Luận văn Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI   ĐỖ THỊ NHUNG XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI   ĐỖ THỊ NHUNG XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN Hà Nội, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. TÁC GIẢ ĐỖ THỊ NHUNG
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 6 1.1. Khái niệm, tính chất của xét xử phúc thẩm vụ án hình sự 6 1.2. Phân biệt xét xử phúc thẩm với giám đốc thẩm, tái thẩm 14 1.3. Xét xử phúc thẩm ở một số quốc gia trên thế giới 17 Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở TỈNH ĐỒNG NAI 24 2.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trước khi ban hành Bộ luật TTHS năm 2015 24 2.2. Quy định pháp luật TTHS về xét xử phúc thẩm VAHS trong Bộ luật TTHS năm 2015 31 2.3. Thực tiễn xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Đồng Nai 42 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 52 3.1. Yêu cầu đặt ra cho việc xét xử phúc thẩm trong cải cách tư pháp 52 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự 58 KẾT LUẬN 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra HĐXX: Hội đồng xét xử HĐXXPT: Hội đồng xét xử phúc thẩm KSV: Kiểm sát viên TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TNHS: Trách nhiệm hình sự TTHS: Tố tụng hình sự VAHS: Vụ án hình sự VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân VKSNTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  6. HỆ THỐNG BẢNG SỐ LIỆU TRONG LUẬN VĂN Bảng 2.1: Thống kê số lượng án hình sự giải quyết toàn ngành TAND tỉnh Đồng Nai 2015 - 2020 42 Bảng 2.2: Thống kê số liệu thụ lý án phúc thẩm 2016 - 2020 43 Bảng 2.3: Thống kê số liệu án giải quyết phúc thẩm Tòa án nhân dân Tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 - 2020 43
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đổi mới bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các định hướng và nhiệm vụ về cải cách tư pháp được nêu rõ trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: “Khi xét xử phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định” [5]. Các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp đã từng bước được thể chế hóa trong Hiến pháp và các luật về tổ chức và hoạt động của các quan tư pháp. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để chúng ta tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và các TAND nói riêng. Trong tiến trình đổi mới tổ chức và hoạt động tư pháp, việc khẳng định nguyên tắc 2 cấp xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm) là bắt nguồn từ bản chất, chức năng của quyền tư pháp và việc tổ chức thực hiện quyền tư pháp. Trong tư pháp hình sự, việc áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS về phúc thẩm còn vướng mắc cả ở nhận thức lẫn thực tiễn về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS, về bổ sung, thay đổi và rút kháng cáo, kháng nghị; giải quyết vấn đề kháng cáo quá hạn; áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam, Việc quy định một thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án áp dụng chung đối với tất cả các vụ án đã làm cho hoạt động xét xử phúc thẩm trở nên quá tải, quá thời 1
  8. hạn luật định dẫn đến sự tồn đọng án trong những năm gần đây, phần nào ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vì vậy, việc nghiên cứu về xét xử phúc thẩm hình sự từ thực tiễn một tỉnh có số lượng án hình sự lớn như Đồng Nai sẽ góp thêm tiếng nói vào việc tiếp tục hoàn thiện chế định phúc thẩm trong tiến trình đẩy mạnh cải cách tư pháp theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. Vì vậy học viên đã chọn đề tài Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai làm đề tài nghiên cứu luận văn cao học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Xét xử phúc thẩm trong TTHS là một vấn đề có nội dung rộng và phức tạp của khoa học luật TTHS, được một số nhà khoa học pháp lý ở nước ta và trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Trong sách báo pháp lý của nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này ở những mức độ và phạm vi khác nhau. Cụ thể như: Luận án tiến sĩ luật học "Thẩm quyền của Tòa án các cấp trong tố tụng hình sự" của tác giả Nguyễn Văn Huyên năm 2002, Trường Đại học Luật Hà Nội [13]. Luận văn thạc sĩ luật học năm 2012 của tác giả Nguyễn Thị Hồng Phương “Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự”, Đại học Quốc gia Hà Nội [16]. Luận văn thạc sĩ luật học năm 2016 của tác giả Vũ Thị Uyên “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Học viện Khoa học xã hội [38]. Luận văn thạc sĩ luật học năm 2018 của tác giả Nguyễn Thành An “Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng”, Học viện khoa học xã hội. [1] Luận văn thạc sĩ luật học năm 2018 của tác giả Trương Phạm Huyền Châu “Thủ tục phiên tòa phúc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh”, Học viện Khoa học xã hội năm 2018 [7]. 2
  9. Bài báo: "Những vấn đề cần trao đổi từ thực tế xét xử phúc thẩm về hình sự" của TS. Từ Văn Nhũ đăng trên Tạp chí TAND, số 3/2001. Bài báo: "Những vấn đề tồn tại trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự và những kiến nghị nhằm hoàn thiện" của TS. Dương Ngọc Ngưu đăng trên Tạp chí TAND, số 11/2000 và số 01/2001. Công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến phúc thẩm trong TTHS: Bài báo: "Vai trò của Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp" của PGS.TS Phạm Hồng Hải đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2001. Bài viết: Thủ tục xét xử phúc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện, của PGS. TS. Nguyễn Tất Viễn – Bộ Tư pháp. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp - kinh nghiệm CHLB Đức”, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Quỹ Hợp tác quốc tế về pháp luật CHLB Đức, ngày 09-10/6/2011 tại Hà Nội [44]. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về xét xử phúc thẩm trong TTHS từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai như là một nghiên cứu chuyên biệt. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về xét xử phúc thẩm trong TTHS, đánh giá thực tiễn việc áp dụng các quy định pháp luật về phúc thẩm hình sự tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về XXPT và bảo đảm áp dụng đúng các quy định về xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn - Làm rõ khái niệm, tính chất của xét xử phúc thẩm trong TTHS. - Khái quát quá trình phát triển của pháp luật TTHS Việt Nam về xét xử phúc thẩm và những thay đổi qua các lần pháp điển hóa. 3
  10. - Đánh giá thực tiễn thực hiện XXPT của TAND tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2020; chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn và nguyên nhân. - Đề để xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu các quy định về XXPT và thực tiễn XXPT vụ án hình sự của TAND tỉnh Đồng Nai từ năm 2016 đến năm 2020. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Nội dung nghiên cứu: Giai đoạn xét xử phúc thẩm. - Phạm vi về thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2020. - Phạm vi không gian: Địa bàn tỉnh Đồng Nai. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về cải cách tư pháp. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong đề tài: Phương pháp hệ thống, so sánh, phân tích - tổng hợp, thống kê, lịch sử, lôgíc - pháp lý. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm sáng tỏ những quy định của pháp luật về xét xử VAHS nói chung và xét xử phúc thẩm VAHS tại Tòa án nhân dân tỉnh hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn là tài liệu có thể được sử dụng tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập, giảng dạy ở các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học pháp lý. Bên cạnh đó, Luận văn có ý nghĩa trong việc nâng cao trình độ lý luận, hiểu biết, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự của cán bộ tư pháp nói chung và của Thẩm phán nói 4
  11. riêng về xét xử phúc thẩm VAHS, góp phần nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự Chương 2: Pháp luật về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng ở tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự. 5
  12. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, tính chất của xét xử phúc thẩm vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm Sự ra đời của Tòa án gắn liền với hoạt động xét xử và xét xử trở thành đặc điểm quan trọng nhất khi nói đến Tòa án. Xét xử luôn được xác định là chức năng có tính đặc hữu, đặc quyền của Tòa án. Xét xử cũng là một thủ tục đặc biệt nhất của tòa án tư pháp mà không có cơ quan nào của nhà nước có được. Hiến pháp năm 2013 ghi nhận“Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”[26]. Quy định này khẳng định quyền tư pháp là quyền được giao cho Tòa án. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ án hình sự, dân sự, hành chính, nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết phù hợp với tính chất mức độ của hành vi vi phạm pháp luật, tội phạm. Là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, tòa án có những điểm đặc thù so với các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan nhà nước, khác với cơ quan lập pháp và hành pháp ở chỗ không giải quyết các vấn đề ở tầm vĩ mô, không hoạch định chính sách kinh tế - xã hội mà có chức năng giải quyết các vấn đề cụ thể, từng tình huống, từng sự kiện cụ thể trong đời sống xã hội, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Cách thức tổ chức và hoạt động của tòa án cũng rất khác so với cơ quan lập pháp và hành pháp. Thông qua việc thực hiện quyền lực tư pháp mà pháp luật tác động đến những quan hệ xã hội, công lý và trật tự xã hội được bảo đảm. Với đặc thù đó, về nguyên tắc tòa án không tổ chức theo đơn vị hành chính như cơ quan hành pháp hoặc cơ quan dân cử mà tổ chức theo cấp (thẩm quyền) xét xử. Giữa các cấp tòa án không có quan hệ mệnh lệnh, hành chính mà chủ yếu là quan hệ tố 6
  13. tụng; mỗi cấp tòa án độc lập theo chiều dọc. Để có thể đạt được công lý, việc xét xử cần phải độc lập, không áp đặt mệnh lệnh hành chính. Nếu ở cấp thứ nhất (sơ thẩm) giải quyết vụ án hình sự mà cá nhân, tổ chức không đồng tình thì có quyền kháng cáo, kháng nghị và cấp thứ hai (phúc thẩm) bất luận trong trường hợp nào cũng phải mở phiên tòa xét xử với hội đồng xét xử hoàn toàn khác, mặc dù cả 2 cấp đều xét xử vụ án về nội dung. Đây là nguyên tắc tiến bộ, nhân văn, lần đầu tiên được đề xướng và áp dụng trong tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án sau cách mạng tư sản cuối thế kỷ XVIII [24, tr. 50]. Nguyên tắc xét xử hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm được ghi nhận trong Hiến pháp của nhiều một số quốc gia. Điều 176 Hiến Cộng hòa Ba Lan năm 1997 quy định: các vụ việc tại tòa án phải qua ít nhất 2 cấp xét xử [16]; Điều 166, 168, 169 Hiến pháp Cộng hòa Nam Phi 1996 quy định về thẩm quyền xét xử phúc thẩm (cấp thứ hai) của tòa án cấp phúc thẩm và Tòa án cấp cao [16]. Điều 50 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 quy định người bị kết án có quyền được xem xét lại bản án bởi Tòa án cấp cao hơn theo trình tự do pháp luật liên bang quy định [16]. Bộ luật Tố tụng hình sự nhiều quốc gia đều quy định thủ tục xét xử này. Cũng như trong tụng dân sự và tố tụng hành chính, tất cả vụ án hình sự đều phải được xét xử lần đầu tiên tại cấp xét xử sở thẩm. Đó là thủ tục bắt buộc, là cấp xét xử đầu tiên trong hoạt động xét xử của Tòa án khi giải quyết vụ án hình sự. Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử khi có cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Trình tự thủ tục xét xử sơ thẩm được thực hiên theo quy định của BLTTHS. Qua đó, Tòa án xem xét đánh giá chứng cứ, đánh giá toàn bộ vụ án, những chứng cứ buộc tội cũng như chứng cứ gỡ tội, toàn bộ các tình tiết liên quan có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, thông qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa để đưa ra bản án, quyết định cần thiết. Bản án, quyết định sơ thẩm chỉ có hiệu lực nếu không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định. Khi bản án có hiệu lực sẽ được thi hành và Tòa án sẽ không xét xử 7
  14. lại vụ án đó nữa (trừ trường hợp nếu có căn cứ có thể xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm). Với đặc trưng của hoạt động tư pháp bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định và khi đó chưa có hiệu lực thi hành. Theo quy định của pháp luật thì tất cả các bản án, quyết định sơ thẩm đều có thể bị kháng cáo, kháng nghị không loại trừ bất kỳ trường hợp nào, miễn là được thực hiện theo đúng quy định. Lúc này, Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm trên cơ sở của nguyên tắc hiến định là xét xử hai cấp. Tòa án cấp trên sẽ trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị và được tiến hành theo trình tự, thủ tục do BLTTHS, đó chính là thủ tục phúc thẩm. Trong hoạt động xét xử của tòa án, để bảo đảm tính khách quan, thận trọng, chính xác, việc xét xử lại đối với vụ án được đặt ra ngay từ thời xa xưa cho đến thời hiện đại. Pháp luật các quốc gia trên thế giới và trong các quy chế về các thiết chế tư pháp quốc tế. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 ghi nhận một nguyên tắc rất quan trọng “Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật” (Điểm 5, Điều 14). Tuy nhiên, với quan niệm “công lý cũng phải có điểm dừng” nên đối với vụ án xét xử ở cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm mang tính bắt buộc và trở thành nguyên tắc pháp luật, được ghi nhận trong đạo luật cơ bản (Hiến pháp) của nhiều quốc gia. Chức năng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được giao cho những tòa án khác nhau đảm nhiệm, tòa án đã xét xử sơ thẩm không được phúc thẩm bản án sơ thẩm do mình đã xét xử mà phải do Tòa án khác đảm nhận. Có hai cách để phân định thẩm quyền cho các Tòa án thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm là: (1) Ở những nước tổ chức hệ thống Tòa án theo tiêu chí lãnh thổ (địa giới hành chính) kết hợp với thẩm quyền như Việt Nam đã hình thành quan niệm Tòa án cấp dưới và Tòa án cấp trên thì 8
  15. thường là luật quy định Tòa án cấp trên phúc thẩm bản án sơ thẩm của cấp dưới nếu có kháng cáo, kháng nghị; (2) Những nước tổ chức hệ thống Tòa án theo tiêu chí thẩm quyền thì hình thành những Tòa án chỉ có chức năng xét xử sơ thẩm hoặc tòa án chỉ có chức năng xét xử phúc thẩm với tên gọi “tòa sơ thẩm” hoặc tòa “phúc thẩm” nên không tồn tại quan niệm “tòa án cấp trên”, “tòa án cấp dưới”, xóa bỏ được quan hệ hành chính giữa các tòa án do đó tạo điều kiện để bảo đảm nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của tòa án. Như vậy, nguyên tắc xét xử hai cấp (sơ thẩm và phúc thẩm) thể hiện những chức năng xét xử cụ thể và những chức năng này do những tòa án khác nhau đảm nhiệm. Để đưa ra khái niệm xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, trước hết cần làm rõ làm rõ từng khái niệm thành phần. Ở đây có hai khái niệm thành phần cần làm rõ là khái niệm xét xử phúc thẩm và khái niệm vụ án hình sự. Khái niệm phúc thẩm và xét xử phúc thẩm có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo từ điển Hán - Việt thì không có khái niệm phúc thẩm nguyên nghĩa, mà phúc thẩm được ghép lại bởi hai từ “phúc” và “thẩm” với hai nghĩa khác nhau, trong đó từ “phúc” có nghĩa là “lật lại” hoặc “xét kỹ”, còn từ “thẩm” mang nghĩa “xử đoán”. Như vậy theo từ điển Hán - Việt thì muốn hiểu thế nào là phúc thẩm thì phải ghép nghĩa của hai từ “phúc” và từ “thẩm” với nghĩa nêu trên [2]. Khác với từ điển Hán - Việt, từ điển Tiếng Việt đã nêu khái niệm về phúc thẩm, theo đó phúc thẩm có nghĩa là Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ án mà có chống án do Tòa án cấp dưới đã xét xử sơ thẩm [46]. Từ điển Luật học giải thích phúc thẩm là “xét lại vụ án, quyết định đã được tòa án cấp dưới xét xử sơ thẩm nhưng chưa có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo hoặc kháng nghị” [6, tr.626]. Do các vụ việc có tính chất đặc thù khác nhau nên pháp luật quy định các thủ tục tố tụng khác nhau tương ứng, bao gồm thủ tục tố tụng hình sự, thủ tục tố tụng dân sự, thủ tục tố tụng hành chính, trong đó thủ tục tố tụng hình sự 9
  16. được quy định áp dụng cho việc giải quyết các vụ án hình sự như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Theo Từ điển luật học thì vụ án hình sự là “Vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm đã được quy định trong Bộ luật hình sự đã được cơ quan điều tra ra lệnh khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định ở Bộ luật hình sự tố tụng.” [6, tr.570]. Như vậy, khi có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo các quy định của Bộ luật TTHS. Theo quy định tại Điều 330 BLTTHS năm 2015 thì xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được hiểu là việc “Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị”[25]. Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau, như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các giai đoạn tố tụng này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn đều có tính độc lập tương đối của nó, xét xử phúc thẩm là một giai đoạn tố tụng, nên cũng không ngoại lệ. Giai đoạn xét xử phúc thẩm được tiến hành sau giai đoạn xét xử sơ thẩm, trước xét xử sơ thẩm còn có các giai đoạn điều tra, truy tố. Những giai đoạn này là tiền đề cho giai đoạn xét xử phúc thẩm, còn giai đoạn xét xử phúc thẩm lại kiểm tra, đánh giá tính đúng đắn của các giai đoạn trước. Thông qua xét xử phúc thẩm, có thể kịp thời phát hiện những sai lầm, thiếu sót của giai đoạn trước, từ đó kịp thời khắc phục, đảm bảo quá trình tố tụng thông suốt, tiến hành theo đúng trình tự luật định, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Với những phân tích nêu trên, theo tác giả tác giả thì Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo đúng trình tự, thủ tục luật định, kiểm tra tính 10
  17. có căn, hợp pháp và áp dụng pháp luật thống nhất của bản án, quyết định sơ thẩm nêu trên nhằm kịp thời khắc phục sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. 1.1.2. Tính chất của xét xử phúc thẩm Trong khoa học tố tụng hình sự cho đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau, chủ yếu xoay quanh vấn đề xác định phúc thẩm có phải là một cấp xét xử hay chỉ là một thủ tục tố tụng không phải là cấp xét xử. Ý kiến thứ nhất cho rằng, xét xử phúc thẩm là một cấp xét xử sau xét xử sơ thẩm. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án trên một cấp - cấp phúc thẩm có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động xét xử sơ thẩm. Bên cạnh đó, Tòa án phúc thẩm còn xét xử cả về nội dung vụ án [47, tr.144]. Do đó, có thể nói tính chất của phúc thẩm cần phải được hiểu là “xét xử lại” các vụ án mà bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị chứ không thể hiểu chỉ là “xét lại” vụ án. Ý kiến thứ hai cho rằng, phúc thẩm chỉ là một thủ tục tố tụng, trong đó Tòa án cấp trên (tòa cấp phúc thẩm) trực tiếp xét lại các bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục luật định mà không phải là một cấp xét xử. Với cách hiểu này thì tính chất của phúc thẩm không phải là “xét xử lại” mà chỉ là “xét lại” các vụ án [39,tr. 216]. Vấn đề này được thể hiện ngay trong Điều 204 BLTTHS năm 1988 về tính chất của xét xử phúc thẩm, theo đó Điều luật này quy định “Phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị” [23]. Trong hai ý kiến nói trên, ý kiến thứ hai không hợp lý, vì nếu chỉ coi phúc thẩm là “xét lại” bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật thì phúc thẩm không phải là một cấp xét xử, như vậy thì thực hiện nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử” như thế nào? Nếu phúc thẩm chỉ là xét lại mà không phải là cấp xét xử thứ hai sau xét xử sơ thẩm thì rõ ràng mâu thuẫn với nguyên tắc “hai cấp 11
  18. xét xử”. Còn ý kiến thứ nhất có căn cứ hơn khi phúc thẩm được coi là cấp xét xử, cần phải được hiểu theo nghĩa phúc thẩm là “xét xử lại”. Cách hiểu như vậy vừa phù hợp với quy định trong các văn bản hiện hành, vừa phù hợp với thực tiễn xét xử. Về vấn đề này, PGS.TS. Trần Văn Độ đã có cách tiếp cận hợp lý khi ông cho rằng “khái niệm cấp xét xử không phải là khái niệm tố tụng đơn thuần. Cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm của Nhà nước về xét xử các vụ án nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Toà án, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân. Vì vậy, các quốc gia đều áp dụng nguyên tắc vụ án có thể được tổ chức xét xử nhiều lần và tổ chức hệ thống Toà án để thực hiện nguyên tắc đó trong thực tế. Cấp xét xử không đơn thuần chỉ là thủ tục tố tụng; nó còn liên quan nhiều đến cách tổ chức tố tụng, tổ chức Toà án để thực hiện việc xét xử lại vụ án. Hiện nay, trong pháp luật quốc tế cũng như các quốc gia đều thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử” [10]. Xét về mặt pháp lý thì phúc thẩm là một cấp xét xử, hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” được ghi nhận trong Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 27 BLTTHS năm 2015. Khi đã thừa nhận nguyên tắc xét xử ở hai cấp thì chính là cơ sở để thừa nhận chế định phúc thẩm và tính chất “xét xử lại” của nó, tức là thừa nhận phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai. Hơn nữa, thực tiễn cho thấy khi có bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị thì Toà án cấp trên khi xét xử phúc thẩm đã tiến hành đầy đủ các trình tự, thủ tục mà Bộ luật Tố tụng hình sự quy định chứ không chỉ xét lại, điều này có nghĩa là Tòa án phúc thẩm là Tòa án cấp cao hơn, với địa vị pháp lý của mình sẽ kịp thời sửa chữa những sai lầm, thiếu sót nếu có của bản án, quyết định sơ thẩm. Như vậy, tính chất của phúc thẩm phải được hiểu là “xét xử lại” theo đúng tinh thần của Điều 330 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản 12
  19. án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị” [25]. Về đối tượng của xét xử phúc thẩm, sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và ban hành bản án, quyết định sơ thẩm, thì bản án, quyết định sơ thẩm này chưa có hiệu lực thi hành ngay. Khi bản án, quyết định đó bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định thì sẽ được xem xét xét xử lại ở Tòa án cấp trên theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự. Khi xác định đối tượng của xét xử phúc thẩm trong khoa học luật TTHS vẫn còn những ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng đối tượng của xét xử phúc thẩm chính là bản án, quyết định sơ thẩm. Đây là những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo kháng nghị. Ý kiến này lần đầu tiên được xuất phát từ Điều 204 BLTTHS năm 1988 và một số Bộ luật Tố tụng hình sự của một số nước như Nhật Bản, Australia Tuy nhiên, hiện nay có nhiều nhà khoa học pháp lý không đồng ý với ý kiến này. Tác giả luận văn cũng không đồng ý với ý kiến này vì khi xét xử bất kỳ một vụ án nào cũng đều nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan và đầy đủ. Không chỉ tòa án phúc thẩm mà tất cả các cấp xét xử đều phải xem xét, đánh giá chứng cứ của toàn bộ vụ án đã được thu thập ở các giai đoạn trước đó cũng như những chứng cứ được đưa ra xem xét trực tiếp tại phiên tòa. Trong các chứng cứ đó, có bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo kháng nghị. Nói cách khác, chứng cứ nêu trong bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị chỉ là một trong những chứng cứ có giá trị cần phải xem xét tại phiên Tòa bên cạnh các chứng cứ khác. Do đó, nếu coi đối tượng của xét xử phúc thẩm chỉ là các bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì là thiếu sót, không đảm bảo được mục đích của xét xử là nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án một cách toàn diện, nhằm xét xử đúng đắn vụ án hình sự. 13
  20. Ý kiến thứ hai lại cho rằng, những vụ án mà có bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị là đối tượng của xét xử phúc thẩm. Ý kiến này có điểm khác so với ý kiến thứ nhất, là xác định “những vụ án” mà bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị là đối tượng xét xử sơ thẩm chứ không chỉ “những bản án, quyết định sơ thẩm’. Quan điểm này phù hợp với tính chất của xét xử phúc thẩm, thực tiễn xét xử cũng như các quy định của pháp luật hiện hành. Các quốc gia trên cũng xác định đối tượng của phúc thẩm là những vụ án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Như đã phân tích ở trên, thì xác định đối tượng của phúc thẩm để đảm bảo tính khách quan, toàn diện và đầy đủ của xét xử nói chung và xét xử phúc thẩm nói riêng thì có thể khẳng định đối tượng của xét xử phúc thẩm không thể chỉ là bản án, quyết định sơ thẩm mà phải là và bắt buộc là những vụ án mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định. 1.2. Phân biệt xét xử phúc thẩm với giám đốc thẩm, tái thẩm Phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm có nhiều điểm khác nhau. Tuy nhiên, để phân biệt giữa phúc thẩm với giám đốc thẩm, tái thẩm chủ yếu xem xét ở các yếu tố cơ bản như tính chất của xét xử, đối tượng, thẩm quyền, phạm vi xét xử phúc thẩm và trình tự, thủ tục tố tụng. Sự khác nhau thể hiện ở một số nội dung sau: Thứ nhất, về tính chất: tính chất của xét xử phúc thẩm khác tính chất của giám đốc thẩm, tái thẩm. Để phân biệt giữa phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm thì đây là căn cứ quan trọng nhất. Một khi xác định được sự khác nhau về tính chất, là phân biệt được phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm. Như đã phân tích ở trên, tính chất của xét xử phúc thẩm chính là là “việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án .”, điều này được hiểu phúc thẩm chính là một cấp xét xử, hay phúc thẩm là “cấp xét xử thứ hai”, Tòa án phúc thẩm 14
  21. có nhiệm vụ xét xử lại vụ án về nội dung, kiêm tra tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định cấp sơ thẩm. Như vậy, bản chất của phúc thẩm chính là “xét xử lại”. Tuy nhiên, giám đốc thẩm và tái thẩm lại chỉ là “xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ”(Điều 370, 397 BLTTHS năm 2015), đây chỉ được coi là thủ tục đặc biệt, nhằm “xét lại”, kiểm tra lại tính có căn cứ và hợp pháp của các bản án, quyết định đã có hiệu lực bị kháng nghị. Căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành, giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án Giám đốc thẩm, tái thẩm cũng không phải là một cấp xét xử giống như phúc thẩm. Đây chính là điểm khác biệt cơ bản nhất giữa phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm. Thứ hai, xét về đối tượng của xét xử phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm: theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tại Điều 330 BLTTS năm 2015 thì đối tượng của xét xử phúc thẩm là các vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực bị kháng cáo (hoặc kháng nghị), còn đối tượng của giám đốc thẩm, tái thẩm là những vụ án mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Cụ thể là giám đốc thẩm xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật do có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, còn tái thẩm xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật do phát hiện tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định mà Tòa án không biết được lúc ra bản án, quyết định. Thứ ba, xét về chủ thể kháng cáo, kháng nghị: đối với xét xử phúc thẩm, chủ thể kháng cáo là những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 331 BLTTHS năm 2015 và chủ thể kháng nghị là Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp hoặc Viện kiểm sát cùng cấp. Còn đối với giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ có kháng nghị, cụ thể như: 15