Luận văn Xây dựng pháp luật về phá sản ngân hàng thương mại ở Việt Nam

pdf 131 trang vuhoa 25/08/2022 9340
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Xây dựng pháp luật về phá sản ngân hàng thương mại ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_xay_dung_phap_luat_ve_pha_san_ngan_hang_thuong_mai.pdf

Nội dung text: Luận văn Xây dựng pháp luật về phá sản ngân hàng thương mại ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ XUÂN ĐẠT XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ XUÂN ĐẠT XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Thu Thủy HÀ NỘI - 2011
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÂY DỰNG 9 PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM PHÁ SẢN NHTM 9 1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM 17 1.3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÁC 21 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ĐẶC THÙ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM 1.3.1. Xuất phát từ vai trò quan trọng của các ngân hàng trong việc 23 duy trì sự ổn định và phát triển của nền tài chính quốc gia 1.3.2. Xuất phát từ sự chi phối lớn của Nhà nước đối với hoạt động 27 của ngân hàng 1.3.3. Xuất phát từ tính rủi ro cao trong hoạt động của các NHTM 28 1.3.4. Xuất phát từ tính đặc thù trong việc thanh toán các khoản nợ 30 của các NHTM 1.3.5. Xuất phát từ tính đặc thù về chủ nợ và con nợ trong hoạt động 32 của NHTM 1.4. NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM 33 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 36
  4. Chương 2: GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN NHTM THEO QUY 37 ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM 2.1. ĐIỀU KIỆN XÁC ĐỊNH NHTM LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN 37 2.2. THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN NHTM 38 2.3. NHỮNG NGƢỜI CÓ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TRONG VIỆC NỘP 39 ĐƠN YÊU CẦU MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN 2.4. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN NHTM 43 2.4.1. Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 43 2.4.2. Mở thủ tục phá sản 45 2.4.3. Hội nghị chủ nợ 50 2.4.4. Phục hồi hoạt động kinh doanh 52 2.4.5. Thanh lý tài sản 58 2.4.6. Ra quyết định tuyên bố NHTM bị phá sản 64 2.5. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN NHTM TRONG TRƢỜNG HỢP 65 ĐẶC BIỆT 2.6. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG, HOÀN 68 THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 70 Chương 3: KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN 71 THẾ GIỚI TRONG VIỆC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM XÂY DƢNG, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM 3.1. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI TRONG 71 VIỆC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM
  5. 3.1.1. Kinh nghiệm của Hòa Kỳ 71 3.1.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Nga 75 3.1.3. Kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp 79 3.1.4. Kinh nghiệm của Cộng hòa Armenia 81 3.2. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU PHÁP 90 LUẬT CÁC NƢỚC VỀ GIẢI QUYẾT NHTM LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN 3.2.1. Mô hình pháp luật điều chỉnh đối với việc giải quyết phá sản 91 NHTM là không giống nhau 3.2.2. Tính chất của thủ tục giải quyết phá sản NHTM ở các quốc gia 92 là khác nhau 3.2.3. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản NHTM được quy 92 định chặt chẽ hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác 3.2.4. Thủ tục phục hồi NHTM lâm vào tình trạng mất khả năng 93 thanh toán được tiến hành sớm; việc Tòa án mở thủ tục phá sản thường đồng nghĩa với việc mở thủ tục thanh lý tài sản của NHTM đó 3.2.5. Pháp luật các nước chú trọng đến việc bảo vệ quyền lợi của 94 người gửi tiền khi NHTM bị phá sản 3.2.6. Pháp luật các nước quy định vai trò can thiệp, hỗ trợ mạnh mẽ 95 của cơ quan quản lý hoạt động của NHTM và tổ chức BHTG vào quá trình giải quyết phá sản các NHTM 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN PHÁP 96 LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM 3.3.1. Phương hướng xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phá sản 96 NHTM ở Việt Nam 3.3.1.1. Bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật khi 98 xử lý NHTM lâm vào tình trạng phá sản
  6. 3.3.1.2. Việc giải quyết phá sản NHTM cần được tiến hành một cách 98 thận trọng đồng thời đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và kinh tế - xã hội của đất nước 3.3.1.3. Việc giải quyết phá sản NHTM cần tạo cơ chế đặc biệt bảo vệ 99 quyền lợi của người gửi tiền 3.3.1.4. Việc xử lý phá sản NHTM cần được tiến hành một cách hiệu 101 quả và nhanh chóng 3.3.2. Một số kiến nghị cụ thể 102 3.3.2.1. Về thủ tục phá sản 102 3.3.2.2. Về trách nhiệm thông báo TCTD lâm vào tình trạng phá sản 106 3.3.2.3. Về những người có quyền và nghĩa vụ trong việc nộp đơn yêu 108 cầu mở thủ tục phá sản 3.3.2.4. Về hoạt động kinh doanh của TCTD sau khi có quyết định mở 110 thủ tục phá sản 3.3.2.5 Sửa đổi quy đinh về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm 112 thời 3.3.2.6. Sửa đổi bổ sung các loại tài sản của NHTM 112 3.3.2.7. Cần quy định đầy đủ hơn về việc xử lý các khoản nợ của khách 114 hàng đối với NHTM 3.3.2.8. Cần hướng dẫn cụ thể về thủ tục kiểm kê tài sản của NHTM 116 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 119 KẾT LUẬN 120 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 122
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BHTG : Bảo hiểm tiền gửi FDIC : Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang NHNN : Ngân hàng nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại TCTD : Tổ chức tín dụng
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Phá sản là một hiện tượng khách quan và tất yếu trong quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường, kinh tế thị trường càng phát triển thì phá sản càng phổ biến. Phá sản vừa là hiện tượng tích cực vừa là hiện tượng tiêu cực bởi vì phá sản là hiện tượng và xu hướng tất yếu của quá trình cạnh tranh, chọn lọc tự nhiên nhằm loại trừ những doanh nghiệp yếu kém, kìm hãm sự phát triển nền kinh tế, góp phần cơ cấu lại nền kinh tế. Mặt khác phá sản doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng kéo theo những hậu quả về kinh tế xã hội nhất định, đặc biệt làm cho người lao động mất việc làm, gây ra sự mất ổn định của nền kinh tế - xã hội Ngành ngân hàng đang đứng trước những áp lực cạnh tranh ngày càng lớn từ các cam kết mở cửa thị trường tài chính - ngân hàng sau khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Mặc dù cho đến thời điểm này Việt Nam chưa có một ngân hàng nào phải thực hiện các thủ tục phá sản, nhưng trên thế giới đã có một số ngân hàng lớn lâm vào tình trạng phá sản và phải áp dụng thủ tục giải quyết phá sản đối với những ngân hàng này, cho nên trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới, với nhiều ảnh hưởng từ các nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến sự phá sản các NHTM ở Việt Nam là một hiện tượng có thể xẩy ra trong tương lai. Trên thế giới đối với các ngân hàng mất khả năng thanh toán, lâm vào tình trạng phá sản, pháp luật các nước đều có những quy định riêng biệt áp dụng để giải quyết các ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản. Đối với Việt Nam, Luật Phá sản doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1993, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 07 năm 1994 là văn bản luật đầu tiên điều chỉnh toàn diện về phá sản doanh nghiệp. Tiếp đó Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 1
  9. Việt Nam đã ban hành Luật Phá sản số 21/2004/QH11 ngày 15 tháng 06 năm 2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2004 thay thế Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 (sau đây gọi chung là Luật Phá sản năm 2004) đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp dụng thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã nói chung, các NHTM nói riêng. Sự ra đời của Luật Phá sản năm 2004 đã góp phần quan trọng trong việc hình thành một cơ chế pháp lý đồng bộ cho hoạt động xử lý nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ và con nợ, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, làm cho môi trường kinh doanh trở nên lành mạnh hơn. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp, hợp tác xã ra đời, tồn tại và hoạt động sản xuất, kinh doanh nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau, do đó vị thế của các doanh nghiệp, hợp tác xã trong nền kinh tế cũng có sự khác nhau. Đối với những doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh những ngành nghề đặc thù có ảnh hưởng rất lớn tới những lĩnh vực quan trọng của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước như lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm , đòi hỏi Nhà nước cần phải có những quy định pháp luật đặc thù để xử lý các doanh nghiệp, hợp tác xã này khi lâm vào tình trạng phá sản, chứ không thể áp dụng những quy định chung về giải quyết phá sản các doanh nghiệp thông thường khác. Khoản 2 Điều 2 Luật Phá sản năm 2004 quy định: “Chính phủ quy định cụ thể danh mục và việc áp dụng Luật này đối với doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu”. Với quy định này, Chính phủ có thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể hóa việc áp dụng Luật Phá sản đối với các doanh nghiệp đặc thù, trong đó có các tổ chức tín dụng (TCTD). Tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm, lĩnh vực hoạt động, ảnh hưởng đối với kinh tế, xã hội của các 2
  10. doanh nghiệp đó mà việc phá sản các doanh nghiệp này có những khác biệt so với quy trình phá sản các doanh nghiệp thông thường khác. Hơn nữa, có thực tế là mặc dù cùng thuộc nhóm các doanh nghiệp đặc biệt (an ninh, quốc phòng, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm ), song do tính chất hoạt động, lĩnh vực hoạt động, ảnh hưởng đối với kinh tế, xã hội mà việc phá sản của những doanh nghiệp thuộc nhóm đặc biệt này cũng không giống nhau. Dưới góc độ này, việc phá sản các TCTD đòi hỏi cần có quy trình phá sản đặc biệt để bảo đảm được quyền lợi của công chúng, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Luật Phá sản năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2010, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 03 năm 2010, quy định việc áp dụng Luật Phá sản đối với các TCTD (sau đây gọi chung là Nghị định số 05/2010/NĐ-CP). Sự ra đời của Nghị định số 05/2010/NĐ-CP là một bước đột phá mới trong lĩnh vực xây dựng pháp luật nước ta, điều này thể hiện sự nhận thức về tầm quan trọng và những điểm đặc thù về tổ chức và hoạt động của TCTD nói chung và NHTM nói riêng phải được tính đến khi đặt vấn đề giải quyết phá sản loại hình tổ chức này. Việc giải quyết phá sản các NHTM cần phải có những quy định đặc thù về trình tự, thủ tục, xuất phát từ tổ chức và hoạt động của loại hình doanh nghiệp này cũng như những ảnh hưởng của việc giải quyết phá sản loại hình doanh nghiệp này mang lại đối với nền kinh tế - xã hội. Do đó chúng ta cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu để xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến việc giải quyết phá sản loại hình doanh nghiệp này là một vấn đề hết sức cần thiết và có tính thực tiễn. Chính vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài “Xây dựng pháp luật về phá sản ngân hàng thương mại ở Việt Nam” làm Luận văn Thạc sĩ luật học của mình. Về phương diện lý luận và thực tiễn nó sẽ góp phần tốt hơn trong quá trình giải quyết những vấn đề cấp thiết nêu trên. 3
  11. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề phá sản đang thực sự là một chủ đề thu hút sự chú ý và nghiên cứu của nhiều luật gia và các nhà nghiên cứu khoa học khác ở Việt Nam. Trong những năm gần đây cùng với những áp lực đặt ra trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật của một nền kinh tế chuyển đổi, đặc biệt là trong xu thế hội nhập quốc tế thì các hoạt động nghiên cứu về pháp luật phá sản đã có thêm nhiều công trình được thực hiện dưới nhiều hình thức, với nhiều cấp độ khác nhau. Trong đó, có công trình nghiên cứu toàn diện các vấn đề liên quan đến pháp luật phá sản, nhưng cũng có công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhất định liên quan đến pháp luật phá sản. Liên quan đến việc nghiên cứu chủ đề này có thể kể đến các công trình nghiên cứu như: Báo cáo phúc trình Đề tài “Đánh giá thực trạng, thực hiện nghiên cứu, phân tích để khuyến nghị hoàn thiện Luật Phá sản doanh nghiệp và các quy định pháp luật có liên quan”, Dự án VIE/98-001 năm 2002; công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của TS. Nguyễn Văn Dũng về “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng các quy định của Luật phá sản về thủ tục phá sản” năm 2004; công trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt Nam” của PGS-TS. Dương Đăng Huệ, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2005 Ngoài ra, nghiên cứu dưới các khía cạnh khác nhau của pháp luật phá sản có thể kể đến một số bài viết, công trình nghiên cứu của một số tác giã đã được đăng trên các tạp chí như: “Một số vấn đề về thực tiễn phá sản doanh nghiệp”, của tác giả Trần Khắc Hoàng đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 6/2002; “Về thực trạng pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay”, của TS. Dương Đăng Huệ đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/2003; “Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con nợ bị phá sản”, của tác giả Hà Thị Thanh Bình đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2003 hay “Đặc điểm của Quy chế xác định tài sản doanh nghiệp phá sản của Việt Nam và những đề xuất sửa đổi” của tác giả Trương Hồng Hải, đăng trên Tạp chí Luật học số 1/2004; 4
  12. Đối với vấn đề nghiên cứu pháp luật về giải quyết phá sản đối với TCTD, có thể kể đến một số công trình như: “Định hướng xây dựng pháp luật phá sản các TCTD”, của tác giả Nguyễn Văn Vân đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 8/2002; “Một số vấn đề về áp dụng Luật Phá sản năm 2004 đối với các TCTD”, của tác giả Viên Thế Giang đăng trên Tạp chí Ngân hàng số 2/2005; Khóa luận tốt nghiệp “Áp dụng pháp luật về phá sản doanh nghiệp đối với TCTD” của Đặng Thanh Bình, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn Thạc sĩ luật học “Những quy định đặc thù trong việc giải quyết phá sản TCTD” của Cao Đăng Vinh, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2009 Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên được thực hiện trước khi Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2010/NĐ-CP. Nhìn chung, chủ đề nghiên cứu về những đặc thù trong việc giải quyết phá sản đối với TCTD nói chung và NHTM nói riêng vẫn chưa được nhiều nhà khoa học pháp lý và những người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc. Kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2010/NĐ-CP quy định việc áp dụng Luật Phá sản đối với các TCTD cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về văn bản pháp luật này cũng như các vấn đề có liên quan đến việc giải quyết phá sản các TCTD. Mặc dù Nghị định 05/2010/NĐ-CP đã được Chính phủ ban hành, nhưng nhiều vấn đề xung quanh việc giải quyết phá sản các TCTD nói chung và NHTM nói riêng còn chưa được làm rõ, và có phương án xử lý phù hợp. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu các nội dung liên quan đến pháp luật quy định về việc giải quyết phá sản NHTM nhằm phân tích một cách đầy đủ và toàn diện về những đặc thù trong việc giải quyết phá sản đối với loại hình doanh nghiệp này để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phá sản TCTD nói chung và NHTM nói riêng là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn. 5
  13. 3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam liên quan đến giải quyết phá sản TCTD nói chung và NHTM nói riêng; ngoài ra, tác giả còn nghiên cứu những quy định của pháp luật một số nước trên thế giới về phá sản NHTM. - Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam có thể nói là một chủ đề khá rộng, có nhiều khía cạnh liên quan đến chủ đề này cần được nghiên cứu làm sáng tỏ. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này tác giả không có tham vọng nghiên cứu hết tất cả các vấn đề xung quanh các quy định pháp luật về giải quyết phá sản NHTM mà chỉ tập trung vào việc nghiên cứu, phân tích một số nội dung chủ yếu của các quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến việc giải quyết phá sản NHTM như thẩm quyền giải quyết phá sản, những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và thủ tục giải quyết phá sản NHTM ; phân tích tổng quát các quy định pháp luật của một số nước về vấn đề giải quyết phá sản NHTM. - Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài này tác giả muốn làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau: làm rõ khái niệm phá sản NHTM; sự cần thiết phải xây dựng pháp luật về phá sản NHTM; cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định pháp luật về phá sản NHTM; nội dung của pháp luật về phá sản NHTM; nghiên cứu, phân tích một số nội dung cơ bản của các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về giải quyết phá sản NHTM như điều kiện xác định NHTM lâm vào tình trạng phá sản, thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, những người có quyền và nghĩa vụ trong việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, thủ tục giải quyết phá sản NHTM; tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc xây dựng pháp luật về phá sản NHTM. Trên cơ sở đó, Luận văn sẽ đưa ra một số kiến nghị nhằm xây dựng, hoàn thiện những quy định đặc thù trong thủ tục giải quyết phá sản NHTM ở Việt Nam. 6
  14. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với việc vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể được tác giả vận dụng khi thực hiện đề tài này là phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh và đặc biệt là phương pháp luật học so sánh. Tác giả đã dùng phương pháp so sánh để so sánh các quy định pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới với mục đích tìm ra những mô hình pháp lý điển hình áp dụng cho việc giải quyết NHTM lâm vào tình trạng phá sản; bên cạnh đó tác giả còn dùng phương pháp so sánh để so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết phá sản NHTM so với các quy định pháp luật về vấn đề này ở một số nước trên thế giới. Trong Luận văn này tác giả cũng tiến hành phân tích và tổng hợp các quy định trong các văn bản pháp luật Việt Nam về phá sản cũng như các văn bản pháp luật có liên quan để đánh giá thực trạng, rút ra những hạn chế trong các quy định của pháp luật liên quan đến việc giải quyết NHTM lâm vào tình trạng phá sản. Trên cơ sở phân tích, so sánh, tổng hợp tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam. 5. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn là một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam. Về cơ bản, Luận văn này đã có những đóng góp mới quan trọng sau: - Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng các quy định pháp luật đặc thù trong việc giải quyết các NHTM ở Việt Nam lâm vào tình trạng phá sản; - Nghiên cứu, phân tích sự cần thiết của việc ban hành các quy định pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam; 7
  15. - Trình bày và phân tích một cách khoa học những quy phạm pháp luật thực định liên quan đến giải quyết phá sản TCTD nói chung, NHTM nói riêng ở Việt Nam. Thông qua việc đánh giá, phân tích này góp một cách nhìn có tính chất khái quát, toàn diện về những điểm đã đạt được và những hạn chế, thiếu sót cần phải sửa đổi bổ sung trong các quy định pháp luật quy định về thủ tục giải quyết phá sản NHTM ở Việt Nam, trên cơ sở đó kiến nghị phương hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về giải quyết phá sản NHTM. Những kiến nghị đưa ra trong luận văn là một tài liệu tham khảo có ý nghĩa trong việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam. Ngoài ra Luận văn còn có giá trị là tư liệu tốt cho sinh viên cũng như những người say mê nghiên cứu khoa học pháp lý tham khảo khi nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung luận văn gồm ba chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về xây dựng pháp luật về phá sản NHTM. Chương 2: Giải quyết phá sản NHTM theo quy định của pháp luật Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam. Chương 3: Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc xây dựng pháp luật về phá sản NHTM và một số kiến nghị nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam. 8
  16. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM PHÁ SẢN NHTM Phá sản không còn là một khái niệm xa lạ trên thế giới cũng như ở Việt Nam nữa bởi hiện nay phá sản đang ngày càng trở thành một hiện tượng phổ biến, đó là hệ quả tất yếu của quy luật cạnh tranh, nhất là trong thời đại mới khi cả thế giới đang từng bước hòa vào xu thế chung “khu vực hóa, toàn cầu hóa”. Danh từ phá sản bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng La tinh, có nghĩa là “sự khánh tận”. Khái niệm này dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi của một doanh nghiệp mà biểu hiện trực tiếp của sự mất cân đối ấy là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Trong thuật ngữ tiếng Anh, phá sản là “Bankruptcy”, trong từ điển Tiếng Việt thì “phá sản là tình trạng tài sản chẳng còn gì, và thường là vỡ nợ, do kinh doanh thua lỗ, thất bại” [23, trang 25]. Trong tiếng Việt, vỡ nợ, khánh tận, mất khả năng thanh toán hay phá sản được dùng để chỉ tình trạng không trả được nợ. Phương cách giải quyết vỡ nợ gắn liền với cách hành xử của người Việt về may rủi, “sa cơ lỡ vận” và cùng đường không trả được nợ. Theo định nghĩa của luật phá sản nhiều nước trên thế giới hiện nay thì phá sản là tình trạng doanh nghiệp (pháp nhân hay thể nhân) không có khả năng nộp thuế, không thanh toán công nợ đến hạn trong thời gian quy định. Tuy nhiên khái niệm phá sản hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và theo pháp luật của mỗi quốc gia khái niệm phá sản cũng được hiểu khác nhau, chưa đi đến thống nhất được thành một khái niệm chung nhất. Ở Việt Nam thuật ngữ phá sản xuất hiện khá sớm, ban đầu Bộ luật thương mại Sài Gòn (1972) sử dụng thuật ngữ “khánh tận”. Như đã nói ở 9
  17. trên, cụm từ này bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng La tinh, khái niệm này dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi. Đến năm 1990 thuật ngữ “phá sản” lần đầu tiên được ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty: Công ty, Doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh đến mức tại một thời điểm tổng số trị giá các tài sản còn lại của doanh nghiệp không đủ thanh toán tổng số các khoản nợ đến hạn, là doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản [13, Điều 17] - [ 14, Điều 24]. Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 ra đời ngày 30 tháng 12 năm 1993 quy định: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn” [15, Điều 2]. Khái niệm này được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 189/1994/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 1994 hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định số 189/1994/NĐ-CP thì doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản khi: thua lỗ trong 2 năm liên tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho người lao động theo thỏa ước lao động và hợp đồng lao động trong 3 tháng liên tiếp. Điều đó có nghĩa là tình trạng khó khăn về tài chính, mất khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp không còn là tình trạng nhất thời nữa. Sau 10 năm thực hiện Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 đã thể hiện những bất cập mà vấn đề đầu tiên đó là điều kiện xác định tình trạng phá sản của doanh nghiệp như trên là rất phức tạp, gây nhiều khó khăn cho việc mở thủ tục phá sản. Trên thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp thua lỗ trong hai năm liên tiếp, trong thời gian đó doanh nghiệp đã phải huy động mọi khả năng về tài chính, áp dụng các biện pháp cần thiết để phục hồi, vì vậy khi mở 10
  18. thủ tục giải quyết phá sản thì tài sản của doanh nghiệp không còn gì, thậm chí còn không đủ tiền để thanh toán các chi phí cần thiết cho thủ tục giải quyết phá sản. Với tình trạng này, việc mở thủ tục giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp gần như chỉ còn là để thanh lý chứ không phải là để phục hồi doanh nghiệp. Nhằm khắc phục những hạn chế của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 ngày 25 tháng 12 năm 2004 Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 10 đã ban hành Luật Phá sản 2004 (sau đây gọi chung là Luật Phá sản năm 2004), theo Điều 3 của luật này quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Như vậy, tiêu chí để xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã được quy định đơn giản hơn trước, dễ thực hiện vì không căn cứ vào thời gian thua lỗ, nguyên nhân của tình trạng thua lỗ, tạo điều kiện cho việc sớm mở thủ tục phá sản, cũng như tạo khả năng phục hồi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, điều này có ý nghĩa quan trọng, bởi nếu xác định tình trạng này muộn sẽ có rất ít cơ hội thành công, cho dù đó là thủ tục thanh toán hay thủ tục phục hồi. Cũng như các văn bản pháp luật trước đó Luật Phá sản năm 2004 cũng không đưa ra định nghĩa thế nào là phá sản mà chỉ đưa ra khái niệm doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Chúng ta cũng thấy rằng không phải bất cứ doanh nghiệp, hợp tác xã nào lâm vào tình trạng phá sản cũng đều dẫn tới sự phá sản, cho dù phá sản là một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường, nó không phải là một đặc trưng riêng của bất kỳ nền kinh tế nào. Tuy nhiên, không phải bao giờ và ở đâu tình trạng phá sản cũng như nhau, nhưng quy luật chung là ở đâu cạnh tranh càng trở nên gay gắt và sâu sắc thì ở đó phá sản cũng sẽ ngày càng phổ biến và nghiêm trọng hơn. 11
  19. Nguyên nhân dẫn đến phá sản hết sức đa dạng, đó có thể là do sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh; là do sự vi phạm chế độ, thể lệ quản lý; là do sự thiếu khả năng thích ứng với những biến động trên thị trường; ngoài ra, còn có nguyên nhân khách quan là do sự bất trắc và biến động khách quan trên thị trường cũng có thể gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Phá sản là một hiện tượng tất yếu, khách quan của nền kinh tế thị trường. Ở những mức độ và phạm vi khác nhau, phá sản luôn kéo theo những hậu quả kinh tế, xã hội nhất định. Phá sản gây ảnh hưởng rất nhiều mặt tới đời sống kinh tế, xã hội mà trực tiếp là ảnh hưởng tới lợi ích của các chủ nợ và những người làm công. Hậu quả đáng lưu ý nhất gắn liền với phá sản là vấn đề việc làm và thu nhập của người lao động. Chính vì vậy đây luôn là một trong những vấn đề thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về phá sản. Bằng những quy định cụ thể, pháp luật về phá sản xác định cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ lợi ích hợp pháp và hạn chế những thiệt thòi vật chất mà sự phá sản có thể gây ra cho người lao động. Phá sản ngoài những tác động tiêu cực tới đời sống kinh tế - xã hội thì nó còn có những ý nghĩa tích cực. Xét về mặt kinh tế, bản thân nó là một giải pháp rất hữu hiệu trong việc “cơ cấu lại” nền kinh tế, góp phần hình thành và duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng nghiệt ngã. Chính vì vậy chúng ta cũng không nên có thành kiến coi phá sản như là một “thảm họa”, một hiện tượng chỉ thuần túy đưa lại những hậu quả tiêu cực, những xáo trộn trong đời sống kinh tế - xã hội mà hãy coi đó là cơ hội để cho các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả rút ra khỏi thương trường một cách có trật tự. Như vậy phá sản là hiện tượng bình thường và cần thiết của nền kinh tế thị trường, còn pháp luật phá sản là sự can thiệp có ý thức của Nhà nước vào 12
  20. hiện tượng này nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của nó. Thông qua pháp luật phá sản, Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó đảm bảo được sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, xã hội. Pháp luật phá sản một số nước trên thế giới có đối tượng điều chỉnh tương đối rộng, theo đó bất kỳ pháp nhân hay thể nhân nếu lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán đều thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Phá sản. Nhưng ở Việt Nam Luật Phá sản năm 2004 đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh chỉ là các doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, nếu những đối tượng này lâm vào tình trạng phá sản. Đối với các doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu thì việc áp dụng thủ tục phá sản do Chính phủ quy định cụ thể. Sỡ dĩ Luật Phá sản năm 2004 quy định như vậy vì đây là những lĩnh vực đặc thù, các doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực này có ảnh hưởng rất lớn tới nhiều nghành, nhiều lĩnh vực khác và đặc biệt nó có thể gây ảnh hưởng tới sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thực hiện quy định trên của Luật Phá sản năm 2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11 tháng 07 năm 2006 để hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản; tiếp đến Chính phủ đã ban hành Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 03 tháng 11 năm 2008, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phá sản đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác; cho đến thời điểm này Chính phủ đã ban hành được Nghị định số 05/2010/NĐ-CP quy định việc áp dụng Luật Phá sản đối với các TCTD. 13
  21. Cũng như Luật Phá sản năm 2004, Nghị định số 05/2010/NĐ-CP không đưa ra khái niệm thế nào là phá sản TCTD mà chỉ quy định về điều kiện để xác định TCTD lâm vào tình trạng phá sản theo đó thì: “TCTD không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu, sau khi Ngân hàng nhà nước (NHNN) Việt Nam đã có văn bản không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán hoặc chấm dứt áp dụng kiểm soát đặc biệt thì được coi là lâm vào tình trạng phá sản”[6, Điều4]. Cho đến nay tác giả cũng chưa thấy một văn bản pháp luật hay một công trình nghiên cứu nào ở Việt Nam đưa ra khái niệm phá sản NHTM nói chung và TCTD nói riêng. Việc xây dựng khái niệm phá sản NHTM như thế nào là một vấn đề cần được nghiên cứu kỹ lưỡng. Theo chúng tôi khái niệm phá sản NHTM là một khái niệm không thể đồng nhất với khái niệm phá sản các doanh nghiệp thông thường khác vì NHTM có những đặc thù riêng trong tổ chức và hoạt động của mình. Sự không đồng nhất giữa khái niệm phá sản doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng thể hiện ở chỗ: - Thứ nhất: Đối với các NHTM hiệu quả kinh doanh không hoàn toàn là yếu tố duy nhất quyết định tình trạng khả năng thanh toán của nó. Không loại trừ những ngân hàng lớn hoạt động có lãi liên tục qua các năm cũng có thể bị lâm vào tình trạng tạm thời mất khả năng thanh toán và có thể dẫn đến phá sản. Không thanh toán những khoản nợ đến hạn có thể có nhiều lý do, ví dụ: Thua lỗ, ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ quốc tế, khu vực hoặc đơn giản có khi chỉ là những tin đồn nhảm làm cho người gửi tiền nao núng bất an và họ đồng loạt đến rút tiền mà ngân hàng không đáp ứng được hoặc tài sản hiện có của NHTM không có tính thanh khoản cao như các tài sản thế chấp là bất động sản hoặc ngân hàng dùng vốn ngắn hạn, không kỳ hạn đầu tư vào những khoản tín dụng dài hạn vượt quá tỷ lệ cho phép 14