Luận văn Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_xac_dinh_va_phan_chia_di_san_thua_ke_theo_phap_luat.pdf
Nội dung text: Luận văn Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN VĂN NGHĨA XÁC ĐỊNH VÀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn: PGS.TS Phùng Trung Tập Hà Nội-2015 0
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Phùng Trung Tập Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Học viên Phan Văn Nghĩa 1
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Thừa kế và di sản thừa kế là vấn đề mang tính kinh tế, mang tính xã hội truyền thống nhƣng cũng là vấn đề phức tạp về mặt pháp lý. Có thể nói, di sản thừa kế là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc làm phát sinh và thực hiện quan hệ dân sự về thừa kế. Đích cuối cùng của tranh chấp thừa kế chính là xác định đúng khối tài sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế theo đúng kỷ phần mà ngƣời thừa kế có quyền đƣợc hƣởng, việc xác định đúng di sản thừa kế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết các án kiện về thừa kế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, việc xác định di sản thừa kế- yếu tố quan trọng hàng đầu đối với việc giải quyết các án kiện về thừa kế còn nhiều khó khăn cả về mặt lý luận và trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng của nền kinh tế thị trƣờng và xây dụng Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay thì vấn đề tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng Vì vậy, vấn đề di sản thừa kế và xác định di sản thừa kế cũng đặt ra nhiều hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết. Tuy nhiên trong tiễn, do sự phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ của đời sống kinh tế - xã hội của đất nƣớc, nên pháp luật về thừa kế hiện hành vẫn chƣa thể trù liệu hết những trƣờng hợp, tình huống xảy ra trên thực tế. Còn một số quy định pháp luật về thừa kế chung chung, mang tính chất khung, chƣa chi tiết, chƣa rõ ràng, lại chƣa có văn bản hƣớng dẫn thi hành cho từng vấn đề cụ thể. Các tranh chấp về thừa kế có xu hƣớng ngày càng tăng trong thực tế với tính chất ngày càng phức tạp. Sự áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp Tòa án, sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế của các cá nhân là 2
- những yếu tố làm cho tranh chấp về thƣ̀ a kế , đăc̣ biêṭ là các tranh chấp liên quan đến viêc̣ xác điṇ h di sản thƣ̀ kế và cách phân chia dia sả n thƣ̀ a kế ngày một tăng, làm cho các vụ kiện tranh chấp về bị kéo dài, không dứt điểm. Hơn nữa, khi cơ chế thi ̣trƣờ ng đƣơc̣ mở ra , con ngƣờ i có điều kiêṇ lao đôṇ g tốt hơn vì vâỵ mà khối tài sản ho ̣làm ra trƣớ c khi chết là rất lớ n , đồng nghiã vớ i đó là quyền lơị của nhƣ̃ng ngƣờ i đƣơc̣ thƣ̀ a kế khối tài sản đó cũng bi ̣ảnh hƣở ng rất nhiều nếu nhƣ không xác điṇ h đúng di sản thƣ̀ a kế , ngay cả khi xác điṇ h đúng di sản thƣ̀ a kế mà cách phân chia di sản s ai thì cũng ảnh hƣở ng rất nhiều đến quyền lơị của ngƣờ i đƣơc̣ hƣở ng thƣ̀ a kế . Xác định di sản thừa kế và cách phân chia di sản thừa kế là hai mặt của một vấn đề, nó không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà thực tiễn c ũng rất quan trọng . Tuy vậy, nếu không hiểu rõ những quy định của pháp luật về xác định di sản thừa kế và cách phân chia di sản để nhận thức đƣợc quyền định đoạt tài sản của ngƣờ i để laị di sản cũng nhƣ cách phân chia di sản, thì việc để lại thừa kế lại là nguyên nhân làm bùng phát tranh chấp giữa những ngƣời thừa kế của họ về sau này. Việc định đoạt tài sản của ngƣời để laị thƣ̀ a kế không đúng phạm vi luật định có thể còn làm ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền lợi của một số ngƣời khác dẫn đến những tranh chấp nhƣ đã và đang xảy ra trong thực tế là một trong những nguyên nhân làm tổn hại đến truyền thống đạo đức đã có từ lâu đời của dân tộc. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: "Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là một đề tài có ý nghĩa quan trọng cấp bách cả về phƣơng diện lý luận cũng nhƣ thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Hiện nay, các đề tài nghiên cứu về thừa kế tƣơng đối nhiều và ở các cấp độ khác nhau nhƣ các khoá luận cử nhân, luận văn cao học và các luận án tiến sĩ. Ngoài ra, còn một số bài viết trong các tạp chí Luật học của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật của Bộ Tƣ Pháp, Tạp chí Toà án Nhân dân . 3
- + Các luận án tiến sĩ: - Phùng Trung Tập: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay”. Luận án nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Nội dung chủ yếu của luận án làm rõ các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ảnh hƣởng đến việc điều chỉnh pháp luật về diện và hàng thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam. - Phạm Văn Tuyết: “Thừa kế theo di chúc trong Bộ luật Dân sự Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu những vấn đề nhƣ: khái niệm về di chúc, quyền của ngƣời lập di chúc, các điều kiện có hiệu lực của di chúc. - Trần Thị Huệ: “Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam- những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Luận án tập trung nghiên cứu về những vấn đề nhƣ: cơ sở lý luận về di sản thừa kế, quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về di sản thừa kế, thanh toán và phân chia di sản thừa kế, thực tiễn áp dụng trong việc xác định, thanh toán, phân chia di sản thừa kế và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về di sản thừa kế. + Luận văn cao học: - Nguyễn Thị Vĩnh: “Thừa kế theo pháp luật trong BLDS ViệtNam”. Nội dung chủ yếu gồm các vấn đề sau: khái niệm thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế, thừa kế thế vị, các trƣờng hợp thừa kế theo phápluật. - Nguyễn Thị Hồng Bắc: “Một số vấn đề thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu có tính sơ lƣợc về lịch sử của thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam, một số nguyên tắc chủ yếu của thừa kế, các trƣờng hợp thừa kế theo pháp luật, căn cứ phân chia hàng thừa kế. + Các công trình nghiên cứu khác: - Viện Khoa học Pháp lý: “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS”. Các tập bình luận phân tích nội dung cơ bản của các qui đinh trong BLDS 1995 nói chung và các qui định về thừa kế nói riêng. 4
- - Viện Nghiên cứu về Nhà nƣớc và pháp luật: “Những vấn đề cơ bản về BLDSViệt Nam”. Đây là số tạp chí chuyên đề về BLDS (số 5/ 1995).Trong đó có chuyên đề về chế định thừa kế trong BLDS. Chuyên đề này nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản của điều chỉnh pháp luật về thừa kế, căn cứ khoa học để phân chia các hàng thừa kế. - Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, số tạp chí chuyên đề về BLDS (1996). Trong đó có bài viết về những điểm mới của di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS so với Pháp lệnh Thừa kế 1990. - Tòa án Nhân dân Tối cao: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp thừa kế tại Tòa án nhân dân”. Đây là công trình cấp bộ nghiên cứu về thừa kế, nội dung chủ yếu của đề tài là các vấn đề thực tiễn xét xử của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp về thừa kế. - Nguyễn Ngọc Điện: “Một số suy nghĩ về thừa kế trong BLDS”.Tác giả so sánh pháp luật về thừa kế của Việt Nam qua các thời kỳ phát triển và so với chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự 3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Mục đích của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các quy định của luật thực định về xác điṇ h di sản thƣ̀ a kế và cách phân chia di sản thƣ̀ a kế , Qua đó tìm ra những bất cập, thiếu sót của luật thực định để nêu phƣơng hƣớng hoàn thiện. Với mục đích trên, luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến xác điṇ h di sản thƣ̀ a kế và cách phân chia di sản thƣ̀ a kế làm cơ sở để nghiên cứu các phần tiếp theo của luận văn . Với nhiệm vụ này , tác giả xây dƣṇ g các khái niệm khoa học về di sản, di sản thừa kế, thừa kế, di tăṇ g v.v . Qua đó phân tích để tìm ra mối liên hệ biện chứng và sự khác nhau giữa chúng. 5
- - Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về viêc̣ xác điṇ h di sản và cách phân chia di sản. Với nhiệm vụ này, luận văn phân tích các quy định của BLDS, tìm hiểu mục đích, cơ sở của các điều luật nhằm đƣa ra cách hiểu điều luật mang tính khoa học và phù hợp với thực tiễn nhất. Luận văn cũng tìm ra những bất cập, thiếu khoa học, thiếu chính xác trong quy định của pháp luật về thừa kế làm tiêu đề cho hƣớng hoàn thiện các quy định của BLDS. - Đƣa ra một số kiến nghị đề xuất hƣớng sửa đổi , bổ sung các điều luật nhằm hoàn thiện quy định của BLDS về viêc̣ xác điṇ h di sản thƣ̀ a kế và cách phân chia di sản thừa kế Luận văn không nghiên cứu thừa kế nói chung mà chỉ tập trung làm rõ nội dung của viêc̣ xác điṇ h di sản thƣ̀ a kế , cách phân chia di sản trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề chính nhƣ : Điều kiện để tài sản trở thành di sản thƣ̀ a kế , quyền định đoạt và những hạn chế đối với quyền định đoạt của ngƣời lập di chúc, phƣơng thức xác định nghĩa vụ cho từng ngƣời thừa kế, phƣơng thức phân chia di sản theo di chúc. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Xuất phát từ các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ phân tích, so ánh, tổng hợp, qui nạp để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của các qui định chung về thừa kế. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài Kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp vào việc bổ sung và hoàn thiện những vấn đề lý luận của các quy định chung về thừa kế, tạo cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chế định về thừa kế trong Bộ Lụât Dân sự. Qua việc xây dựng các khái niệm khoa học và phân tích nội dung các quy định chung về thừa kế, giúp cho việc nghiên cứu giảng dạy pháp luật về thừa kế của Nhà nƣớc ta tốt hơn. Mặt khác, luận văn làm tài liệu tham khảo cho cơ quan xây dựng và áp dụng pháp luật 6
- CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DI SẢN THỪA KẾ 1. Khái niệm di sản: Theo từ điển Tiếng Việt, Di sản là một từ Hán Việt đƣợc ghép bởi hai từ “Di” và từ “Sản”, theo đó mỗi từ có những khía cạnh hiểu khác nhau. Đối với từ “Di” có thể có những cách hiểu sau: - “Di” là biểu hiện của sự chuyển động ra khỏi vị trí nhất định thông qua sự tác động nào đó lên một vật để lại dấu vết nhất định. - “Di” cũng đƣợc hiểu là dời đi nơi khác, đi chỗ khác, không còn ở vị trí ban đầu, nó là một biểu hiện của sự chuyển động từ vị trí này đến vị trí khác trong không gian và thời gian. - Ngoài ra “Di” con đƣợc hiểu là sự truyền lại, lƣu lại để lại cho ngƣời sau, thế hệ sau. Nhƣ vậy một cách chung nhất có thể hiểu “Di” là sự dịch chuyển sự vật, hiện tƣợng, làm thay đổi vị trí của chúng trong không gian và thời gian, sự thay đổi này luôn luôn thể hiện yếu tố trƣớc và sau, nó có thể diễn ra trong thời gian ngắn, nhƣng cũng có thể diễn ra trong cả một quá trình. Đối với từ “Sản” cũng có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: - Sinh ra, làm ra, tạo ra sản phẩm để sinh sống. - Cái do con ngƣời tạo ra, là kết quả tự nhiên của quá trình lao động sản xuất. - Là từ dùng để chỉ gia tài, sản nghiệp mang tính tổng thể của những tài sản trong một khối. Với các nghĩa này “sản” có thể hiểu là tài sản hoặc khối tài sản nằm trong sự chiếm hữu và sử dụng để mang lại lợi ích cho con ngƣời. Từ “di” và từ “sản” ghép lại đƣợc từ “di sản” với ý nghĩa chỉ của cải, gia tài, sản nghiệp của thời trƣớc để lại cho đời sau. Thuật ngữ “di sản” đƣợc sử các lĩnh vực văn hóa, kinh tế, pháp luật, khảo cổ học, nghệ thuật, thẩm mỹ 7
- Từ những phân tích trên đây có thể đƣa ra khái niệm “di sản” nhƣ sau: Di sản là toàn bộ tài sản có giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần cùng với các nghĩa vụ về tài sản được lưu truyền nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ thế hệ khác và được pháp luật bảo hộ. 1.1. Khái niệm về di sản thừa kế 1.1.1. Di sản thừa kế qua các hình thái kinh tế xã hội Di sản thừa kế là một thuật ngữ luật học đƣợc sử dụng từ khá lâu, dƣới thời kỳ chiếm hữu nô lệ, sản xuất nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo do đó đất đai là tài sản giá trị nhất, về sau do có sự ghi nhận của Nhà nƣớc về đặc quyền của giai cấp chủ nô, quan niệm tài sản gắn liền với sự chiếm hữu nô lệ, cùng với đất đai, thì con ngƣời cũng là tài sản, là hàng hóa đƣợc đem ra trao đổi, mua bán nhƣ một công cụ sản xuất. Chủ nô có quyền chiếm hữu toàn bộ tƣ liệu sản xuất và ngƣời nô lệ đồng nghĩa với điều này thì, đất đai, nô lệ và những vật dụng khác nhƣ trâu, bò, lợn, gà đều là di sản thừa kế mà chủ nô để lại cho con cháu của mình [22; tr.18]. Dƣới thời Phong kiến, nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chủ đạo, cho nên đất đai là tƣ liệu sản xuất vô cùng quan trọng, nhƣng những tƣ liệu sản xuất là đất đai này lại tập trung chủ yếu vào tay của giai cấp địa chủ, còn phần lớn nông dân không có đất hoặc có nhƣng rất ít không đủ để có thể sản xuất, sau này để có đất phục vụ sản xuất phần lớn nông dân phải thuê lại đất và đóng địa tô, nông dân có quyền sử dụng phần đất đã thuê và có thể để lại các quyền thuê đất từ thế hệ này sang thế hệ khác nhƣng tuyệt đối họ không có quyền bán hay định đoạt dƣới bất kỳ hình thức nào. Bản chất của chế độ phong kiến vẫn là sự bất bình đẳng giữa địa chủ và nông dân, giai cấp địa chủ thực hiện chính sách bóc lột sức lao động để duy trì quyền sở hữu đối với các loại tài sản mà đất đai giữ vai trò chủ đạo.Trong thời kỳ này có thể nói việc để lại di sản và nhận di sản thừa kế là cách để duy trì quyền sở hữu của giai cấp địa chủ phong kiến từ đời này sang đời khác. 8
- Trong giai đoạn phát triển Tƣ bản chủ nghĩa, do có sự phát triển mạnh mẽ, thay đổi cả về phƣơng thức sản xuất và tƣ liệu sản xuất từ đó quan niệm về tài sản cũng có sự chuyển biến rõ rệt. Do có sự cách mạng hóa về công cụ sản xuất và sự công nghiệp hóa của các ngành công nghiệp, nền sản xuất hàng hóa bắt đầu xuất hiện và của cải làm ra trong gia đoạn này nhiều hơn hẳn so với các thời kỳ trƣớc, năng suất lao động cao, giá trị hàng hóa ngày càng nhiều, đặc biệt là sự bất bình đẳng trong xã hội lúc này đã giảm của cải làm ra đƣợc phân chia theo năng suất lao động chính vì thế mà di sản thủa kế của ngƣời chết để lại có sự thay đổi tƣơng đối, di sản thừa kế là các tài sản có giá trị nhƣ nhà xƣởng, phƣơng tiện đi lại, cổ phần, cổ phiếu, các quyền tài sản [22; tr.35]. Đến thời kỳ Xã hội chủ nghĩa, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đƣợc thể hiên sự tƣơng hỗ giữa các thành phần kinh tế, xã hội không còn hiện tƣợng áp bức bóc lột. Cá nhân có quyền có tài sản dựa trên những căn cứ xác lập tài sản theo quy định của pháp luật. Cá nhân có quyền xác lập quyền sở hữu mà không phụ thuộc vào trình độ học vấn, địa vị xã hội đây là điểm khác biệt căn bản nhất so với các giai đoạn trƣớc đây, chính vì vậy mà quạn niệm về di sản thừa kế cũng hoàn toàn thay đổi, di sản thừa kế là toàn bộ tài sản, quyền tài sản mà cá nhân có trƣớc khi chết để lại cho các thế hệ sau. 1.1.2 . Sự phát triển của di sản thừa kế ở Việt Nam qua các thời kỳ Chế độ kinh tế luôn luôn là cơ sở để hình thành và phát triển chế độ pháp luật, sự thay đổi của chế độ kinh tế sớm hay muộn cũng dẫn đến sự thay đổi về pháp luật, bên cạnh đó pháp luật cũng ảnh hƣởng bởi các yếu tố tâm lý xã hội, truyền thống đạo đức, phong tục tập quán. Dƣới chế độ phong kiến, nông dân chiếm đa số nhƣng lại phụ thuộc vào một bộ phận nhỏ đó là tầng lớp địa chủ, thời kỳ này nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Do sự bóc lột của gia cấp địa chủ đa số ngƣời nông dân phải đi làm thuê, do sƣu cao thuế nặng mà dần dần nông dân mắc 9
- nợ, sản xuất không đủ nuôi sống các thành viên trong gia đình. Để duy trì cuộc sống của các thành viên trong gia đình thì chủ hộ phải đứng ra vay mƣợn, cầm cố. Khi ngƣời này chết, các thành viên trong gia đình phải gánh khoản nợ của ngƣời này, những ngƣời thừa kế lần lƣợt phải trả nợ, nếu không đủ tài sản thì phải trả bằng sức lao động bằng cách đi làm thuê cho các chủ nợ, có nhiều trƣờng hợp đi làm thuê hết đời vẫn chƣa đủ để trả cho ngƣời đã chết. Vì vậy việc trả nợ nhiều khi mang tính truyền kiếp từ đời này sang đời khác. Dân luật trung kỳ 1936 có đoạn quy định: Các con được hưởng di sản của cha mẹ thì phải liên đới trả cho hết các khoản nợ của cha mẹ. Người chánh thất, quả phụ hoặc người đích tôn thừa tự cũng thế. Những khoản nợ của người thứ nhất mệnh một để lại mà người ấy vì sự làm ích lợi cho gia đình, hay buôn bán phải vay thời cả người chồng, vợ cũng phải trả như vậy. Còn những người thừa kế khác thì chỉ phải trả các khoản nợ gánh vác các trách nhiệm của người mệnh một ngang với phần di sản mà mình được hưởng là cùng trừ khi nào từ chối di sản thì không phải gánh chịu [22; tr. 295- 296]. Nhƣ vậy có thể hiểu di sản mà cha mẹ để lại cho con thì những ngƣời con này phải gánh vác các món nợ của cha mẹ một cách liên đới và suốt đời, ngƣời chồng góa hay ngƣời vợ góa và cháu đức tôn mà ăn thừa tự cũng chịu nghĩa vụ nhƣ vậy. Các chủ nợ có quyền chọn một ngƣời thừa kế để yêu cầu ngƣời này trả nợ, những ngƣời thừa kế phải thực hiện việc trả nợ bằng cả tài sản riêng của mình mà không có quyền lựa chọn lấy tài sản là di sản để thanh toán trƣớc. Tuy nhiên đối với một số trƣờng hợp khác nhƣ ngƣời thừa kế không phải là con, cháu, vợ hay chồng của ngƣời chết thì những ngƣời này chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong phạm vi tài sản của ngƣời chết để lại mà họ đƣợc hƣởng, những ngƣời này có quyền khƣớc từ nhận di sản, đồng thời cũng không phải đem tài sản riêng của mình ra để trả nợ cho ngƣời chết. 10
- Cách mạng tháng tám thành công, nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã xóa toàn bộ tàn dƣ của chế độ phong kiến từ hệ thống chính trị đến phƣơng thức sản xuất, đồng thời xây dựng một chế độ dân chủ mới tiến bộ hơn- Chế độ dân chủ nhân dân. Là một chính phủ mới, phải đối măt muôn vàn khó khăn từ giặc đói, giặc dốt, đến giặc ngoại xâm. Tuy nhiên là một chính phủ mới tiến bộ nên mọi mặt của đời sống nhân dân đều đƣợc quan tâm, theo đó ngày 22/05/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lênh số 97SL sửa đổi một số quy định trong dân luật cũ. Sắc lệnh đã cụ thể hóa quyền bình đẳng của công dân trong quan hệ tài sản, trong đó có vấn đề thừa kế. Điều 10 Sắc lệnh quy đinh: “Con cháu, hoặc vợ chồng của người chết không bắt buộc phải nhận thừa kế của người ấy. Khi nhận thừa kế các chủ nợ của người chết cũng không có quyền đòi nợ quá số di sản để lại”. Đây là quy định mang tính tiến bộ đột phá, xóa bỏ những tàn dƣ của chế độ phong kiến về những món nợ “truyền kiếp”. Những quy định trong sắc lệnh này đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển pháp luật dân sự nƣớc ta, nó đã ghi nhận sự dân chủ và tiến bộ [22, tr.297]. Hiến pháp 1959 tại điều 14 quy định: “Nhà nƣớc chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tƣ liệu sản xuất khác của nông dân”, còn tại Hiến pháp năm 1980 tại điều 19 cũng ghi nhận: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, vùng biển và thềm lục địa đều thuộc sở hữu toàn dân. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng xác định nhân dân là chủ sở hữu toàn bộ diện tích đất đai của quốc gia, cá nhân không có quyền xác lập quyền sở hữu đối với đất đai, vì vậy đất đai theo quy định của pháp luật không đƣợc xác định là di sản thừa kế [21, tr.28]. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, một yêu cầu đặt ra là cần xây dựng các văn bản pháp luật về thừa kế đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tế khách quan, cần có một văn bản chuyên biệt quy định về vấn đề thừa kế do 11
- vậy ngày 30/08/1990, Hội đồng Nhà nƣớc đã ban hành Pháp lệnh thừa kế, đây là văn bản đƣợc coi là đầy đủ và có hệ thống nhất về lĩnh vực thừa kế trong giai đoạn đầu xây dựng nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Một bƣớc tiến quan trọng của Pháp lệnh này là loại bỏ nghĩa vụ tài sản trong di sản thừa kế vì vậy di sản thừa kế đƣợc mở rộng, không chỉ là đồ dùng hàng ngày, di sản bao gồm cả máy móc, nhà xƣởng, tiền, vàng cổ phần, cổ phiếu Tất cả tài sản thuộc quyền sở hữu của một ngƣời sẽ là di sản thừa kế khi ngƣời đó qua đời [21, tr. 301]. Khi bô luật dân sự 1995 và Bô luật dân sự 2005 ra đời cũng là lúc đất nƣớc ta thoát khỏi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp với quan điểm tiến bộ phù hợp với quy luật chung của nền kinh tế, các quy định của pháp luật, trong đó có các quy định về vấn đề thừa kế đã đáp ứng đƣợc về mặt kỹ thuật lập pháp, các quy định cụ thể hơn, chặt chẽ hơn. Tại khoản 2 điều 637 Bộ luật dân sự 1995 đã bổ sung quy định mới mang tính bƣớc ngoặt so với các văn bản quy định về di sản thừa kế trƣớc đây, đó là viêc quy định “ Quyền sử dụng đất cũng là di sản thừa kế” [13, Đ. 637]. 1.2 . Một số quan điểm về di sản thừa kế Quan điểm về di sản thừa kế từ luật cổ đại đến luật hiện đại luôn luôn có sự thay đổi đặc biệt là việc nhận thức về nghĩa vụ tài sản có phải là di sản thừa kế hay không? Ở Việt Nam hiện nay cũng nhƣ một số nƣớc trên thế giới vẫn chƣa đƣa ra một khái niệm cụ thể về di sản thừa kế, mà chỉ quy định mang tính liệt kê, di sản thừa kế bao gồm những tài sản gì, điều 634 Bộ luật dân sự Việt Nam quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác” [13, Đ. 634]. Hiện nay trong khoa học pháp lý còn tồn tại một số quan điểm nhƣ sau về di sản thừa kế: Quan điểm thứ nhất cho rằng di sản thừa kế bao gồm tài sản và các nghĩa vụ tài sản của ngƣời chết để lại. Những cá nhân theo quan điểm này cho 12
- rằng khi còn sống ngƣời để lại di sản thừa kế ngoài những tài sản mà họ có thì họ còn những nghĩa vụ tài sản, những nghĩa vụ này phát sinh từ những quan hệ dân sự nhƣ nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng vay, nghĩa vụ bồi thƣờng thiệt hại trong quan hệ bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng Khi họ chết đi họ sẽ để lại những nghĩa vụ trên đây và những nghĩa vụ đó phải đƣợc dịch chuyển sang cho những ngƣời thừa kế thực hiện nhƣ vậy sẽ đảm bảo đƣợc quyền lợi cho ngƣời có quyền đối với các nghĩa vụ mà ngƣời chết phải thực hiện nếu họ còn sống, đồng thời cũng đảm bảo cho các quan hệ dân sự đã phát sinh đƣợc thực hiện đúng theo cam kết cũng nhƣ theo quy định của pháp luật. Quan điểm này chỉ phù hợp khi và chỉ khi tài sản của ngƣời chết và tài sản của gia đình không tách bạch đƣợc, cũng nhƣ nợ của ngƣời chết và nợ của gia đình không phân biệt đƣợc bởi các khoản nợ phát sinh từ việc tham gia giao dịch của gia đình chứ không phải của riêng cá nhân. Có nghĩa là các khoản tài sản có của ngƣời chết cũng trở thành tài sản có của ngƣời thừa kế, nợ của ngƣời chết cũng là nợ của ngƣời thừa kế, không tính đến việc tài sản của ngƣời chết có đủ để thanh toán hay không. Nếu nhƣ thừa nhận quan điểm này, vô hình chung chúng ta thừa nhận từ thời điểm mở thừa kế hai ngƣời này là một đối với tƣ cách thanh toán nợ với các chủ thể mang quyền. Ngƣời thừa kế có nghĩa vụ trả nợ một cách vô hạn, mặc nhiên phải trả hết nợ mà không cần biết di sản của ngƣời chết để lại nhiều hơn hay ít hơn so với những nghĩa vụ phải thanh toán của họ. Trong khi đó khoản 2 Điều 107 Bộ luật dân sƣ 2005 quy định: “Giao dịch dân sự do người đại diện của chủ hộ xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình” [13, Đ. 107]. Cũng tại Điều 110 Bộ luật này còn quy định: “Hộ gia đình chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của hộ, nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình” [13, Đ. 110]. Từ những quy định này có thể thấy 13
- những ngƣời thừa kế có thể phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản mà ngƣời chết để lại bằng tài sản chung của gia đình và bằng cả tài sản riêng của mình khi những nghĩa vụ tài sản đó phát sinh từ những giao dịch dân sự do ngƣời đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của gia đình. Còn đối với những giao dịch nhân danh cá nhân mà buộc ngƣời thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ vô hạn thì chúng ta lại quay về “đêm trƣờng trung cổ” của chế độ phong kiến với luật tục “Phụ trái tử hoản” nhƣ vậy là không phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. [22. Tr. 30]. Quan điểm thứ hai cho rằng di sản thừa kế bao gồm tài sản và nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản của ngƣời chết để lại. Quan điểm này hiểu theo nghĩa rộng về tài sản bao gồm cả tài sản có và tài sản nợ, tài sản có và tài sản nợ ngang bằng nhau có nghĩa việc xác định di sản của ngƣời chết để lại thừa kế không chỉ là tài sản mà còn bao gồm cả cả nghĩa vụ cũng đƣợc xác định ngang bằng trong khối di sản mà họ để lại, thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản ngƣời chết để lại. Ở quan điểm này có chút khác biệt so với quan điểm thứ nhất vì ngƣời thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản đƣợc hƣởng mà không phải dùng tài sản riêng của mình để thực hiện các nghĩa vụ của ngƣời chết để lại. Tuy nhiên cả hai quan điểm này cho chúng ta thấy các tác giả vẫn có xu hƣớng xác định nghĩa vụ tài sản mà ngƣời chết để lại là di sản thừa kế. Quan điểm thứ ba cho rằng di sản thừa kế chỉ bao gồm các tài sản của ngƣời chết để lại mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản. Theo quan điểm này thì khi con ngƣời còn sống, họ cần đến tài sản để sản xuất và sinh sống, bên cạnh đó họ cũng có những nghĩa vụ đối với những chủ thể nhất định, những nghĩa vụ này có thể phát sinh từ giao dịch dân sự, từ hành vi gây thiệt hại ngoài hơp đồng, từ các quan hệ pháp luật khác chƣa thể thực hiện thể thực hiện thì chủ thể mang nghĩa vụ đó chết, toàn bộ tài sản và những nghĩa vụ tài 14
- sản đó để lại là điều dễ hiểu. Tác giả của đề tài này hoàn toàn đồng ý với quan điểm thứ ba này bởi những yếu tố sau: Về ngữ nghĩa thì thừa kế là thừa hƣởng gia tài của ngƣời đi trƣớc một cách kế tục, thừa kế là hƣởng của ngƣời chết để lại, một khi đã là thừa hƣởng thì phải hiểu theo nghĩa đƣợc lợi những gì chứ không thể tƣ duy đƣợc hƣởng nghĩa vụ tài sản hay hƣởng tài sản nợ của ông bà, cha mẹ để lại nếu di sản để lại chỉ là những nghĩa vụ tài sản [22, tr. 32-33]. Về phƣơng diện kinh tế và đạo đức, theo truyền thống đạo đức của ngƣời Việt Nam, cha mẹ sinh con thì đồng nghĩa cũng có nghĩa vụ chăm sóc nuôi dƣỡng và giáo dục con cái của mình. Ngƣợc lại con cháu lại phải có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dƣỡng ông bà cha mẹ. Thừa hƣởng tài sản để tạo lập cuộc sống, phát triển gia sản và tạo tiền đề để thực hiện bổn phận của mình đối với thế hệ tiếp sau. Ở Việt Nam, thông thƣờng một gia đình thƣờng có nhiều thế hệ sống chung một nhà, để đảm bảo việc kế nghiệp gia sản thì việc dịch chuyển tài sản của ngƣời chết cho ngƣời còn sống trong gia đình là cần thiết. Chính vì vậy pháp luật thừa kế Việt Nam đã quy định cơ sở cho việc thừa kế là dựa trên quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ chăm sóc nuôi dƣỡng. Về phƣơng diện pháp lý nếu quan niệm di sản thừa kế mà ngƣời chết để lại không bao gồm tài sản, quyền tài sản mà còn bao gồm cả các nghĩa vụ tài sản của ngƣời chết để lại thì vấn đề thanh toán và phân chia di sản thừa kế đƣợc hiểu nhƣ thế nào? Theo quy định tại điều 637 BLDS 2005 thì việc thực hiện nghĩa vụ tài sản thuộc về những ngƣời hƣởng di sản thừa kế: “Những người hưởng thừa kế thì có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại” [13, Đ. 637]. Cần hiểu quy định này theo hƣớng ngƣời hƣởng thừa kế thực hiện nghĩa vụ do ngƣời chết để lại không phải với tƣ cách là chủ thế mới trong một quan hệ nghĩa vụ, có nghĩa là họ 15
- không thay vị trí chủ thể. Họ thực hiện nghĩa vụ tài sản bằng tài sản của ngƣời chết để lại, họ trả nợ vì họ tiếp nhận tài sản của ngƣời chết để lại. Sau khi thanh toán toàn bộ nghĩa vụ nghĩa vụ của ngƣời chết để lại và những chi phí liên quan đến di sản thừa kế thì khi đó không còn tài sản để chia thừa kế và nhƣ vậy thì không còn tài sản để chia thừa kế. Hơn nữa tại điều 642 BLDS năm 2005 thì ngƣời thừa kế có quyền nhận hoặc từ chối tiếp nhận di sản. Nếu nhận di sản thì phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho ngƣời để lại di sản. Nếu từ chối nhận di sản, đồng nghĩa với việc họ từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản của ngƣời chết vì đó không phải là món nợ của họ mà là món nợ của ngƣời chết để lại. Điều này thừa nhận một điều rằng ngƣời thừa kế không buộc phải nhận di sản để rồi phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của ngƣời chết để lại. Nếu quan niệm nghĩa vụ tài sản là di sản thừa kế thì trong mọi trƣờng hợp chủ nợ đều có quyền yêu cầu ngƣời thừa kế thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Mặt khác nghĩa vụ tài sản của ngƣời chết thực sự là món nợ của ngƣời đó lúc còn sống phát sinh từ những hành vi pháp lý của họ. Vì thế phải coi nghĩa vụ đó là của chính bản thân ngƣời chết, phải dùng di sản của ngƣời chết để thanh toán. Nếu sau khi đã thanh toán nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác liên quan đến di sản mà vẫn còn di sản để chia cho những ngƣời có quyền hƣởng di sản, phần còn lại này mới gọi là di sản thừa kế. Nếu sau khi thanh toán mà không còn di sản thì coi nhƣ ngƣời chết không để lại di sản. Nhƣ vậy di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ tài sản mà chỉ gồm tài sản, các quyền tài sản đƣợc xác lập trên những căn cứ luật định [21, tr. 33]. Liên quan đến vấn di sản và sự dịch chuyển di sản, cũng cần xem xét đến thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế, sau khi mở thừa kế thì có phát sinh quyền sở hữu đối với tài sản của ngƣời chết nữa hay không? Kể từ thời điểm mở thừa kế, những ngƣời hƣởng thừa kế có quyền hƣởng di sản thừa kế, thời điểm này những ngƣời thừa kế chƣa có quyền sở 16
- hữu đối với di sản thừa kế. Mặc dù về nguyên tắc ngƣời có quyền hƣởng di sản có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế bất cứ lúc nào kể từ thời điểm mở thừa kế nhƣng việc chia thừa kế không thể diễn ra ngay sau khi ngƣời có tài sản chết bởi lẽ trong gia đình khi có một ngƣời qua đời thì việc làm đầu tiên là lo mai táng cho ngƣời đó, việc này phải diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định theo phong tục tập quán của từng địa phƣơng nhƣ: đăng ký báo tử, truy điệu, phúng viếng trong lúc gia đình có việc tang nhƣ vậy thì không ai có thể có thời gian để thực hiện việc phân chia thừa kế. Để thực hiện việc phân chia thừa kế những ngƣời thừa kế sau khi lo mai táng cho ngƣời chết họ cần có sự bàn bạc, thỏa thuận và thống nhất trong việc quản lý di sản, cách thức phân chia [22, tr. 298-230]. Nhƣ vậy quyền hƣởng di sản và thực hiện quyền hƣởng di sản đƣợc diễn ra ở hai thời điểm khác nhau. Chỉ trong phạm vi rất hẹp thì một ngƣời thừa kế mới có thể thực hiện cả hai quyền trên tại một thời điểm nhất định trong trƣờng hợp họ nắm giữ, chiếm hữu một cách hợp pháp tài sản của ngƣời chết để lại. Vì vậy không thể xác lập quyền sở hữu đối với tài sản thừa kế của ngƣời hƣởng di sản từ thời điểm mở thừa kế. Xác định thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với đối với di sản thừa kế có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tế. Cái chết của một con ngƣời không kéo theo sự chấm dứt tất cả các quan hệ pháp luật mà họ tham gia, đặc biệt là các quan hệ tài sản. Nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ thể khác, pháp luật đã thừa nhận việc bảo lƣu tƣ cách chủ thể của ngƣời chết trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trƣớc các chủ thể khác và những ngƣời thừa kế thực hiện các quyền và nghĩa vụ bằng chính tài sản của ngƣời đã chết [22, tr. 57]. Một vấn đề quan trọng liên quan đến việc xác định di sản thừa kế là những tài sản phát sinh sau khi ngƣời có tài sản chết có thuộc di sản thừa kế không? Về nguyên tắc di sản thừa kế đƣợc xác định tại thời điểm mở thừa kế. 17