Luận văn Văn hóa Nhân quyền – Nhận thức cơ bản và các giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Văn hóa Nhân quyền – Nhận thức cơ bản và các giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_van_hoa_nhan_quyen_nhan_thuc_co_ban_va_cac_giai_pha.pdf
Nội dung text: Luận văn Văn hóa Nhân quyền – Nhận thức cơ bản và các giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HÀ QUANG PHÚC V¡N HO¸ NH¢N QUYÒN - NHËN THøC C¥ B¶N Vµ C¸C GI¶I PH¸P X¢Y DùNG V¡N HO¸ NH¢N QUYÒN ë VIÖT NAM HIÖN NAY Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ HÀ NỘI - 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN HÀ QUANG PHÚC
- MỤC LỤC Trang Trang phu ̣bìa Lờ i cam đoan Mục lục Danh muc̣ các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VĂN HÓA NHÂN QUYỀN 7 1.1. Nhận thức chung về Nhân quyền – Quyền con người 7 1.1.1. Khái niệm về quyền con người 7 1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của quyền con người 8 1.2. Nhận thức chung về văn hóa nhân quyền 12 1.2.1. Nhận thức chung về văn hóa 12 1.2.2. Nhận thức chung về văn hóa pháp luật 18 1.2.3. Nhận thức chung về văn hóa nhân quyền 23 1.2.4. Cách tiếp cận quyền con người trong văn hoá phương Đông và phương Tây 29 1.2.5. Các yếu tố tác động đến văn hóa nhân quyền 33 1.2.6. Văn hóa và quyền phát triển 38 Kết luận chương 1 39 Chương 2: VĂN HÓA NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ VÀ HIỆN NAY 40 2.1 Đặc trưng cơ bản của văn hóa nhân quyền ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử và hiện nay 40
- 2.1.1. Sự đa dạng và thống nhất về văn hóa của các dân tộc ở Việt Nam 40 2.1.2. Những nét đặc trưng cơ bản về văn hóa nhân quyền ở Việt Nam thời kỳ phong kiến 43 2.1.3. Những nét đặc trưng cơ bản về văn hóa nhân quyền ở Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc 50 2.1.4. Những nét đặc trưng cơ bản về văn hóa nhân quyền ở Việt Nam thời kỳ từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước Đổi mới 53 2.2. Văn hóa nhân quyền ở Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế 57 2.2.1. Những thành tựu chủ yếu đã đạt được 57 2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân 78 Kết luận chương 2 85 Chương 3: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 86 3.1. Những quan điểm cơ bản về xây dựng văn hóa nhân quyền ở Việt Nam hiện nay 86 3.1.1. Xây dựng văn hóa nhân quyền nhằm bảo vệ, bảo đảm, thúc đẩy quyền con người và phát triển bền vững 86 3.1.2. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa nhân quyền trong bối cảnh hội nhập, xây dựng nhà nước pháp quyền 88 3.1.3. Xây dựng nền văn hóa nhân quyền đáp ứng các chuẩn mực pháp luật quốc tế và giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức dân tộc 90 3.2. Các giải pháp xây dựng nền văn hóa nhân quyền tại Việt Nam 94 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về quyền con người và cơ chế thực hiện quyền con người đảm bảo sự tương thích với pháp luật quốc tế 94 3.2.2. Tổ chức thực hiện giáo dục quyền con người, xây dựng văn hóa quyền con người 96
- 3.2.3. Triển khai thực hiện Hiến pháp 2013 về quyền con người 105 3.2.4. Thực hiện cải cách hành chính và cải cách tư pháp 107 3.2.5. Thúc đẩy đa dạng văn hóa dựa trên các quyền con người cơ bản và lòng khoan dung 109 3.2.6. Phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, và giảm nghèo bền vững 110 3.2.7. Phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí 114 Kết luận chương 3 118 KẾT LUẬN 119 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 121
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CEDAW : Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ ICCPR : Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị ICESCR : Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa ILO : Tổ chức Lao động quốc tế UDHR : Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, 1948 UNESCO : Tổ chức Giáo dục, khoa học và Văn hóa Liên Hợp quốc XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 1.1: Bảng khái quát về các cách phân loại quyền con người đã được đề cập ở trên 11 Bảng 2.1: Hiến pháp và các Bộ Luật 66 Bảng 2.2: Một số luật Nhà nước ta đã ban hành 67 Bảng 2.3: Một số luật Nhà nước đang xây dựng 67
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quyền con người là những giá trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương pháp chung của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con người. Quyền con người hiện đang trở thành một hệ thống các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế có tính chất bắt buộc với mọi quốc gia. Việc tôn trọng, bảo vệ các quyền con người hiện đã trở thành thước đo căn bản về trình độ văn minh của các nước và các dân tộc trên thế giới. Thúc đẩy, bảo vệ quyền con người, cả trong pháp luật và thực tiễn, là nghĩa vụ và cần sự đóng góp của tất cả các tầng lớp xã hội, các dân tộc, trên toàn thế giới. Để đạt được những mục tiêu cao cả trong lĩnh vực này, nhân loại đang hướng tới xây dựng một nền văn hóa nhân quyền ở mọi cấp độ. Trong đó có sự kết hợp hài hòa những đặc thù và giá trị truyền thống tốt đẹp cùng với những tinh hoa của các dân tộc với các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế được thừa nhận chung về nhân phẩm và giá trị của con người. Về bản chất một nền văn hóa nhân quyền là nhằm mục tiêu đưa những chuẩn mực nhân quyền thực sự thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng cho sự phát triển của từng dân tộc, từng quốc gia và toàn nhân loại. Văn hóa nhân quyền là một phạm trù vô cùng rộng lớn trong đời sống văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội của tất cả các quốc gia, các dân tộc và của toàn nhân loại. Nó chứa đựng những nội dung thấm đậm tính nhân văn sâu sắc và luôn hướng tới lý tưởng: Chân, Thiện, Mỹ. Văn hóa nhân quyền ngày càng được phát triển đa dạng, phong phú và rất mạnh mẽ cùng với sự tiến bộ vượt bậc của nền văn minh nhân loại. 1
- Ở Việt Nam, cuộc cách mạng do Đảng Cộng Sản mà người đứng đầu là Hồ Chí Minh lãnh đạo từ đầu thế kỷ XX đến nay không có mục đích gì khác hơn là giành, giữ và phát triển các quyền con người cho toàn dân tộc và cho mỗi công dân Việt Nam. Trong thực tế, quan tâm và thúc đẩy các quyền con người luôn là ưu tiên của Đảng và Nhà nước Việt Nam, được phản ánh nhất quán và xuyên suốt trong mọi chính sách, luật pháp của Nhà nước Việt Nam từ trước đến nay. Tuy vậy ở Việt Nam hiện nay, văn hóa nhân quyền còn là một khái niệm mới, đang từng bước được nhận thức và áp dụng. Do đó việc nghiên cứu về văn hóa nhân quyền cũng còn là một lĩnh vực mới mẻ, ít có các công trình nghiên cứu, đánh giá một cách có hệ thống, toàn diện và sâu sắc về vấn đề này. Việt Nam lại là quốc gia có nhiều dân tộc cùng sinh sống. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên nét đẹp truyền thống trong sự đa dạng phong phú của nền văn hóa Việt Nam. Chính sự khác biệt về văn hóa, sự khác biệt về truyền thống, phong tục, tập quán và lối sống dẫn tới những nhận thức và áp dụng khác nhau về các quyền con người được thừa nhận chung. Làm thế nào để dung hòa và định hướng những giá trị của tất cả mọi nền văn hóa của các dân tộc vào một mục tiêu chung là bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người và để xây dựng một nền văn hóa nhân quyền Việt Nam phát triển chung trong dòng chảy của nền văn hóa nhân quyền tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã và đang là một vấn đề đầy thách thức. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, tác giả đã chọn chủ đề: ‘‘Văn hóa Nhân quyền – Nhận thức cơ bản và các giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ, với mong muốn được góp phần làm sáng tỏ thêm bản chất, những vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa nhân quyền trong công cuộc xây dựng đất nước. Trên cơ sở đó, nhằm bổ 2
- sung, hoàn thiện và phát triển các quan điểm chính sách đã có, đề xuất giải pháp thực thi việc bảo đảm xây dựng một nền Văn hóa Nhân quyền ở Việt Nam xứng tầm với sự phát triển của Nhà nước pháp quyền Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Có thể nói, vấn đề „„Văn hóa Nhân quyền” còn là khái niệm khá mới mẻ trong lịch sử phát triển của nhân loại nói chung. Không những vậy, đây còn là vấn đề rất rộng lớn, bao trùm, và đang trở thành một trong những vấn đề cấp thiết trong việc nghiên cứu và thực tiễn, không chỉ mang tính lý luận mà còn đòi hỏi cả trong thực tiễn trên phương diện pháp lý. Văn hóa nhân quyền là vấn đề mới ở Việt Nam, vì vậy tới nay, rất ít công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống toàn diện, sâu sắc về vấn đề này ở nước ta. Tuy vậy, đã có một số công trình, tác phẩm, hội thảo nghiên cứu về Văn hóa nhân quyền ở Việt Nam. Tiêu biểu như: bài viết của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế với nhan đề “Quyền con người, đạo đức và pháp luật” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật -Viện Nhà nước và Pháp luật, số 3/2012; bài viết về “Văn hóa pháp lý – dòng riêng giữa nguồn chung của Văn hóa dân tộc Việt Nam” trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số 10/2004. Các bài viết với nội dung chủ đạo về văn hóa, đạo đức, pháp luật, nhân quyền là các yếu tố thiết yếu trong đời sống cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội. Các yếu tố có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Cuốn “Giáo trình về Lý luận và pháp luật về quyền con người” do GS.TS Nguyễn Đăng Dung, TS Vũ Công Giao và Ths. Lã Khánh Tùng đồng chủ biên; Cuốn “Luật Nhân quyền quốc tế - những vấn đề cơ bản” do GS.TS Nguyễn Đăng Dung – GS.TS Phạm Hồng Thái - TS. Vũ Công Giao – ThS. Lã Khánh Tùng đồng chủ biên đã thể hiện những nội dung 3
- cốt lõi về nhân quyền; Cuốn “Văn hóa pháp luật - những vấn đề lý luận cơ bản và ứng dụng chuyên ngành” do GS. TS Hoàng Thị Kim Quế, TS, Ngô Huy Cương đồng chủ biên. Bài viết của TS.Vũ Thị Minh Chi về “Văn hóa nhân quyền” đăng trên Tạp chí nghiên cứu con người số 2 (29), 2007. Hai cuốn sách của PGS.TS Nguyễn Thanh Tuấn là: “Văn hóa Nhân quyền trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay” xuất bản năm 2012 và “Đa dạng văn hóa và quyền văn hóa hiện nay ở Việt Nam” xuất bản năm 2009. Tác phẩm “Phát triển Văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020” của PGS.TS Phạm Duy Đức. Bài viết “Giáo dục quyền con người góp phần xây dựng văn hóa pháp luật trong nhà nước pháp quyền” của GS.TS Nguyễn Đăng Dung. Đề tài nghiên cứu cấp bộ năm 2011 – 2012 về “Một số vấn đề cơ bản của quyền văn hóa, xã hội và điều kiện đảm bảo thực thi ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 vì mục tiêu phát triển con người” do TS.Vũ Minh Chi làm chủ nhiệm đề tài (Viện nghiên cứu Con người - Viện Khoa học xã hội Việt Nam). Bài viết về “Quan niệm về nền văn hóa đa dạng mà thống nhất trong thời đại văn hóa toàn cầu” của PGS.TS Thành Duy (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) trên Tạp chí Nghiên cứu con người số 3(48) 2010 – Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện nghiên cứu con người. Những công trình nghiên cứu trên đã đóng góp cho nền văn hóa nhân quyền còn non trẻ của Việt Nam phát triển. Song chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về vấn đề văn hóa nhân quyền. Do đó, để có một cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về văn hóa nhân quyền vẫn là một là yêu cầu cấp thiết đặt ra trong bối cảnh thực tiễn của đất nước ta trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền phù hợp với xu thế thời đại. Chính vì những lý do trên, đề tài „„Văn hóa Nhân quyền – Nhận thức cơ bản và các giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam hiện nay” sẽ đóng góp về lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng nền văn hóa nhân quyền ở Việt Nam ngày một phát triển bền vững. 4
- 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích: của việc nghiên cứu là đưa ra được một cái nhìn có tính hệ thống, khoa học, sâu sắc và toàn diện về văn hóa nhân quyền, làm rõ thêm những nội hàm của văn hóa nhân quyền tại Việt Nam, cùng tiến trình phát triển của nó qua các thời kỳ, từ thời kỳ phong kiến, Pháp thuộc, giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến ngày thống nhất đất nước và đặc biệt là giai đoạn hiện nay. - Nghiên cứu, làm rõ thêm về nhận thức lý luận, pháp luật thế giới về văn hóa nhân quyền; làm sáng tỏ thêm quan điểm, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước ta liên quan đến văn hóa nhân quyền - Nghiên cứu, đánh giá đúng bản chất thành tựu và thực trạng về văn hóa nhân quyền tại Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp đảm bảo cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa nhân quyền Việt Nam lên một tầm cao mới. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: trong khuôn khổ của một luận văn Thạc sỹ, nội dung nghiên cứu của đề tài tập trung vào vấn đề văn hóa nhân quyền ở nước ta. Từ những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa. Luận văn sẽ chứng minh rõ việc thúc đẩy văn hóa nhân quyền ở Việt Nam là một tất yếu khách quan. Từ đó đề xuất những giải pháp để xây dựng văn hóa nhân quyền tại Việt Nam ngày một phát triển. 4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta cùng các tư tưởng, quan điểm về luật học tiến bộ và hiện đại trên thế giới. Phương pháp luận được sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra trong luận văn là: phương pháp biện chứng, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh. 5
- 5. Những nét mới của Luận văn Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu toàn diện có hệ thống về văn hóa nhân quyền góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm lý luận cũng như thực tiễn về văn hóa nhân quyền. Chứng minh, khẳng định việc xây dựng, thúc đẩy văn hóa nhân quyền ở Việt Nam là một yêu cầu tất yếu khách quan. 6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận về văn hóa nhân quyền; giúp người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về văn hóa nhân quyền tại nước ta. Luận văn cũng nêu lên những thành tựu đã đạt được cùng thực trạng, tồn tại và thách thức trong việc thực hiện và bảo đảm văn hóa nhân quyền ở Việt Nam; từ đó nêu ra một số kiến nghị giải pháp cơ bản về thực hiện Văn hóa nhân quyền trong thời kỳ mới, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam ngày càng phát triển vững mạnh phù hợp với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn này gồm phần mở đầu, ba chương và phần kết luận. Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về văn hóa nhân quyền Chương 2. Văn hóa nhân quyền ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử và hiện nay Chương 3. Quan điểm cơ bản và giải pháp xây dựng văn hóa nhân quyền ở Việt Nam hiện nay 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VĂN HÓA NHÂN QUYỀN 1.1. Nhận thức chung về Nhân quyền – Quyền con người 1.1 .1. Khái niệm về quyền con người Quyền con người là những giá trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương pháp chung của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con người. Có thể nói khái niệm về quyền con người là một khái niệm phức tạp và rộng lớn, do đó có nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau về quyền con người. Theo tài liệu của Liên Hợp Quốc thì đến nay, có khoảng 50 định nghĩa về quyền con người. Mỗi định nghĩa đều tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định. Định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp quốc thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu, theo đó: Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người. Nhân quyền còn được định nghĩa một cách khái quát là quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội, ; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người [8, tr.37]. Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “nhân quyền là quyền căn bản 7
- của con người, như quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, v v ” [34, tr.688]. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý thì “Quyền con người là quyền của thành viên trong xã hội loài người – quyền của tất cả mọi người. Đó là nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích và năng lực của con người được thể chế hóa (ghi nhận) trong pháp luật quốc tế và quốc gia” [36, tr.648 -649]. Các định nghĩa không giống nhau hoàn toàn, nhưng xét chung quyền con người thường được hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [8, tr.38]. Như vậy, cho dù nhìn ở góc độ nào thì quyền con người cũng luôn được xác định là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Đó là những giá trị kết tinh từ nền văn hóa của toàn nhân loại được áp dụng cho tất cả mọi người. Chính nhờ những chuẩn mực này mà mọi người trên thế giới mới được bảo vệ nhân phẩm và có điều kiện phát triển đầy đủ năng lực cá nhân với tư cách một con người. 1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của quyền con người 1.1.2.1. Nguồn gốc về quyền con người Về nguồn gốc về quyền con người, có hai trường phái cơ bản đưa ra hai quan điểm trái ngược nhau. Trường phái thứ nhất là những người theo học thuyết về quyền tự nhiên và trường phái thứ hai là những người theo học thuyết về quyền pháp lý. Quan điểm của trường phái quyền tự nhiên cho rằng: Quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người, do đó, không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào. Vì vậy, không một chủ thể nào, kể cả các nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con người [8, tr.39]. 8
- Còn học thuyết về các quyền pháp lý cho rằng: Các quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác định, pháp điển hoá thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hoá. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp lý, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, thời gian hiệu lực của quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá của các xã hội [8, tr.39]. Ở đây, trong khi các quyền tự nhiên có tính đồng nhất trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm thì các quyền pháp lý mang tính chất khác biệt tương đối về mặt văn hoá và chính trị. Cho đến nay, cuộc tranh luận về nguồn gốc của quyền con người vẫn còn tiếp tục. Như hầu hết các văn kiện pháp luật của các quốc gia đều thể hiện các quyền con người là các quyền pháp lý, thì trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên Hợp quốc, một số văn kiện pháp luật và văn kiện chính trị pháp lý ở một số quốc gia, quyền con người được khẳng định một cách rõ ràng là các quyền tự nhiên, vốn có và không thể tước bỏ được của mọi cá nhân. 1.1.2.2. Tính chất của quyền con người: Theo nhận thức của cộng đồng quốc tế, quyền con người có các tính chất cơ bản là: tính phổ biến, tính không thể tước bỏ, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, cụ thể như sau: * Tính phổ biến (universal): thể hiện ở chỗ quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì như giới tính, chủng tộc, tôn giáo, * Tính không thể chuyển nhượng (inalienable): thể hiện ở chỗ các quyền con người không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tuỳ tiện bởi bất 9
- cứ chủ thể nào, kể cả bởi các nhà nước. Vấn đề “tùy tiện” là giới hạn của việc tước bỏ và hạn chế, tức là ở đó nhân quyền có thể bị tước bỏ, chẳng hạn như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị tước quyền tự do theo pháp luật. * Tính không thể phân chia (indivisible): thể hiện ở chỗ các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào, bởi lẽ việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. * Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent): thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác, và ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác. 1.1.2.3. Phân loại quyền con người: Do quyền con người có phạm vi và nội dung rộng lớn nên để phục vụ cho việc nghiên cứu và thực thi, dựa trên những tiêu chí khác nhau, có thể chia quyền con người thành những nhóm, dạng khác nhau. * Xét theo lĩnh vực điều chỉnh: có thể phân thành nhóm quyền chính trị, dân sự và nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hoá. Đây cũng là cách phân chia được sử dụng khi soạn thảo hai Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người của Liên Hợp quốc. Trong nghiên cứu, ta cũng có thể chia ra thành năm nhóm nhỏ hơn, gồm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá. Tuy vậy, chúng ta cũng cần phải lưu ý sự phân chia các quyền con người thành các nhóm chỉ mang tính chất tương đối, bởi một số quyền có thể được xếp vào nhiều nhóm. * Xét theo chủ thể của quyền: có thể phân thành quyền của cá nhân và quyền của nhóm. Ta thấy chủ thể chính của các quyền con người là các cá nhân, nhưng bên cạnh đó chủ thể của quyền con người cũng bao gồm các nhóm xã hội 10
- nhất định. Bởi thể xét theo chủ thể chúng ta có quyền của cá nhân và quyền của nhóm. Trong đó, quyền cá nhân là các quyền thuộc về mỗi cá nhân, không phụ thuộc vào việc họ là thành viên của nhóm xã hội nào, và các cá nhân thụ hưởng các quyền phụ thuộc vào ý chí của mỗi cá nhân. Còn quyền của nhóm là những quyền đặc thù của chung một tập thể hay một nhóm xã hội nhất định. Và để được hưởng các quyền này, cần phải là thành viên của nhóm hay tập thể đó, và đôi khi phải được thực hiện chung với các thành viên khác của nhóm, ví dụ như quyền bảo tồn chữ viết, trang phục truyền thống của dân tộc bản địa, * Xét theo một số tiêu chí khác: Ngoài hai tiêu chí kể trên, quyền con người còn được phân loại theo một số tiêu chí khác, như: quyền cụ thể và quyền hàm chứa, quyền thụ động và quyền chủ động, quyền tuyệt đối và quyền có điều kiện, v v Mọi sự phân loại đều không làm mất đi những đặc trưng về tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không thể phân chia và tính liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau của nhân quyền. Bảng 1.1: Bảng khái quát về các cách phân loại quyền con người đã được đề cập ở trên TT Tiêu chí phân loại Các loại quyền 1 Lĩnh vực Quyền chính trị, Quyền kinh tế, Quyền dân sự Quyền xã hội, Quyền văn hóa 2 Chủ thể Quyền cá nhân Quyền của nhóm 3 Quan điểm về nguồn gốc Quyền tự nhiên Quyền luật định 4 Mức độ pháp điển hóa Quyền cụ thể Quyền hàm chứa 5 Phương thức bảo đảm Quyền chủ động Quyền thụ động 6 Điều kiện hưởng thụ Quyền tuyệt đối Quyền có điều kiện 7 Sự thừa nhận Quyền tự do Quyền đòi hỏi 8 Giới hạn áp dụng Quyền có thể bị Quyền không thể bị hạn chế hạn chế Nguồn: Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011, tr.69 11
- 1.2. Nhận thức chung về văn hóa nhân quyền 1.2 .1. Nhận thức chung về văn hóa 1.2.1.1. Khái niệm về văn hoá Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Khái niệm văn hóa là một khái niệm rộng lớn, có thể tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Từ văn hóa trong tiếng Latinh là “Culture” nghĩa là sự trồng trọt, chăm sóc. Theo nghĩa gốc, ta có thể hiểu văn hóa là quá trình chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục cả thể sinh học trở thành những con người. Văn hóa có mặt trong tất cả các sản phẩm do con người tạo ra, từ công cụ sản xuất, đến các vật dụng sinh hoạt, từ tri thức khoa học đến tác phẩm nghệ thuật. Văn hóa còn hiện diện trong tất cả các quan hệ xã hội của con người trên tất cả các lĩnh vực đời sống, xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị, ngoại giao, pháp luật, tôn giáo, gia đình, cộng đồng, trong mọi giao tiếp thông thường. Văn hóa là bản thân các năng lực cấu thành nhân cách con người là tri thức, tình cảm, ý chí và mọi năng lực lao động sáng tạo [27, tr.17]. Cho đến nay có rất nhiều cách tiếp cận văn hoá theo những quan điểm khác nhau, trên hết là cách tiếp cận theo quan điểm triết học mác xít Văn hoá là những vấn đề biến đổi của bản thân con người với tư cách là sự hình thành lịch sử hiện thực của con người. Văn hoá theo đó xuất hiện từ lao động, hiện ra như một nhiệm vụ thực tiễn biến đổi các quan hệ qua lại giữa con người với thế giới và với nhau. Văn hoá, theo quan điểm triết học mácxít được biểu hiện như một quá trình biến con người thành chủ thể của sự vận động lịch sử và trở thành một cá nhân toàn vẹn [3, tr.12]. Ở phương Tây, văn hoá theo nhà nhân học người Anh Edward B.Tylor trong công trình văn hoá nguyên thuỷ đã định nghĩa: “Văn hoá hay văn minh, 12
- hiểu theo nghĩa rộng nhất về dân tộc học của nó, là toàn bộ phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những tập quán mà con người có được với tư cách là thành viên xã hội”. [33, tr.2] Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi nghiên cứu các hiện tượng và giá trị văn hoá ở nhiều dân tộc, đã định nghĩa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [19, tr.43]. Đây là cách định nghĩa toàn diện thể hiện triết lý sống của loài người, tính phổ biến và đặc thù tồn tại chính trong sự vật, hiện tượng; thể hiện nguồn gốc, chức năng của văn hóa, đồng thời cũng phản ảnh tính kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác, thời kỳ lịch sử này sang thời kỳ lịch sử khác của văn hóa. Một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng có những định nghĩa tương đối đồng nhất với quan điểm của Hồ Chủ tịch, như theo từ điển Tiếng Việt “Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử” [34, tr.1062]. Hay như Giáo sư. Tiến sỹ Hoàng Thị Kim Quế định nghĩa trong cuốn Văn hóa pháp lý – Những vấn đề lý luận cơ bản và ứng dụng đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất, tinh thần được hình thành và sáng tạo trong hoạt động của con người được lưu truyền từ thế hệ này, sang thế hệ khác, từ cộng đồng này sang cộng đồng khác tạo thành truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc bên cạnh những giá trị chung của nhân loại [27, tr.19]. 13
- Đại hội đồng UNESCO lần thứ 31 (11 – 2001) có định nghĩa: Văn hoá nên được xem là một tập hợp (the set) các đặc điểm nổi bật về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm của xã hội hay một nhóm xã hội, ngoài văn học và nghệ thuật nó còn bao gồm lối sống, cách thức cùng chung sống, các hệ thống giá trị, các truyền thống và tín ngưỡng [33, tr.2-3]. Có thể nói văn hoá là tổng thể các giá trị do con người tạo ra, đó là các giá trị vật chất và các giá trị tinh thần. Văn hóa là trình độ, năng lực hoạt động sống của con người; và cũng là chính bản thân sự phát triển của con người. Trong văn hoá, các loại giá trị này đều tương tác và gắn bó với nhau. 1.2.1.2. Các thành tố cơ bản của văn hóa Tri thức – một trong những yếu tố cấu thành văn hóa. Tri thức hay kiến thức bao gồm những hiểu biết về những sự vật, hiện tượng, những dữ kiện, thông tin, sự mô tả hay kỹ năng trong tự nhiên và xã hội. Sự hiểu biết đấy có thể thông qua giáo dục, hoặc trải nghiệm, về mặt lý thuyết hay thực hành. Những thành tựu tri thức liên quan đến quá trình nhận thức phức tạp; tri giác, truyền đạt, liên hệ và suy luận. Trong triết học, ngành nghiên cứu về tri thức được gọi là tri thức luận. Có những tri thức được mã hóa thể hiện ra bên ngoài dưới dạng vật chất như phim ảnh, sách báo, tài liệu, văn bản, những tri thức này được thể hiện ra ngoài, dễ dàng chuyển giao, ta có thể thường thấy qua hệ thống giáo dục, hội thảo, ví dụ như các tài liệu về tri thức khoa học, cách sách báo tri thức chuyên ngành về vật lý, nông nghiệp, pháp luật, Có những tri thức ẩn hay còn gọi là phi vật thể, như niềm tin, giá trị, kinh nghiệm, Vậy, tóm lại tri thức là sự hiểu biết về sự vật, hiện tượng. Trong văn hóa chúng ta sẽ có tri thức văn hóa pháp luật, đó là sự am hiểu về lĩnh vực văn hóa và pháp luật; hay văn hóa giao thông, 14
- Ý thức – yếu tố tứ hai cấu thành văn hóa. Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một phạm trù song song với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất. Ý thức trang bị cho con người sự hiểu biết về thế giới xung quanh, giúp con người xác định mục tiêu, lựa chọn phương pháp cho hoạt động của mình tạo nên ở con người tình cảm, niềm tin, ý chí, thôi thúc con người nỗ lực hành động để đạt được mục tiêu đề ra. Ý thức có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vận động, phát triển của những điều kiện vật chất ở những mức độ nhất định. Ý thức cũng có nhiều cấp độ khác nhau, như ý thức cá nhân, ý thức giai cấp, ý thức xã hội. Ví dụ như: một cá nhân có ý thức văn hóa giao thông hay Nhà nước ta có ý thức tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hay ý thức công dân là “tổng hợp những nhận thức, quan điểm, thái độ của công dân về các quyền và nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước mà họ mang quốc tịch” [36, tr.876]. Ứng xử - yếu tố thứ ba cấu thành văn hóa. Ứng xử, là sự thể hiện triết lí cuộc sống, các lối sống lối suy nghĩ lối hành động của một cộng đồng người trong việc ứng xử và giải quyết những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, từ vi mô đến vĩ mô, từ gia đình đến toàn xã hội. Văn hoá ứng xử là những quy định thành văn và bất thành văn trong tất cả các xã hội. Văn hoá ứng xử có vai trò rất quan trọng trong xã hội phát triển và văn minh như ngày nay. Bởi thế, mỗi người cần phải trang bị cho mình những vốn văn hoá cần thiết để giao tiếp, ứng xử trong công việc, xã hội. Xã hội có phát triển, có tốt đẹp hay không còn tuỳ thuộc vào sự văn minh cùng ý thức tốt đẹp và cách ứng xử có văn hóa của mỗi con người. 1.2.1.3. Các đặc trưng của Văn hóa * Tính nhân văn và xã hội: Đặc trưng cơ bản của văn hóa là tính nhân văn, xã hội. Trước hết, văn hóa có tính xã hội. Vì: 15