Luận văn Vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_van_de_pham_toi_co_tinh_chat_chuyen_nghiep_trong_lu.pdf
Nội dung text: Luận văn Vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam
- Đại học quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Hữu Minh Vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự việt nam Luận văn thạc sĩ luật học Hà nội - 2010
- Đại học quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Hữu Minh Vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự việt nam Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 Luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm Hà nội - 2010
- Mục lục Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Mở đầu 1 Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về phạm tội có tính chất chuyên 9 nghiệp 1.1. Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tính chất chuyên 9 nghiệp 1.1.1. Khái niệm phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 9 1.1.2. Các đặc điểm của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 33 1.2. Các tiêu chí để đánh giá là tình tiết phạm tội có tính chất 36 chuyên nghiệp 1.2.1. Số lần phạm tội 36 1.2.2. Hình thức lỗi, động cơ mục đích của tội phạm 36 1.2.3. Nhân thân người phạm tội 37 1.3. Các yêu cầu (nguyên tắc) cơ bản để áp dụng tình tiết phạm tội 37 có tính chất chuyên nghiệp 1.3.1. Các yêu cầu chung để áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm 37 nhẹ khi quyết định hình phạt 1.3.2. Các yêu cầu riêng áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất 44 chuyên nghiệp khi quyết định hình phạt 1.4. So sánh phạm tội có tính chất chuyên nghiệp với các khái 49 niệm khác có liên quan
- 1.4.1. Với tình tiết "phạm tội nhiều lần" 49 1.4.2. Với tình tiết "tái phạm" 53 1.4.3. Với tình tiết "phạm nhiều tội" 59 Chương 2: Các quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong 65 pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng 2.1. Quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình 65 sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám (năm 1945) đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất (năm 1985) 2.2. Quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình 84 sự Việt Nam từ khi pháp điển hóa lần thứ nhất (năm 1985) đến trước pháp điển hóa lần thứ hai (năm 1999) 2.3. Quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình 92 sự Việt Nam từ khi pháp điển hóa lần thứ hai (năm 1999) đến nay Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện Các quy định của pháp luật hình 114 sự và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 3.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về vấn 114 đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 3.1.1. Hoàn thiện các quy định về vấn đề phạm tội có tính chất 114 chuyên nghiệp trong Phần chung của Bộ luật Hình sự 3.1.2. Hoàn thiện các quy định về vấn đề phạm tội có tính chất 117 chuyên nghiệp trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự 3.2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung văn bản hướng dẫn thi hành Bộ 128 luật Hình sự về vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết phạm 132 tội có tính chất chuyên nghiệp Kết luận 134 Danh mục Tài liệu tham khảo 136
- Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung vào ngày 19/6/2009) quy định "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Phần chung (điểm b khoản 1 Điều 48), tình tiết này cũng được quy định là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt trong 20 cấu thành tội phạm ở Phần các tội phạm. Đặc biệt Điều 3 Bộ luật Hình sự 1999 quy định về "Nguyên tắc xử lý" trong đó có đoạn: "Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng" [30]. Tuy nhiên, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và toàn diện. Chẳng hạn, dưới góc độ khoa học, hàng loạt vấn đề cần được làm sáng tỏ để có quan điểm thống nhất và đầy đủ như khái niệm, bản chất pháp lý của vấn đề "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp", lịch sử phát triển của các quy phạm về chế định này, nghiên cứu so sánh pháp luật hình sự các nước có quy định về "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" hay việc tổng kết và đánh giá thực tiễn áp dụng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng Ngoài ra, trong pháp luật hình sự thực định (Bộ luật Hình sự năm 1999), nhà làm luật nước ta cũng chưa ghi nhận khái niệm pháp lý về Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, hậu quả pháp lý của việc áp dụng tình tiết phạm tội có tình chất chuyên nghiệp. Năm 2006, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp". Tuy nhiên theo chúng tôi, nghị quyết này cũng chỉ có giá trị tạm thời, nó được tổng kết từ thực tiễn áp dụng pháp luật để 1
- thống nhất cho các Tòa án khi áp dụng chứ nghị quyết này cũng chưa có cơ sở lý luận vững chắc cho việc áp dụng vấn đề "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp", chính vì vậy mà hướng dẫn trên không có tính khái quát cao chưa thể hiện được bản chất của vấn đề "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" , do vậy hiệu quả của việc áp dụng tình tiết này không được cao. Mặt khác, thực tiễn áp dụng vấn đề này cũng đã đặt ra nhiều vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết như điều kiện áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp", tiêu chí đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tiêu chí phân biệt "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" với phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội, tái phạm, tái phạm nguy hiểm v.v Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận về "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" và sự thể hiện chúng trong các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 hiện hành, đồng thời đánh giá việc áp dụng vấn đề "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" trong thực tiễn để đưa ra kiến giải lập pháp và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về vấn đề này trong giai đoạn hiện nay không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc chúng tôi quyết định chọn đề tài "Vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là một dạng của chế định nhiều (đa) tội phạm trong khoa học luật hình sự, mà trong những điều kiện như nhau nêu so sánh tội đơn nhất thì dạng này thường cho thấy tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn của tội phạm được thực hiện, cũng như nhân thân người phạm tội xấu hơn, vì vậy trách nhiệm hình sự của người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp cũng thường là nặng hơn. Nghiên cứu vấn đề này ở các mức độ khác nhau đã được một số nhà khoa học - luật gia trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. 2
- Trên thế giới, các Bộ luật Hình sự hiện hành của các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới như Bộ luật Hình sự Vương quốc Anh, Bộ tổng luật của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Bộ luật Hình sự Liên bang Nga, Bộ luật Hình sự Vương quốc Thụy Điển, Bộ luật Hình sự Nhật Bản, Bộ luật Hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa v.v hầu như không quy định về vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Tuy nhiên, trong giới khoa học luật hình sự của một số nước đã đặt vấn đề nghiên cứu vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và có nhiều quan điểm khác nhau như sự cấp thiết phải quy định bổ sung vấn đề này vào Bộ luật Hình sự làm cơ sở pháp lý cao nhất để trấn áp loại tội phạm này; các điều kiện để áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp v.v ở Việt Nam cho đến nay trong khoa học luật hình sự cũng chưa có công trình nghiên cứu chuyên khảo nào đề cập riêng đến việc nghiên cứu làm sáng tỏ một cách sâu sắc và đầy đủ và toàn diện và có hệ thống dạng nhiều (đa) tội phạm này. Tuy nhiên vấn đề này được đề cập ở các mức độ khác nhau trong một số công trình sau đây: Bài viết Cần nhận thức đúng về tình tiết "Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" (của Nguyễn Văn Bường, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 10/2000); Bài viết "Về việc áp dụng tình tiết Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp", (của Vũ Thành Long, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20/2006); Bài viết "Bàn về nội dung điều kiện về tình tiết Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp", (của Đỗ Đức Anh Dũng, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 02/2007); Bài viết "Bàn về tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999", (của ThS. Lê Văn Luật, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7/2005); phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là một dạng trong chế định "nhiều (đa) tội phạm" (của GS.TSKH Lê Văn Cảm trong Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005); Chế định nhiều tội phạm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2003, của TS. Lê Văn Đệ; Bình luận những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ 3
- trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam, của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh, 2009 v.v Khái quát tất cả những nghiên cứu trên đây của các tác giả cho thấy các công trình này mới chỉ dừng lại ở các bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành với việc giải quyết một nội dung tương ứng xem xét nội dung của vấn đề này như khối kiến thức cơ bản một phần, mục trong các giáo trình giảng dạy, một chương của sách chuyên khảo mà chưa có công trình nào đề cập đến việc nghiên cứu với đúng tên gọi "Vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam" một cách có hệ thống, toàn diện, đồng bộ. Về nội dung, các công trình đã nêu mới đề cập khái quát căn cứ pháp lý và những điều kiện áp dụng, đánh giá ở mức độ riêng rẽ phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hoặc mới đưa ra một số kiến nghị độc lập hoàn thiện vấn đề này trong luật hình sự Việt Nam. Trong khi đó, chưa có công trình nghiên cứu nào hệ thống hóa các vấn đề lý luận về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, nghiên cứu tổng thể lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp từ năm 1945 đến nay, tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng, cũng như chỉ ra các tồn tại, vướng mắc trong thực tế để đề xuất các kiến giải lập pháp và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chúng. Mặt khác, nhiều nội dung xung quanh vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp cũng đòi hỏi các nhà hình sự học cần tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa nên rõ ràng vấn đề này đang có tính thời sự. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách tương đối có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của vấn đề phạm tội có tình chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng vấn đề này trong 4
- thực tiễn, từ đó xác định những bất cập để đề xuất kiến giải lập pháp bằng việc đưa ra mô hình lý luận của các quy phạm về vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự nước ta, cũng như đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng vấn đề đã nêu trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: 1) Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của vấn đề phạm tội có tình chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay, phân tích khái niệm, các quan điểm của các nhà hình sự học trong nước và trên thế giới, các đặc điểm cơ bản của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, phân biệt phạm tội có tính chất chuyên nghiệp với phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội, tái phạm và tái phạm nguy hiểm, phân tích nội dung và điều kiện áp dụng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong Bộ luật Hình sự năm 1999 hiện hành để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp theo luật hình sự Việt Nam. Phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc quy định tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng định khung trong một số tội trong Bộ luật Hình sự năm 1999. 2) Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nước ta, đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh việc quy định vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và thực tiễn áp dụng nhằm đề xuất và luận chứng sự cần thiết phải hoàn thiện và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về vấn đề này trong pháp luật hình sự Việt Nam. 3.3. Đối tượng nghiên cứu 5
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp theo luật hình sự Việt Nam cụ thể là: khái niệm phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, các đặc điểm cơ bản của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, phân biệt phạm tội có tính chất chuyên nghiệp với phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội, tái phạm và tái phạm nguy hiểm, nội dung và điều kiện áp dụng của vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 hiện hành, kết hợp với thực tiễn áp dụng và tham khảo pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới để qua đó chỉ ra những nguyên tắc cơ bản và đề xuất các kiến giải lập pháp cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong pháp luật hình sự Việt Nam. 3.4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp theo luật hình sự Việt Nam mà theo quan điểm của tác giả là cơ bản và quan trọng hơn cả. Đồng thời, luận văn cũng có đề cập đến một số quy phạm của luật tố tụng hình sự nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu. Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong 10 năm (2000-2009). 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các 6
- bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài. Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê; v.v Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Tòa án nhân dân tối cao hoặc (và) của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương ban hành có liên quan đến phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm trong các báo cáo của ngành Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân tối cao và địa phương, bản án hình sự, quyết định giám đốc thẩm và nhiều tài liệu vụ án hình sự trong thực tiễn xét xử, cũng như những thông tin trên mạng internet để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 1) Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đề cập một cách tương đối có hệ thống và tương đối toàn diện một số vấn đề cơ bản của lý luận về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên. 2) Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những điều kiện cụ thể của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, cũng như đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp ở khía cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng trong thực tiễn. Đặc biệt, để góp phần phân hóa tội phạm và người phạm tội, cá thể hóa và phân hóa tối đa trách nhiệm hình sự và hình phạt, tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh 7
- chống tội phạm và nhằm phù hợp với các yêu cầu của thực tiễn xét xử, luận văn cũng kiến nghị bổ sung (loại bỏ) một số trường hợp có thể áp dụng (không áp dụng) tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, nhưng lại chưa được nhà làm luật nước ta quy định trong Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cho các nhà khoa học-luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Chương 2: Các quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp theo pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. 8
- Chương 1 Một số vấn đề lý luận chung về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 1.1. Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 1.1.1. Khái niệm phạm tội có tính chất chuyên nghiệp Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là một khái niệm trong khoa học luật hình sự Việt Nam, nó chính thức được quy định Bộ luật Hình sự năm 1985 (trong lần sửa đổi lần thứ nhất vào ngày 28 tháng 12 năm 1989). Khái niệm phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là một vấn đề khó đang được các nhà luật học nghiên cứu và chưa có sự thống nhất. Chính vì vậy, khái niệm phạm tội có tính chất chuyên nghiệp chưa được quy định chính thức trong Bộ luật Hình sự mà nó chỉ được đề cập đến trong các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao nhằm hướng dẫn việc áp dụng thống nhất Bộ luật Hình sự trong hoạt động xét xử. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam đã có một số quan điểm đưa ra về khái niệm và nội hàm của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Theo GS.TSKH Lê Văn Cảm thì phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là một dạng của chế định nhiều (đa) tội phạm và chế định này bao gồm các dạng sau: Phạm tội nhiều lần; phạm nhiều tội; tái phạm và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và đưa ra khái niệm. Theo đó, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là phạm tội nhiều lần, có tính chất liên tục và nhằm mục đích vụ lợi hay làm giàu bất chính mà hoạt động phạm tội đã trở thành hệ thống và tạo nên nguồn thu nhập cơ bản hoặc nguồn sống chủ yếu của người phạm tội [4, tr. 402]. Theo GS.TSKH Đào Trí úc và PGS.TS Võ Khánh Vinh thì phạm tội có tính chất chuyên nghiệp chỉ là một dạng đặc biệt của phạm tội nhiều lần và 9
- chế định nhiều tội phạm chỉ có ba (3) hình thức biểu hiện là: phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần và tái phạm, tái phạm nguy hiểm [47, tr. 326-328]. Theo TS. Lê Văn Đệ thì phạm tội có tính chất chuyên nghiệp không phải là một dạng của chế định nhiều tội phạm, tác giả cho rằng chế định nhiều tội phạm có ba hình thức biểu hiện là: phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần và tái phạm, tái phạm nguy hiểm [13]. Theo TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy thì phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là phạm tội có tính chất liên tiếp từ năm lần trở lên, chuyên lấy việc phạm tội làm nghề sống và lấy tài sản, kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính [34]. Theo ThS. Lê Văn Luật thì phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội trước hết có một nhân thân xấu, là người có khả năng lao động nhưng không chịu lao động, chỉ biết lấy việc chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu xài hoặc là người tuy có nghề nghiệp, có thu nhập nhưng vẫn nhiều lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác (cùng một nhóm khách thể), đã bị kết án nhiều lần chưa được xóa án tích lại tái vi phạm, cứ sau khi ra tù lại phạm tội mới [19]. Nghiên cứu Bộ luật Hình sự của một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Liên bang Nga, Đức, Thụy Điển v.v thì pháp luật các nước này hầu như không quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nhưng lại quy định một số khái niệm khác cũng gần với khái niệm này như: Phạm tội có hệ thống, tội phạm lặp lại. Đặc biệt, nghiên cứu Bộ luật Hình sự Liên bang Nga chúng tôi thấy các nhà làm luật Nga không sử dụng thuật ngữ "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" nhưng họ đã thể hiện quan điểm tương đối rõ là coi chế định nhiều tội phạm chỉ có ba (3) hình thức biểu hiện đó là: phạm tội nhiều lần (Điều 16), phạm nhiều tội (Điều 17) và tái phạm (Điều 18). Trong đó tái phạm có ba dạng là tái phạm thường, tái phạm nguy hiểm và tái phạm đặc biệt nguy hiểm, coi là tái phạm đặc biệt nguy hiểm khi: a) người trước đây đã bị kết án tù ít nhất ba lần về tội rất nghiêm trọng do cố ý, nay lại 10
- phạm tội do cố ý và bị kết án tù; b) người trước đây đã hai lần bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc một lần về tội đặc biệt nghiêm trọng, nay lại phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý; c) người trước đây đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, nay lại phạm tội đặc biệt nghiêm trọng [32]. Phải chăng các nhà làm luật Liên bang Nga đã cho rằng trường hợp "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" nằm trong nội hàm của tái phạm đặc biệt nguy hiểm? Hay nói cách khác thì các nhà làm luật Liên bang Nga cho rằng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp chỉ là một dạng đặc biệt của tái phạm? Trong luật hình sự Vương quốc Anh, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (các nước theo hệ thống pháp luật Common Law) không đưa ra khái niệm phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Tuy nhiên, nghiên cứu hệ thống các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác trong pháp luật nước này (các nhà làm luật Anh - Mỹ gọi là các biện pháp an ninh) thì các nhà làm luật nước Anh đã đề cập đến khái niệm Kẻ phạm tội thường xuyên đó là những người bị kết án đến lần thứ ba (3) về cùng một tội, trên 16 tuổi và trước lần phạm tội thứ ba đã biểu hiện "lối sống vô liêm sỉ hoặc lối sống tội phạm" - những người này sẽ bị áp dụng biện pháp giam giữ trong tù để ngăn ngừa với thời hạn từ 5 năm đến 10 năm. Như vậy, theo quan điểm của các nhà làm luật Anh, kẻ phạm tội thường xuyên bị coi là có "tình trạng nguy hiểm" cần phải cách ly ra khỏi xã hội khi có các căn cứ pháp lý cụ thể do pháp luật quy định. Tương tự như vậy, pháp luật hình sự Mỹ cũng đưa ra đối tượng là "Người phạm tội chuyên nghiệp" sẽ bị áp dụng biện pháp an ninh đó là - biện pháp kéo dài việc giam giữ trong tù hoặc để ngăn ngừa [6]. Trong luật hình sự Nhật Bản, giáo sư Tsuneo Inako khi viết về hình luật Nhật Bản đã nhận xét "Trong Bộ luật Hình sự hiện hành không có khái niệm kẻ phạm tội chuyên nghiệp và Tòa án giải quyết vấn đề này bằng cách tăng hình phạt đối với những kẻ tái phạm. Vấn đề phạm tội chuyên nghiệp ở Nhật Bản đang đặt ra một cách gay gắt". Như vậy, việc không quy định phạm 11
- tội có tính chất chuyên nghiệp trong Bộ luật Hình sự quả là một thiếu sót, bởi kẻ phạm tội có tính chất chuyên nghiệp xét dưới góc độ nhân thân người phạm tội là xấu hơn nhiều so với kẻ phạm tội tái phạm thông thường. Các Tòa án Nhật Bản chỉ áp dụng các quy định về tái phạm khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh chống loại tội phạm này. Đúng như lời nhận xét của giáo sư Tsuneo Inako về Dự thảo Bộ luật Hình sự mới của Nhật Bản mà Bộ Tư pháp công bố năm 1972: Bản thân các Tòa án khi lượng hình không chỉ chú ý đến lỗi của kẻ phạm tội mà còn chú ý tới nhân thân kẻ phạm tội, tiểu sử của nó, môi trường sống của kẻ phạm tội, động cơ phạm tội, phương thức gây án, kết quả phạm tội cũng như khả năng cải tạo kẻ phạm tội. Vậy mà trong dự thảo Bộ luật Hình sự mới khi xác định hình phạt người ta chỉ tính đến tiêu chuẩn quan trọng là mức độ lỗi còn những yếu tố khác chỉ được xem xét khi áp dụng hình phạt [45]. Để đưa ra được khái niệm phạm tội có tính chất chuyên nghiệp một cách khoa học, chính xác phản ánh đầy đủ được bản chất của nó thì chúng ta phải đi từ các khái niệm trước nó. Khái niệm "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" đã xuất hiện trong các văn bản pháp luật từ những năm 70 của thế kỷ XX tại Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh Trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản riêng của công dân. Hai pháp lệnh này thể hiện quan điểm cũng như nguyên tắc là trừng trị nghiêm khắc những tên lưu manh chuyên nghiệp và hành vi phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Trong các văn bản này cũng như văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đều thống nhất rằng khái niệm "chuyên nghiệp" ở đây không đồng nghĩa với khái niệm "nghề nghiệp" của một người mà nó có sự khác nhau cơ bản tính chất chuyên nghiệp của hành vi phạm tội thể hiện ở chỗ tội phạm đó được lặp đi lặp lại nhiều lần mà người phạm tội coi việc phạm tội đó là phương tiện kiếm sống. Chúng tôi cũng đồng tình với nhận định này, vì thứ 12
- nhất nếu hai khái niệm này đồng nhất với nhau thì chúng ta phải gọi là phạm tội chuyên nghiệp chứ không phải là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Cụm từ có tính chất ở đây thể hiện người phạm tội coi việc phạm tội như là một phương tiện kiếm sống. Mặt khác, với một người bình thường thì họ mong muốn có được việc làm chính đáng chứ không mong muốn lấy việc phạm tội làm phương tiện để kiếm sống. Tuy nhiên, việc họ phạm tội lại là bản chất họ thích chiếm đoạt tài sản của người khác, thích không làm mà có ăn nên cứ thấy ai sơ hở trong việc quản lý tài sản là họ chôm ngay. Một khái niệm khác được đề cập tới ở đây đó là "lưu manh chuyên nghiệp" là gì? Khái niệm này để chỉ những phần tử (kẻ) xấu trong xã hội chuyên có các hành vi vi phạm pháp luật, không có nghề nghiệp chính đáng, ổn định, thậm chí không có nơi ở ổn định, sống lang thang ngoài đường, ở chợ ở mọi xã hội đều có những đối tượng này. Trong những năm 70 của thế kỷ XX, những phần tử này rất nhiều, chúng lập thành các băng nhóm trộm cắp, cướp giật Trong xã hội hiện đại ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, Nhà nước và các tổ chức xã hội ngày càng quan tâm dẹp bỏ các tệ nạn xã hội, tạo công ăn việc làm cho những người sống lang thang, không có công ăn việc làm. Tuy nhiên, các băng nhóm tội phạm phát triển tinh vi hơn, chúng thành lập các băng đảng "xã hội đen", hoạt động có tổ chức hơn Như vậy, khái niệm lưu manh chuyên nghiệp để chỉ những người có nhân thân xấu, có nhiều tiền án, tiền sự, những người chuyên lấy việc trộm cắp, lừa đảo làm nguồn sống chính. Cùng với khái niệm tội phạm chuyên nghiệp, lưu manh chuyên nghiệp được chuyên ngành Tội phạm học nghiên cứu cụ thể hơn. Còn khái niệm phạm tội có tính chất chuyên nghiệp có nội hàm rộng hơn đó là ngoài hành vi phạm tội của bọn lưu manh chuyên nghiệp, người thực hiện một tội hay nhiều tội cùng loại (xâm phạm cùng nhóm khách thể) nhưng tội phạm lặp đi lặp lại nhiều lần lấy đó là nguồn thu nhập chính hoặc nghề sống chính thì đều là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Như vậy, các tội mà bọn lưu manh chuyên nghiệp thực hiện chỉ bao gồm một số tội như trộm cắp, lừa 13
- đảo, cướp, cướp giật, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có, tội chứa hoặc gá cờ bạc, tội chứa hoặc dắt gái mại dâm hoặc hành nghề mại dâm. Còn phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì ngoài những hành vi phạm tội trên người phạm tội còn thực hiện các hành vi khác như buôn lậu, mua bán ma túy trái phép, làm hàng giả, buôn bán người v.v mà những hành vi phạm tội này mang tính chất chuyên nghiệp. Khái niệm lưu manh chuyên nghiệp được luật hình sự nước ta nhắc đến nhiều trong giai đoạn 1945-1985 chúng ta coi đây là một trong những đối tượng trấn áp của cách mạng, chuyên chính của pháp luật. Còn đối với luật hình sự hiện đại chúng ta có khái niệm nhân thân người phạm tội mà những người bị áp dụng các tình tiết như: tình tiết như tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp được coi là những người có nhân thân xấu sẽ bị áp dụng những hình phạt nặng. Một luồng ý kiến khác cho rằng, chỉ nên áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp đối với bọn lưu manh chuyên nghiệp, kết thành băng nhóm chuyên "sống để phạm tội và phạm tội để mà sống". Còn đối với người bình thường (không phải bọn lưu manh chuyên nghiệp) có nhiều hành vi phạm tội mà mỗi hành vi đó đã đủ dấu hiệu cấu thành một tội phạm độc lập nhưng trùng với tội phạm đang xét xử thì họ phải chịu tình tiết phạm tội nhiều lần; Nếu sau khi ra tù chưa được xóa án tích mà tái phạm tội thì họ phải chịu tình tiết tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Và chắc chắn khi một người bị áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" thì đồng thời họ phải chịu thêm tình tiết phạm tội nhiều lần hoặc tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Và như vậy thì chúng ta đã vi phạm nguyên tắc áp dụng pháp luật là một tình tiết mà áp dụng hai lần. Theo chúng tôi quan điểm này là chưa chính xác, bởi không phải mọi tội phạm mà bọn lưu manh chuyên nghiệp thực hiện đều bị áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và cũng không phải chỉ bọn lưu manh chuyên nghiệp mới bị áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Hay nói cách khác thì tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khi áp dụng chúng ta phải căn cứ vào hành vi phạm tội và 14
- nhân thân người phạm tội chứ không phải chỉ căn cứ vào người phạm tội (hay một chủ thể phạm tội cụ thể nào). ở đây, quan điểm này đã cho rằng chỉ có chủ thể đặc biệt của tội phạm - những kẻ lưu manh chuyên nghiệp mới có thể bị áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Điều này cả thực tiễn và lý luận đều không chính xác. Kết luận của ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1991) đã nhận định: Ngoài bọn lưu manh chuyên nghiệp ra, người thực hiện một loạt tội như hay nhiều tội cùng loại (thuộc cùng nhóm khách thể) nhưng tội phạm lắp đi, lắp lại nhiều lần hoặc phạm rất nhiều tội (không kể là loại tội gì) lấy đó là nguồn thu nhập chính hoặc nghề sống chính thì đều coi là có "tính chất chuyên nghiệp". Về việc một tình tiết được áp dụng hai lần, theo chúng tôi những khái niệm này có nội hàm không đồng nhất với nhau, chúng có giao thoa nhưng cũng có những điểm khác biệt. Tình tiết phạm tội nhiều lần nhấn mạnh số lần phạm tội (hai lần phạm tội trở lên về cùng một tội phạm và chưa bị đưa ra xét xử), tình tiết tái phạm nhấn mạnh nhân thân người phạm tội (phạm tội trong khoảng thời gian chưa được xóa án của tội đã phạm từ trước), còn tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khi áp dụng cần xem xét một cách toàn diện cả hành vi phạm tội, động cơ mục đích của tội phạm, số lần phạm tội cũng như nhân thân người phạm tội. Vấn đề này chúng tôi sẽ phân tích rõ hơn ở phần so sánh các tình tiết phạm tội nhiều lần, tái phạm và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Khái niệm "tội phạm được lặp đi lặp lại nhiều lần" được hiểu như thế nào? Tội phạm được thực hiện bao nhiêu lần thì bị coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp? Việc đưa ra một con số cụ thể có căn cứ khoa học không? Đây cũng là vấn đề có nhiều quan điểm khác nhau khi đánh giá một người có bị áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không. Quan điểm thứ nhất hiểu theo một cách truyền thống thì nhiều lần ở đây đó là từ hai (2) lần trở lên thì được coi là lặp đi lặp lại nhiều lần. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì bất kể trường hợp nào mà nếu chỉ phạm tội hai lần 15