Luận văn Vấn đề oan và chính sách, pháp luật tố tụng hình sự về bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Vấn đề oan và chính sách, pháp luật tố tụng hình sự về bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_van_de_oan_va_chinh_sach_phap_luat_to_tung_hinh_su.pdf
Nội dung text: Luận văn Vấn đề oan và chính sách, pháp luật tố tụng hình sự về bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM TIẾN DŨNG VẤN ĐỀ OAN VÀ CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ MÃ SỐ : 60.38.40 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - NĂM 2008 1
- MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Mở đầu 1 Chƣơng 1: Nhận thức về làm oan người vô tội và chính sách, pháp luật tố tụng hình sự về bồi thường 7 thiệt hại cho người bị oan 1.1. Nhận thức về làm oan ngƣời vô tội do ngƣời có thẩm quyền 7 trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra 1.1.1. Khái niệm về oan cho ngƣời vô tội 7 1.1.2. Những yếu tố xác định một ngƣời bị oan do ngƣời có thẩm 14 quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra 1.2. Nhận thức về chính sách, pháp luật tố tụng hình sự về bồi 17 thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan 1.2.1. Khái niệm chính sách pháp luật tố tụng hình sự về bồi thƣờng 17 thiệt hại cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự 1.2.2. Nội dung chính sách, pháp luật tố tụng hình sự về bồi thƣờng 18 thiệt hại cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 26 Chƣơng 2: Tình hình, nguyên nhân làm oan cho người vô tội và thực hiện chính sách, pháp luật tố tụng 27 hình sự về bồi thường thiệt hại cho người bị oan 2.1. Tình hình làm oan ngƣời vô tội và thực hiện chính sách, pháp 27 luật tố tụng hình sự về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan 2.1.1. Tình hình làm oan ngƣời vô tội do ngƣời có thẩm quyền trong 27 hoạt động tố tụng hình sự gây ra 2.1.2. Tình hình thực hiện chính sách, pháp luật tố tụng hình sự về 30 bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan
- 2.2. Nguyên nhân làm oan ngƣời vô tội và nguyên nhân gây nên những tồn tại trong thực hiện chính sách, pháp luật tố tụng 37 hình sự về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan 2.2.1. Nguyên nhân làm oan cho ngƣời vô tội 37 2.2.2. Những tồn tại trong thực hiện chính sách, pháp luật tố tụng 43 hình sự về bồi thƣờng cho ngƣời bị oan 2.2.3 Những nguyên nhân gây nên tồn tại vƣớng mắc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật tố tụng hình sự đối với ngƣời 51 bị oan KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 59 Chƣơng 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa việc làm oan và thực hiện chính sách, 60 pháp luật tố tụng hình sự về bồi thường thiệt hại cho người bị oan 3.1. Những giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật tố tụng hình sự về phòng ngừa làm oan và thực hiện bồi thƣờng thiệt hại 60 cho ngƣời bị oan 3.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại cho 60 ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự 3.1.2. Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự 2003 trong đó có các 65 chế định liên quan tới phòng ngừa việc làm oan 3.1.3. Xây dựng chế định bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra 68 trong Luật bồi thƣờng nhà nƣớc trên cơ sở kế thừa Nghị quyết 388 3.2. Những giải pháp nâng cao trách nhiệm của cơ quan và những ngƣời tiến hành tố tụng để phòng ngừa việc làm oan trong tố 70 tụng hình sự 3.2.1. Trách nhiệm của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp khi 70 ngƣời bị oan khởi kiện tại Tòa
- 3.2.2. Giáo dục phẩm chất đạo đức, nâng cao trách nhiệm, và trình độ, năng lực pháp luật cho những ngƣời tiến hành tố tụng hình 71 sự 3.2.3. Có chính sách tuyển dụng công khai, minh bạch, thu hút những ngƣời có tài, có đức vào làm việc trong các cơ quan 73 tiến hành tố tụng 3.2.4. Tăng cƣờng thanh tra, kiểm sát, giám sát đối với hoạt động tố tụng hình sự và xử lý nghiêm những cán bộ, công chức trong 74 hoạt động của mình đã làm oan ngƣời vô tội 3.2.5. Quy định rõ trách nhiệm của ngƣời đứng đầu các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc để xảy ra oan do cơ 76 quan mình gây ra KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 78 KẾT LUẬN CHUNG 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đƣợc đặt ra trong Bộ luật tố tụng hình sự nhằm góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi ngƣời ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Tuy nhiên, trong điều tra, khám phá, xử lý tội phạm và ngƣời phạm tội, do các nguyên nhân khác nhau, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn gây nên oan cho ngƣời vô tội, làm thiệt hại về vật chất, tinh thần không chỉ cho ngƣời bị oan, mà còn làm ảnh hƣởng đến uy tín của các cơ quan tƣ pháp và làm giảm lòng tin đối với Đảng, Nhà nƣớc. Ngay trong Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 Bộ Chính trị cũng ghi nhận thực trạng này: “Chất lượng tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và cơ quan tư pháp”. Quan điểm nhất quán của Nhà nƣớc ta là đã gây nên thiệt hại cho ngƣời dân trong hoạt động tố tụng hình sự thì phải bồi thƣờng theo tinh thần Điều 72 Hiến pháp quy định “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”. Thể chế hóa Điều 72 Hiến pháp, Điều 29 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Ngƣời bị oan do 1
- ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền đƣợc bồi thƣờng thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thƣờng thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho ngƣời bị oan; ngƣời đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật". Để đáp ứng yêu cầu bồi thƣờng cho ngƣời bị oan do những ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 về “Bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra”. Việc làm oan thì phải bồi thƣờng là điều dĩ nhiên trong hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, vấn đề phòng, chống gây oan trong hoạt động tố tụng hình sự mới là điều quan trọng trong tiến trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong thực tiễn những năm vừa qua, kể từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đƣợc Quốc hội thông qua, việc bồi thƣờng cho ngƣời bị oan do những ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra đã và đang đƣợc tiến hành. Nhƣng việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến chính sách, pháp luật tố tụng hình sự để phòng chống, oan chƣa đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống, thậm chí còn nhiều vấn đề bất cập cần thiết phải đƣợc bổ sung, sửa đổi, hoàn chỉnh. Do vậy, tác giả lựa chọn đề tài: " Vấn đề oan và chính sách, pháp luật tố tụng hình sự về bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự" để viết luận văn thạc sĩ với mong muốn góp phần hạn chế, từng bƣớc loại trừ việc gây oan cho ngƣời vô tội trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. 2
- 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về oan, minh oan trong tố tụng hình sự. Chẳng hạn GS. TSKH Đào Trí Úc đăng bài “Cải cách tư pháp hình sự và vấn đề phòng chống oan sai”, tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 4/2005; PGS. TSKH Lê Văn Cảm đã đƣa ra mô hình lý luận về đạo luật tố tụng hình sự, trong đó tác giả xây dựng độc lập nguyên tắc minh oan trong tố tụng hình sự tại sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự, khi bàn về chính sách pháp luật tố tụng hình sự; Bùi Kiên Điện về “Khắc phục tình trạng oan, sai trong tố tụng hình sự” trong Tạp chí Luật học số tháng 1 năm 2001; T.S Nguyễn Ngọc Chí, Đào Thu Hà “Bàn về oan, sai trong tố tụng hình sự” trên Báo pháp luật số 138 và 140 năm 2003 v.v Tuy nhiên, trong các bài viết nêu trên mới chỉ đề cập đến hiện tƣợng oan sai do các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng gây ra và các biện pháp bảo đảm bồi thƣờng; những vấn đề minh oan hợp tình, hợp lý và một số đề xuất đề nghị bổ sung, sửa đổi Nghị quyết 388 của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội cho phù hợp với thực tế. Còn những vấn đề khác về chính sách, pháp luật tố tụng hình sự với vấn đề phòng và chống oan vẫn chƣa chính thức đƣợc đề cập nhƣ một công trình khoa học để có cái nhìn sâu sắc và triệt để cả về lý luận và thực tiễn. Điều này đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu toàn diện vấn đề này để phòng chống gây oan trong hoạt động tố tụng hình sự là cần thiết. 3. Mục đích và nội dung nghiên cứu Hoạch định và thực hiện tốt chính sách pháp luật tố tụng hình sự trong việc phòng và chống oan là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nƣớc ta trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Trên tinh thần chủ đạo đó đề tài khoa học 3
- này nhằm mục đích làm rõ đƣợc sự tác động của chính sách, pháp luật tố tụng hình sự trong phòng ngừa gây oan cho ngƣời vô tội, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự. Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, nội dung nghiên cứu đƣợc đặt ra là: làm sáng tỏ khái niệm, nội dung, các lĩnh vực thể hiện của chính sách pháp luật tố tụng hình sự với vấn đề phòng ngừa gây oan nói riêng; làm rõ thực trạng tình hình gây oan cho ngƣời vô tội và những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này để đƣa ra những giải pháp cần thực hiện trong chính sách pháp luật tố tụng hình sự trong việc phòng, chống oan. Nói cách khác là từ việc phân tích lý luận và thực tiễn về chính sách pháp luật tố tụng hình sự (với tính chất là tƣ tƣởng, đƣờng lối chỉ đạo trong công tác xây dựng, áp dụng pháp luật tố tụng hình sự) và vai trò của nó với vấn đề phòng và chống oan để chỉ ra những giải pháp khắc phục, hạn chế đến mức thấp nhất oan trong tố tụng hình sự. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài tập trung vào chính sách chủ đạo của Đảng và sự thể chế hóa chính sách đó của nhà nƣớc trong việc phòng ngừa gây oan trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và ngƣời có thẩm quyền đó là pháp luật tố tụng hình sự. Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào xem xét tình trạng làm oan cho ngƣời vô tội từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đến nay, những nguyên nhân gây oan và các biện pháp bồi thƣờng theo tinh thần Nghị quyết 388 của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. 4
- 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của đề tài trƣớc tiên dựa trên phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật. Những phƣơng pháp cụ thể nhƣ tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê v.v đƣợc vận dụng để viết luận văn này. 6. Tính mới về mặt khoa học Đề tài nhằm phân tích mối quan hệ biện chứng giữa chính sách pháp luật tố tụng hình sự với vấn đề phòng và chống oan trong tố tụng hình sự. Trên cơ sở của những vấn đề đã phân tích luận văn đƣa ra những kiến giải về mặt lập pháp cũng nhƣ về mặt khoa học và thực tiễn áp dụng pháp luật để phòng ngừa và chống làm oan trong tố tụng hình sự. Tất nhiên tác giả có tham khảo và kế thừa trên cơ sở kế thừa những thành tựu khoa học của các giáo sƣ, tiến sĩ và các nhà nghiên cứu đi trƣớc. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Với những kết quả nghiên cứu đạt đƣợc ngƣời thực hiện luận văn mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận còn chƣa đƣợc hiểu thống nhất về “Oan trong tố tụng hình sự” và vấn đề bồi thƣờng thiệt hại cũng nhƣ phục hồi danh dự cho ngƣời bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Qua luận văn, thêm một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của việc thực hiện nghiêm túc những chủ trƣơng, chính sách pháp luật tố tụng hình sự trong việc phòng, chống oan. Đây là một trong những biện pháp quan trọng nhất để phòng ngừa gây oan trong tố tụng hình sự. 5
- 8. Kết cấu của luận văn Ngoài mục Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng gồm: Chương 1. Nhận thức về làm oan ngƣời vô tội và chính sách, pháp luật tố tụng hình sự về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan. Chương 2. Tình hình, nguyên nhân làm oan và thực hiện chính sách, pháp luật tố tụng hình sự về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan. Chương 3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa việc làm oan và thực hiện chính sách, pháp luật tố tụng hình sự về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan 6
- Chương 1 NHẬN THỨC VỀ LÀM OAN NGƯỜI VÔ TỘI VÀ CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CHO NGƯỜI BỊ OAN 1.1. Nhận thức về làm oan ngƣời vô tội do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra 1.1.1. Khái niệm về oan cho ngƣời vô tội Theo cách hiểu thông thƣờng thì “oan” tức là không thực hiện hành vi phạm tội mà lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị xét xử và có bản án kết tội. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì “Oan” là: “Bị quy cho tội mà bản thân không phạm, phải chịu sự trừng phạt mà bản thân không đáng” [22]. Đại từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Nhƣ Ý thì định nghĩa “oan” là “Bị quy tội không đúng, phải chịu sự trừng phạt một cách sai trái, vô lý” [23]. Dƣới góc độ khoa học, đã có nhiều học giả nghiên cứu và có những lý giải về khái niệm oan trong tố tụng hình sự. Theo GS. TSKH Đào Trí Úc, căn cứ thực tiễn truy tố, xét xử nêu hai trƣờng hợp điển hình của sự truy tố, xét xử oan đó là “Khi một người bị truy tố, xét xử vì hành vi do người khác gây ra. Như vậy, sự kiện phạm tội thì có nhưng truy tố xét xử nhầm người” và “Đó là khi một người bị truy tố, xét xử bởi hành vi không những không do mình gây ra mà trên thực tế không có hành vi phạm tội đó, hành vi đó đã không xảy ra” [25]. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đƣợc ban hành cho tới nay chƣa có một định nghĩa lập pháp nào về “Oan”. “Oan trong tố tụng hình sự” chỉ dừng lại nhƣ một thuật ngữ pháp lý của pháp luật tố tụng hình sự trong khuôn khổ của chủ trƣơng, chính sách 7
- là “Không làm oan ngƣời vô tội” ( Điều 1 – Bộ luật tố tụng hình sự). Trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không có một điều luật nào quy định về oan, mà chỉ có điều luật quy định về bồi thƣờng cho ngƣời bị oan. Điều 29 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Ngƣời bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền đƣợc bồi thƣờng thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thƣờng thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho ngƣời bị oan; ngƣời đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật". Thể chế hóa Điều 29, Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH 11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra cũng không quy định thế nào là oan, mà chỉ quy định về trƣờng hợp đƣợc bồi thƣờng và những trƣờng hợp không đƣợc bồi thƣờng. Tất nhiên, những trƣờng hợp mà Nhà nƣớc phải bồi thƣờng thiệt hại cho một ngƣời cụ thể thì cũng có nghĩa là họ bị oan trong tố tụng hình sự nên họ đƣợc bồi thƣờng thiệt hại. Tuy nhiên việc xác định một ngƣời bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong tố tụng hình sự gây ra là vấn đề phức tạp, bởi lẽ tố tụng hình sự là một quá trình bao gồm nhiều khâu và giữa các khâu có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu không đƣợc tiến hành thận trọng, đúng pháp luật thì ở khâu nào cũng có thể dẫn tới oan. Vấn đề nằm ở chỗ, dựa vào yếu tố nào để xác định một ngƣời đã bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong tố tụng hình sự gây ra, tức là trƣờng hợp nào đƣợc coi là bị oan và trƣờng hợp nào không coi là oan. Tất nhiên, việc xác định một ngƣời có bị oan trong tố tụng hình sự hay không thì không thể chỉ dựa vào lời kêu cứu của họ hay sự đồn thổi của dƣ luận mà phải có căn cứ (cả căn cứ thực tế và căn cứ pháp lý) cũng giống nhƣ căn cứ để xác định một hành vi có phải là tội phạm hay không; là tội phạm hay vi phạm pháp luật khác; hoặc có hay không có vi phạm pháp luật. 8
- Vấn đề xác định một ngƣời bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra liên quan mật thiết tới vấn đề hiểu thế nào là “Oan trong tố tụng hình sự ”. Song nhƣ đã trình bày ở phần trên thì pháp luật tố tụng hình sự thực định của chúng ta đang bỏ ngỏ vấn đề này. Trình bày nhƣ vậy là để thấy rằng việc xác định một ngƣời có bị oan hay không (yếu tố xác định) để từ đó có cơ sở minh oan và bồi thƣờng cho họ chắc chắn sẽ còn gây tranh cãi. Chính vì thế việc nghiên cứu tham chiếu vấn đề tƣơng tự trong pháp luật một số quốc gia là rất cần thiết, bởi qua đó chúng ta có thể đƣa ra những kết luận có tính khoa học, thống nhất nhằm từng bƣớc hoàn thiện hơn hoạt động lập pháp cũng nhƣ thực hiện pháp luật ở nƣớc ta về phòng, chống oan. Theo nghiên cứu thì pháp luật về bồi thƣờng nhà nƣớc của các nƣớc nhƣ Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc cũng chỉ tiếp cận khái niệm “Oan” dƣới góc độ nêu nội hàm của nó tức là nêu các trƣờng hợp đƣợc bồi thƣờng do bị oan chứ không nêu định nghĩa lập pháp về Oan. Chẳng hạn Luật Bồi thƣờng nhà nƣớc năm 1994 của Trung Quốc. Luật này cũng không có quy phạm định nghĩa “Oan trong tố tụng hình sự ”, mà theo Điều 15 thì: “Ngƣời bị thiệt hại bởi hành vi của cơ quan tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự có quyền yêu cầu bồi thƣờng trong các trƣờng hợp sau: bị giam giữ trái pháp luật mà không có bằng chứng rõ ràng về việc thực hiện hành vi phạm tội; bị bắt giữ trái pháp luật mà không có chứng cứ về việc thực hiện hành vi phạm tội; bị kết tội và đã bị thi hành án nhƣng đƣợc tuyên là vô tội; bị bức cung, nhục hình dẫn tới gây thƣơng tích hoặc làm chết ngƣời; bị gây thƣơng tích hoặc chết do cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng trái phép vũ khí, công cụ hỗ trợ” [29]. Bên cạnh đó Điều 16 luật này cũng nêu rõ “Nhà nƣớc không chịu trách nhiệm bồi thƣờng trong các trƣờng hợp sau đây: Việc bắt, giam giữ hoặc kết tội là do chính ngƣời bị thiệt hại đã cố ý khai báo gian dối, giả mạo chứng cứ; các cơ quan tiến hành 9
- hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình ” Nhƣ vậy cho tới nay việc đƣa ra một khái niệm cứng về oan trong tố tụng hình sự là rất khó, bởi lẽ ngay việc xác định nội hàm của khái niệm này cũng khó thống nhất. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm lập pháp và thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự của mỗi quốc gia. Thế nên tại Báo cáo số 66/CP-NC ngày 23/05/2005 của Chính phủ “Về các trƣờng hợp bị oan trong tố tụng hình sự và việc xử lý đối với cán bộ có liên quan” xác nhận: “Hiện nay, còn có cách hiểu chưa thống nhất về thế nào là bị oan trong tố tụng hình sự do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể của cơ quan có thẩm quyền” [19]. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 2003 trở về trƣớc không có quy định về cơ chế bồi thƣờng cho ngƣời bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Nhƣng đứng trƣớc yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN và đòi hỏi của thực tiễn trong việc giải quyết các vụ án hình sự, Đảng và Nhà nƣớc đã có nhiều biện pháp kịp thời để từng bƣớc giảm bớt và tiến tới ngăn chặn tình trạng oan sai trong hoạt động tố tụng hình sự nhƣ: Quốc hội khoá 11 đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự 2003, ngày 17 tháng 3 năm 2008, UBTVQH ban hành Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 về “Bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra” (sau đây gọi là Nghị quyết 388). Đến nay Nghị quyết 388 đã đi vào đời sống đƣợc 5 năm, thực tiễn cho thấy: Nghị quyết này chƣa thực sự hoàn thiện song nó đã góp phần rất quan trọng trong chủ trƣơng phòng, chống tình trạng làm oan cho ngƣời khác từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Về mặt lập pháp, Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/03/2003 tuy chƣa có định nghĩa lập pháp thế nào là “Oan trong tố tụng hình sự” nhƣng với tiêu đề của Nghị quyết là: “Về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây 10
- ra” và tại Điều 1 Nghị quyết này với tiêu đề “Các trường hợp sau đây được bồi thường thiệt hại” thì có thể hiểu đây chính là những trƣờng hợp bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Theo khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 388 thì: “Các trƣờng hợp sau đây đƣợc bồi thƣờng thiệt hại: a. Ngƣời bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giữ vì ngƣời đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; b. Ngƣời bị tạm giam mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giam vì ngƣời đó không thực hiện hành vi phạm tội; c. Ngƣời đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết định của Tòa án có thẩm quyền xác định ngƣời đó không thực hiện hành vi phạm tội; d. Ngƣời bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án ngoài các trƣờng hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong họat động tố tụng hình sự xác định ngƣời đó không thực hiện hành vi phạm tội” Theo khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 388 thì những trƣờng hợp không đƣợc bồi thƣờng thiệt hại, tức là không đặt vấn đề oan có “a. Ngƣời đƣợc miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật c. Những ngƣời thuộc các trƣờng hợp quy định tại Điều 1 của Nghị quyết này mà cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu, vật chứng khác sai sự thật để nhận tội thay cho ngƣời khác hoặc để che giấu tội phạm”. Nhƣ vậy, theo các quy định nêu trên thì một ngƣời đƣợc bồi thƣờng thiệt hại, tức là đƣợc coi là bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra đều phải thuộc diện “Có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định ngƣời đó 11
- không thực hiện hành vi phạm pháp luật” (điểm a, khoản 1 Điều 1-Nghị quyết 388) hoặc phải thuộc diện “Có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong họat động tố tụng hình sự xác định ngƣời đó không thực hiện hành vi phạm tội” (điểm b, c, d khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 388). Vấn đề đặt ra ở đây là, trƣờng hợp một ngƣời tuy có thực hiện hành vi phạm tội nhƣng đã bị áp dụng các biện pháp tố tụng không đúng quy định của pháp luật, thậm chí bị Tòa án tuyên bản án nặng hơn so với quy định của pháp luật thì có coi là bị oan không? Trƣờng hợp đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án nào đƣợc coi là oan? Và hiểu thế nào là “Không thực hiện hành vi phạm tội” trong Điều 1 Nghị quyết 388. Theo nghiên cứu của tác giả, trƣờng hợp một ngƣời tuy có thực hiện hành vi phạm tội nhƣng đã bị áp dụng các biện pháp tố tụng không đúng quy định của pháp luật, thậm chí bị Tòa án tuyên bản án nặng hơn so với quy định của pháp luật thì không đƣợc coi là bị oan, mà chỉ có thể xác định họ bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng sai pháp luật hình sự vì họ đã thực hiện tội phạm. Đối với trƣờng hợp đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án thì phải theo quy định của Điều 164, Điều 169, Điều 251 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 164 quy định, a) Có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 của Bộ luật tố tụng hình sự hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ luật hình sự; b) Đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh đƣợc bị can đã thực hiện tội phạm. Điều 169 quy định, Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 của Bộ luật này hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ luật hình sự. Điều 251 quy định, khi có một trong những căn cứ quy định tại điểm 1 và điểm 2 Điều 107 của Bộ luật này thì Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án; nếu có một trong những căn cứ quy định tại 12
- các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 107 của Bộ luật này thì hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Nhƣ vậy, không phải mọi trƣờng hợp đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án là gây nên oan, mà đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án gây nên oan chỉ có một trong ba trƣờng hợp sau đây đƣợc quy định tại Điều 107 và Điều 164 Bộ luật tố tụng hình sự: 1. Không có sự việc phạm tội; 2. Hành vi không cấu thành tội phạm; 3. Đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh đƣợc bị can phạm tội. Còn lại tất cả những trƣờng hợp khác đều không đƣợc thừa nhận là làm oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Xác định tình tiết “không thực hiện hành vi phạm tội” trong Điều 1 Nghị quyết 388, theo tác giả là ngƣời bị oan không thực hiện bất kỳ hành vi nào (bằng hành động và không hành động) đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự. Việc không thực hiện hành vi phạm tội đƣợc thể hiện ở chỗ có chứng cứ chứng minh không có sự việc phạm tội xảy ra, hành vi không cấu thành tội phạm và không có chứng cứ chứng minh bị can phạm tội, mặc dù đã hết thời hạn điều tra. Do đó, dƣới góc nhìn khoa học có đối chiếu pháp luật thực định, từ những chủ trƣơng, chính sách và văn bản cụ thể cũng nhƣ phân tích của những nhà khoa học đi trƣớc theo quan điểm cá nhân của tác giả có thể nêu khái niệm “Oan trong tố tụng hình sự” nhƣ sau: Oan trong tố tụng hình sự là trường hợp một người không thực hiện hành vi cấu thành tội phạm mà bị áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự như bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án. 13
- 1.1.2. Những yếu tố xác định một ngƣời bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra Phải nhắc lại rằng, việc xác định một ngƣời có bị oan trong tố tụng hình sự hay không thì không thể chỉ dựa vào lời kêu cứu của họ hay sự đồn thổi của dƣ luận mà phải có căn cứ (cả căn cứ thực tế và căn cứ pháp lý). Xác định một ngƣời có thuộc trƣờng hợp bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra hay không “nhất thiết phải là một phán quyết của cơ quan có thẩm quyền”. Căn cứ xác định một ngƣời bị oan về bản chất cũng chính là căn cứ để minh oan cho họ. Minh oan ở đây bao gồm: bồi thƣờng các thiệt hại vật chất, tổn thất tinh thần, phục hồi danh dự không chỉ cho ngƣời bị oan mà còn cho cả thân nhân, cơ quan tổ chức nơi họ công tác. Thực chất của việc xác định oan trong tố tụng hình sự là minh oan cho ngƣời vô tội, khắc phục những hậu quả không đáng có đã giáng xuống đầu công dân. TS. Nguyễn Ngọc Chí và Đào Thu Hà khẳng định “Minh oan trong tố tụng hình sự là một quá trình bao gồm nhiều hành vi tố tụng ở các giai đoạn khác nhau của quá trình giải quyết vụ án và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tham gia vào quá trình minh oan có nhiều chủ thể, trong đó có chủ thể phải thực hiện việc minh oan nhƣ một trách nhiệm pháp lý (cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng), có chủ thể chỉ tham gia vào quá trình đó với tƣ cách là ngƣời có quyền chứ không phải có trách nhiệm chứng minh sự vô tội của mình (bị can, bị cáo, ngƣời bị kết án)” [27]. Cũng theo TS. Nguyễn Ngọc Chí và Đào Thu Hà thì: “Cơ chế minh oan trong tố tụng hình sự bao gồm các yếu tố: 1/ Quyền bào chữa (tự bào chữa hoặc nhờ ngƣời khác bào chữa) của bị can, bị cáo; 2/ Trách nhiệm tiến hành các hoạt động minh oan của các cơ quan tiến hành tố tụng; 14
- 3/ Bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan và trách nhiệm pháp lý của các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng đối với việc làm oan ngƣời vô tội” [27]. Rõ ràng cả ở khía cạnh lý luận và theo quy định của pháp luật thực định thì việc xác định một ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự là quyền hạn, đồng thời cũng là trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền mà cụ thể là cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự. Sở dĩ chúng ta khẳng định nhƣ vậy là bởi: chỉ các cơ quan đó mới có thẩm quyền đƣa ra những phán quyết về việc kết tội hay gỡ tội trên cơ sở các quy phạm pháp luật. Điều 72 Hiến Pháp Việt Nam 1992 đã ghi rõ: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.” Điều 9 - Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng tiếp tục khẳng định “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.” Nhƣ vậy việc xác định sự thật vụ án bao gồm đồng thời hai việc: “Làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo” (Điều 10, Bộ luật tố tụng hình sự 2003). Xác định sự thật vụ án là trách nhiệm của các cơ quan tố tụng hình sự nhƣ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Pháp luật về bồi thƣờng nhà nƣớc của nhiều quốc gia cũng khẳng định thẩm quyền xác định một ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng (trong đó có tố tụng hình sự) cũng chính là các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự. Ví dụ pháp luật của cả ba nƣớc Pháp, Hoa Kỳ, Trung Quốc đều quy định căn cứ xác định một ngƣời bị oan là phán quyết của Tòa án có thẩm quyền. 15
- Pháp luật thực định về tố tụng hình sự của Việt Nam hiện hành cũng quy định trong nhiều văn bản liên quan về yếu tố xác định một ngƣời bị oan. Theo đó căn cứ này là những phán quyết của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự. Đây vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của các cơ tiến hành tố tụng hình sự; còn ngƣời bị oan, họ có quyền nhƣng không có nghĩa vụ phải chứng minh sự oan khuất của mình. Chẳng hạn Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhƣng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.” Theo Nghị quyết 388 thì các căn cứ xác định một ngƣời bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra gồm: a) Ngƣời bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; b) Ngƣời bị tạm giam mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giam vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội; c) Ngƣời đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết định của Toà án có thẩm quyền xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; d) Ngƣời bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án ngoài các trƣờng hợp quy định tại các điểm a, b và c mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội. Nhƣ vậy, quy định của pháp luật tố tụng hình sự thực định của Việt Nam hiện hành thì: yếu tố xác định một ngƣời bị oan trong tố tụng hình sự về mặt nội dung là những trƣờng hợp một ngƣời đã bị áp dụng biện pháp tố tụng hình sự nhất định nhƣ bị tạm giữ, tạm giam, bị truy tố, xét xử, thi hành án nhƣng sau đó lại có căn cứ chứng minh ngƣời đó không thực hiện hành 16