Luận văn Vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự

pdf 83 trang vuhoa 25/08/2022 5980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_van_de_minh_oan_trong_to_tung_hinh_su.pdf

Nội dung text: Luận văn Vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự

  1. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt LƯƠNG THỊ HƯƠNG VÊn ®Ò minh oan trong tè tông h×nh sù Chuyªn ngµnh : LuËt h×nh sù M· sè : 60 38 40 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng•êi h•íng dÉn khoa häc: PGS.TS.LS Ph¹m Hång H¶i Hµ néi - 2008
  2. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 3 PHẦN MỞ ĐẦU 4 1. Tính cấp thiết của đề tài 4 2. Tình hình nghiên cứu: 5 3. Mục đích của đề tài 6 4. Nhiệm vụ của đề tài 6 5. Phạm vi nghiên cứu 7 6. Phương pháp nghiên cứu 8 7. Những điểm mới của đề tài 8 8. Cơ cấu của Luận văn 9 NỘI DUNG 10 CHƢƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ MINH OAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 10 1.1. Khái niệm và quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về minh oan trong tố tụng hình sự. 10 1.1.1. Khái niệm oan và minh oan trong tố tụng hình sự. 10 1.1.2. ý nghĩa của việc minh oan trong tố tụng hình sự. 14 1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về minh oan trong tố tụng hình sự: 15 1.1.4. Minh oan trong tố tụng hình sự ở một số nước trên thế giới. 19 1.2. Nguyên tắc minh oan, nội dung và hình thức minh oan trong tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật hiện hành 26 1.2.1. Nguyên tắc minh oan trong tố tụng hình sự: 26 1.2.2. Nội dung của việc minh oan trong tố tụng hình sự. 27 1.2.3. Các hình thức minh oan theo quy định của pháp luật hiện hành: 30 1.2.3.1. Khôi phục danh dự, quyền lợi cho người bị oan: 31 1.2.3.2. Bồi thường thiệt hại cho người bị oan 34 Kết luận chương 1 37 CHƢƠNG 2: TÌNH HÌNH MINH OAN CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA NƢỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA 38 2.1. Một vài nét về oan, sai trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay. 38 2.1.1. Tình trạng oan, sai do cơ quan điều tra gây ra: 39 2.1.2. Tình trạng oan, sai do Viện kiểm sát gây ra: 44 2.1.3. Tình trạng oan, sai do Toà án gây ra: 47
  3. 2.2. Tình hình minh oan đối với người bị oan từ khi có Nghị quyết 388/2003/NQ- UBTVQH11 ngày 17/3/2003 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. 51 2.2.1. Tình hình Cơ quan điều tra minh oan cho người bị oan: 53 2.2.2. Tình hình Viện kiểm sát minh oan cho người bị oan 54 2.2.3. Tình hình Toà án minh oan cho người bị oan 55 2.3. Những khó khăn trong việc minh oan trong tố tụng hình sự 57 2.3.1. Sự chưa phù hợp trong những quy định của pháp luật: 57 2.3.2. Khó khăn từ phía các cơ quan đã gây oan, sai. 63 2.3.3. Khó khăn từ phía người bị oan: 64 2.3.4. Hoạt động kiểm tra, giám sát còn hạn chế. 64 Kết luận chương 2 65 CHƢƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC MINH OAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 66 3.1. Hoàn thiện pháp luật 66 3.1.1. Hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự 66 3.1.2. Bổ sung, sửa đổi Nghị quyết 388/2003/NQ- UBTVQH 68 3.1.3. Xây dựng Luật bồi thường trong hoạt động công vụ: 72 3.1.4. Sửa đổi các quy định pháp luật nói chung theo chỉ đạo cải cách tư pháp của Bộ chính trị 73 3.2. Nhóm các giải pháp hạn chế oan, sai trong tố tụng hình sự 73 3.2.1. Nâng cao trình độ năng lực của người thực thi pháp luật tố tụng hình sự: 73 3.2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trách nhiệm cá nhân của những người lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan có trách nhiệm minh oan cho người bị oan. 73 3.2.3. Tạo điều kiện cho sự tham gia của Luật sư vào quá trình giải quyết vụ án. 74 3.3. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động thực thi pháp luật của những người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và hoạt động minh oan cho người bị oan nói riêng. 74 3.4. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật sâu rộng trong nhân dân. 75 Kết luận chương 3 75 KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78 2
  4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CAND Công an nhân dân CQĐT Cơ quan điều tra BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự TA Toà án TANDTC Toà án nhân dân tối cao TSKH Tiến sỹ khoa học VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao 3
  5. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Những năm gần đây, đất nước đang chuyển mình hội nhập kinh tế quốc tế. Tình hình tội phạm cũng diễn biến phức tạp hơn với nhiều loại tội phạm mới, quy mô lớn, tính tổ chức cao trên nhiều lĩnh vực. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhìn chung đã truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần giữ vững trật tự kỷ cương xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự vẫn còn những trường hợp oan, sai do sai lầm trong áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, vi phạm pháp chế, xâm phạm các quyền và tự do dân chủ cũng như các lợi ích hợp pháp của công dân, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Tình trạng khiếu nại, tố cáo về oan, sai trong tố tụng hình sự kéo dài, khiếu nại vượt cấp vì người bị oan không được giải quyết thoả đáng. Đặc biệt là từ khi pháp luật có sự ghi nhận về quyền được khôi phục danh dự, quyền lợi và bồi thường thiệt hại do oan, sai trong tố tụng hình sự gây ra trong Bộ luật tố tụng hình sự 1988, 2003, Nghị quyết số 388/2003/NQ và các văn bản hướng dẫn thi hành, yêu cầu về “minh oan” càng bức xúc hơn cả. Vấn đề khôi phục danh dự, quyền lợi cho người bị oan trong tố tụng hình sự trở nên vấn đề quan trọng và có tình thời sự. Tinh thần Nghị quyết 388 được quán triệt sâu rộng trong các cơ quan tư pháp, người tiến hành tố tụng, và cả người tham gia tố tụng. Một vụ án được đình chỉ hay một bị can được đình chỉ điều tra, bị cáo được tuyên không phạm tội đều đối chiếu với quy định Nghị quyết 388. Mặt khác, yêu cầu của vấn đề dân chủ trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng ngày càng được nhìn nhận đúng mức. Vì vậy, “vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự” được đánh giá đúng tầm quan trọng cả từ phía Nhà nước và xã hội. Các quyền và tự do dân chủ của con người trong lĩnh vực tư pháp đã được tôn trọng và bảo vệ hơn, được ghi nhận đầy đủ và chặt chẽ trong nhiều 4
  6. quy định pháp luật. Trên thực tế, nhiều vụ án với số lượng người được minh oan ngày càng nhiều. Tuy nhiên, quá trình áp dụng các quy định pháp luật để giải quyết vấn đề minh oan trong tố tụng trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn do chưa có sự đầu tư thoả đáng về mặt lý luận khoa học, con người cũng như cơ sở vật chất cho hoạt động này. Cho đến nay, đã có một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học hay công trình khoa học về “bồi thƣờng thiệt hại trong tố tụng hình sự”. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một bộ phận của “vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự”. Vì vậy, em chọn đề tài “Vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự” làm để tài nghiên cứu Luận văn thạc sỹ luật học của mình với cách tiếp cận toàn diện hơn, mong muốn đóng góp một phần về lý luận khoa học trong quá trình hoàn thiện cơ chế minh oan trong tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu: Hiện nay, đã có những báo cáo khoa học, đề tài khoa học cấp Bộ, luận án tiến sĩ về vấn đề Bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong lĩnh vực tố tụng hình sự như: Đỗ Văn Đương, Mai Anh Thông, Nguyễn Thu Quỳ với đề tài: “Những tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện Nghị quyết số 388/NQ - UBTVQH 11 ngày 17/03/2003 của UBTVQH về bồi thường cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra - Thực trạng và giải pháp”; Lê Mai Anh - Luận án TSKH luật học: “Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra”; Hoàng Thị Hồng Hạnh - Báo cáo khoa học Trường Đại học Quốc gia Hà Nội với đề tài “Bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra”; Chủ yếu những bài viết, công trình nghiên cứu nêu trên đều đề cập đến một mảng của vấn đề minh oan là “Bồi thường thiệt hại cho người bị oan”. 5
  7. Về cơ chế minh oan trong tố tụng hình sự, đã có một số bài viết đăng trên các tạp chí của TS. Nguyễn Ngọc Chí, Đào Thị Hà với bài “Cơ chế minh oan trong tố tụng hình sự”[24], TS. Phạm Hồng Hải với các bài: “Bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị buộc tội”[32], “Mấy ý kiến về vấn đề bảo vệ quyền con ngƣời trong tố tụng hình sự của nƣớc ta”[33]. Cho đến nay, chưa có Luận văn thạc sỹ về “vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự”. Trên cơ sở tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu như nêu trên, em đã chọn đề tài: “Vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình. “Minh oan” bao gồm hai nội dung: 1- Khôi phục danh dự, quyền lợi cho người bị oan và 2 - Bồi thường thiệt hại cho người bị oan. 3. Mục đích của đề tài Trên cơ sở yêu cầu của lý luận, khoa học và thực tiễn của vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự như đã nêu trên, đề tài nghiên cứu đề ra mục tiêu cần đạt được: - Đánh giá được tầm quan trọng của vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự; - Đánh giá được tình hình minh oan trong tố tụng hình sự trong giai đoạn hiện nay, kết quả đạt được và hạn chế; - Kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như cơ chế giải quyết hiệu quả vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự. 4. Nhiệm vụ của đề tài Trên cơ sở mục đích của đề tài, đề tài nghiên cứu cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu các quy định của pháp luật về vấn đề minh oan trong tố tụng, những hạn chế cần sửa đổi, bổ sung; 6
  8. - Thực tiễn áp dụng những quy định pháp luật này trong việc minh oan cho người bị oan; tình hình minh oan cho người bị oan và những khó khăn trong quá trình minh oan, nguyên nhân dẫn đến những khó khăn này; - Tìm ra và kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện về pháp luật cũng như cơ chế giải quyết vấn đề minh oan cho người bị oan trên thực tế. 5. Phạm vi nghiên cứu Hoạt động tố tụng nói chung bao gồm cả tố tụng hình sự và tố tụng dân sự theo nghĩa rộng đã góp phần giải quyết các tranh chấp trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội từ dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân gia đình đến lao động, kinh doanh, thương mại, góp phần giữ gìn an ninh, trật tự xã hội. Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau, hoạt động tố tụng vẫn còn nhiều vụ án bị huỷ, bị đình chỉ hay bị xét xử nhiều lần dẫn đến tốn kém tiền của của công dân cũng như tài sản của Nhà nước, vi phạm nguyên tắc pháp chế, xâm phạm các quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự cũng có những đặc điểm như đã nêu trên. Các biện pháp cưỡng chế về hình sự và tố tụng hình sự là các biện pháp có tính nghiêm khắc hơn so với các biện pháp cưỡng chế của các ngành luật khác. Nó trực tiếp tác động đến các quyền về tài sản cũng như nhân thân người bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế đó. Bên cạnh việc góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm, trừng trị, giáo dục người phạm tội, hoạt động tố tụng hình sự đôi khi vẫn còn gây ra oan sai, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tự do, tính mạng công dân. Họ trở thành những người bị oan do hoạt động tố tụng hình sự gây nên. Đây là sự xâm phạm nghiêm trọng đến quyền tự do, dân chủ của công dân đòi hỏi phải có cơ chế giải quyết thoả đáng - minh oan cho họ. Nội dung Luận văn chỉ đề cập đến “vấn đề minh oan trong lĩnh vực tố tụng hình sự”. 7
  9. 6. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: - Phương pháp phân tích các quy định pháp luật có liên quan đến việc minh oan trong lĩnh vực tố tụng hình sự trong nước. - Phương pháp phân tích các số liệu và đưa ra đánh giá, nhận xét về tình hình oan và minh oan cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự; - Phương pháp tham khảo, so sánh với quy định của pháp luật một số nước trên thế giới; - Tham khảo một số bài viết, công trình nghiên cứu, ý kiến của các nhà nghiên cứu về vấn đề này. 7. Những điểm mới của đề tài - Đề tài đưa ra cách hiểu tổng quát về khái niệm minh oan trong tố tụng hình sự; - Nhìn nhận nghiêm túc và có hệ thống hơn vấn đề minh oan trong phát huy dân chủ và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. - Đánh giá tổng thể tình hình minh oan trong tố tụng hình sự của nước ta trong những năm gần đây; - Tìm ra những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện minh oan cho người bị oan trong thực tế; - Đồng thời đưa ra các giải pháp để việc minh oan tiến hành thuận lợi và hiệu quả hơn. 8
  10. 8. Cơ cấu của Luận văn Luận văn bao gồm phần mở đầu, nội dung và kết luận. Nội dung của Luận văn chia làm 3 chương với các nội dung chính: Chương 1: Nhận thức chung về minh oan trong tố tụng hình sự Chương 2: Tình hình minh oan cho người bị oan trong tố tụng hình sự của nước ta trong thời gian qua Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc minh oan trong tố tụng hình sự. 9
  11. NỘI DUNG CHƢƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ MINH OAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm và quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về minh oan trong tố tụng hình sự. 1.1.1. Khái niệm oan và minh oan trong tố tụng hình sự. Hiện nay, thuật ngữ “oan”, “sai”, “minh oan”, “người bị oan” được sử dụng nhiều trong lý luận cũng như thực tiễn pháp lý ở nước ta, nhất là từ khi có Nghị quyết số 388/2003/NQ - UBTVQH11 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về Bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (sau đây gọi là Nghị quyết 388). Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành (BLTTHS) và Nghị quyết 388 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành đều không định nghĩa thế nào là “oan” , “sai”, “minh oan” và “người bị oan”; trong các sách chuyên khảo về tố tụng hình sự cũng không đề cập đến các khái niệm này. Để có thể hiểu và áp dụng đúng đắn chế định minh oan trong pháp luật tố tụng hình sự thì cần phải đưa ra khái niệm thế nào là “oan”, “minh oan” trong tố tụng: “Oan” trong tố tụng hình sự : Theo từ điển Tiếng Việt, “oan” là tính từ chỉ một người bị quy tội không đúng, phải chịu sự trừng phạt một cách sai trái. “Sai” là chỉ những sự việc không phù hợp với cái hoặc điều có thật, mà có khác đi, không phù hợp với phép tắc, với những điều quy định. Trong BLTTHS và Nghị quyết 388, “oan” “sai” không được định nghĩa nhưng thông qua việc sử dụng thuật ngữ này trong các điều luật cụ thể, những trường hợp được “khôi phục danh dự”, “bồi thường thiệt hại” thì có thể thấy, thuật ngữ “oan” thường đi liền với thuật ngữ “sai”; “oan, sai” được sử dụng rất rộng như oan, sai trong tạm giữ, tạm giam, khởi tố, truy tố, xét xử, kết tội và thi hành án hình sự. 10
  12. Chúng ta cần xem xét qua một số quy định sau: Điều 2 BLTTHS quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” Điều 9: BLTTHS quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” Dựa vào hai quy định nêu trên, có thể thấy, chỉ khi Toà án kết tội hay tuyên vô tội bằng một Bản án có hiệu lực pháp luật thì mới có thể khẳng định một người có phạm tội hay không, khi đó mới có hiện tượng kết tội đúng - tức là không oan, hay kết tội không đúng quy định pháp luật - tức là có oan - oan thì mới phải minh oan. Mặt khác, pháp luật tố tụng hình sự cho phép áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự cần thiết khi có căn cứ do luật định để truy cứu trách nhiệm hình sự một người. Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự - đây là các biện pháp về tố tụng hình sự, được áp dụng để tạo điều kiện cho Toà án ra phán quyết cuối cùng bằng một bản án kết tội hay tuyên vô tội tại phiên toà. Theo đó, mới xuất hiện các trường hợp một người bị kết tội đúng hay kết tội sai - kết tội sai thì người bị kết tội mới được gọi là người bị oan. Do đó, dùng thuật ngữ “oan” chỉ riêng trong trường hợp Bản án tuyên vô tội có hiệu lực pháp luật của Toà án là chính xác nhất Tuy nhiên, các hoạt động tố tụng hình sự như điều tra, truy tố, tạm giữ, lấy lời khai, tạm giam chỉ là các biện pháp về tố tụng (hình thức) được áp dụng trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự một người - đưa các quy định của luật nội dung là Bộ luật hình sự để so sánh, đối chiếu với hành vi nguy hiểm cho xã hội, định tội danh, chuẩn bị cho hoạt động xét xử và ra phán quyết tại phiên toà. Khi người tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp đó trái (sai) quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, có thể sai về trình tự thủ tục hay về căn cứ áp dụng thì dẫn đến oan,sai trong tố tụng. Tại điều 224, khoản 3 BLTTHS: “Nếu bị cáo không phạm tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và phải giải quyết việc khôi phục 11
  13. danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ”. Điều luật này nằm trong Phần thứ 3- xét xử sơ thẩm. Qua đó, có thể thấy pháp luật tố tụng hình sự thừa nhận việc minh oan cho ngƣời bị oan do các hành vi tố tụng trƣớc đó là khởi tố, điều tra, truy tố, cũng nhƣ việc bắt, tạm giữ, tạm giam là đã làm oan bị can. Theo những phân tích nêu trên có thể thấy rằng thuật ngữ oan, sai thƣờng đi liền nhau và đƣợc dùng chung cho các trƣờng hợp tạm giữ, tạm giam, khởi tố, truy tố, xét xử và kết tội, thi hành án sai. “Minh oan” trong tố tụng hình sự: Trong từ điển Tiếng Việt “Minh oan” là một từ Hán Việt có nghĩa là bày tỏ nỗi oan uổng, tức là cho người khác biết được nỗi oan uổng của mình. Còn trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, minh oan được dùng để chỉ hành động của cơ quan, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự phải tiến hành các hoạt động như khôi phục danh dự, quyền lợi và bồi thường thiệt hại cho người bị oan do đã gây thiệt hại cho họ trong khi tiến hành tố tụng. Trong từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp định nghĩa về minh oan như sau: “minh oan tức là khôi phục lại danh dự, quyền lợi và bồi thường thiệt hại do tổn thất tinh thần; thiệt hại về vật chất trong trường hợp người bị oan chết hoặc bị tổn hại về sức khoẻ; trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại trong trường hợp tài sản bị xâm hại hay thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất do người bị tạm giữ, tạm giam mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ, tạm giam vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và hoặc hành vi phạm tội”. [41, tr. 540] Nếu hiểu theo nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt, nội hàm của “minh oan” chỉ bao gồm duy nhất một nội dung là khôi phục danh dự cho người bị oan. 12
  14. Theo định nghĩa của Từ điển luật học, minh oan bao gồm hai hình thức là khôi phục danh dự và bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp bị tạm giữ oan, tạm giam oan. Định nghĩa không nói minh oan cho các trường hợp bị khởi tố, truy tố, xét xử - kết tội oan. “Minh oan” theo quy định của BLTTHS và Nghị quyết 388 bao gồm cả hai hình thức khôi phục danh dự, quyền lợi và Bồi thường thiệt hại cho người bị oan. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan, người tiến hành tố tụng xuất hiện vì các cơ quan, người tiến hành tố tụng này đã “sai” khi áp dụng quy định pháp luật tố tụng hình sự vào việc xác định trách nhiệm hình sự đối với một người, gây ra các tổn thất về vật chất hay tinh thần cho người đó. Pháp luật tố tụng hình sự quy định dù là tổn thất về vật chất hay về tinh thần thì đều phải bồi thường thiệt hại cho người bị oan và bị tổn thất (thiệt hại) đó. Bồi thường thiệt hại là biện pháp khắc phục một phần thiệt hại về vật chất hay tinh thần cho người bị oan, nhưng chỉ áp dụng khi người bị oan có yêu cầu. Theo tôi, "minh oan" cần được hiểu như sau: Minh oan là quyền của người bị oan được phục hồi danh dự, quyền lợi và bồi thường thiệt hại do đã bị tạm giữ oan, tạm giam oan, khởi tố, truy tố, xét xử - kết tội và thi hành án oan. Cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã gây oan có trách nhiệm phục hồi danh dự, quyền lợi và bồi thường thiệt hại cho người bị oan do đã tiến hành tố tụng sai quy định pháp luật đối với họ. Theo đó, người bị oan có quyền được yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng phải phục hồi danh dự và quyền lợi cho họ trước công luận, tức là xin lỗi, cải chính công khai cho hành vi của họ trước công luận là không vi phạm pháp luật, không phạm tội nhưng đã bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế về tố tụng như tạm giữ oan, tạm giam oan, khởi tố, truy tố, xét xử - kết tội và thi hành án 13
  15. oan; quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại về những tổn thất vật chất hay tinh thần do đã bị oan. “Ngƣời bị oan” trong tố tụng hình sự: “Người bị oan” là một khái niệm chỉ đối tượng bị làm oan. Khái niệm này liên quan chặt chẽ với “oan”, “minh oan” trong tố tụng hình sự. Từ những lý giải trên về oan, sai, minh oan, có thể xác định người bị oan trong tố tụng hình sự bao gồm người bị thiệt hại về vật chất hay tinh thần hoặc cả vật chất và tinh thần do bị tạm giữ oan, tạm giam oan, bị khởi tố, truy tố, kết án oan và thi hành án oan. 1.1.2. Ý nghĩa của việc minh oan trong tố tụng hình sự. Minh oan trong tố tụng hình sự là việc làm hết sức cần thiết vì ý nghĩa của nó trên hai bình diện: Ý nghĩa pháp lý: Các hoạt động tố tụng hình sự như tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án do người có thẩm quyền tiến hành đối với người bị oan ở nhiều mức độ đã chứng tỏ sự liên quan của họ vào một hay nhiều tội phạm hình sự (khi bị khởi tố, điều tra, truy tố), hay đã phạm một hay nhiều tội phạm (khi bị xét xử và kết án). Vì vậy, minh oan là sự chứng nhận về mặt pháp lý rằng người bị oan đã không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật (trường hợp bị tạm giữ), hay không thực hiện hành vi phạm tội (trường hợp bị khởi tố, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử). Minh oan là việc pháp luật ghi nhận các quyền cho người bị oan được khôi phục danh dự, các quyền và lợi ích hợp pháp khác cũng như được bồi thường cho những thiệt hại về vật chất, tinh thần do bị oan gây ra. Cơ quan có trách nhiệm minh oan cho người bị oan là cơ quan tiến hành tố tụng đã làm oan người vô tội. Quy định này thể hiện hoạt động minh oan mang tính quyền lực Nhà nước. Cơ quan tiến hành tố tụng được Nhà nước trao quyền thừa nhận đã làm oan người vô tội hay công nhận sự vô tội của họ trước công luận. Quyết định công 14
  16. nhận này có giá trị trên thực tế và hệ quả là người bị oan được khôi phục danh dự, quyền lợi và được bồi thường thiệt hại. Quy định về chế định minh oan trong BLTTHS đã góp phần thể thiện tính dân chủ, tiến bộ của pháp luật tố tụng hình sự nước ta trong chương trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, xây dựng nhà nước pháp quyền. Ý nghĩa xã hội: Minh oan thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, tính công bằng, minh bạch của hoạt động tư pháp nói chung trước công dân. Người bị oan được bù đắp cho những tổn thất về vật chất hay tinh thần để làm giảm bớt những thiệt hại do bị oan gây ra. Minh oan là thước đo giá trị tiến bộ của xã hội. Chỉ có những nước văn minh, dân chủ mới dám thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trước công dân và toàn xã hội đối với những sai lầm của các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp nói chung, tố tụng hình sự nói riêng; đồng thời nó cũng tác động ngược lại quá trình tố tụng, góp phần hạn chế oan sai khi tiến hành tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền. 1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam về minh oan trong tố tụng hình sự: Với mục đích cao cả và thiêng liêng - vì con người - mà đường lối, chính sách Việt Nam đang theo đuổi là xây dựng một Nhà nước Pháp quyền với những hình ảnh, biểu tượng tốt đẹp của nó, cũng như thực hiện các quy định trong Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về các quyền dân sự, chính trị [18]. Đảng và Nhà nước đã đề ra và thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, trong đó đã đánh giá đúng đắn về những yếu kém của công tác tư pháp của nước ta trong thời gian qua. Công tác giải quyết các vụ, việc dân sự, hình sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động, hôn nhân gia đình vẫn còn hiện tượng gây ra oan, sai cho người dân. Đảng và Nhà nước chủ trương tiến hành cải cách tư pháp, vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự cũng được quan tâm một cách thoả đáng. Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ- 15
  17. TW, số 49/NQ-TW để chỉ đạo cải cách tư pháp. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật quy định cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục minh oan cho người bị oan trong tố tụng hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong lĩnh vực này. Quan điểm của Đảng về vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự: Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành các Chỉ thị, Nghị quyết chỉ đạo cải cách tư pháp để nâng cao chất lượng của công tác tư pháp, tránh oan, sai trong tố tụng hình sự. Với những vụ án đã xảy ra oan, sai, cần nhanh chóng tiến hành bồi thường thiệt hại khắc phục những sai lầm của mình trước người bị oan và truớc xã hội. Chỉ thị số 53- CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ chính trị nêu rõ: “Việc bồi thường thiệt hại cần phải được thực hiện đúng trình tự thủ tục đối với những trường hợp cụ thể” Nghị quyết số 08/2002/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ đạo: Khẩn trương ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp bị oan, sai trong hoạt động tố tụng; nghiên cứu xây dựng Quỹ bồi thường thiệt hại về tư pháp. Nghị quyết số 49/2005/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị: Tiếp tục tiến hành cải cách tư pháp trên nhiều phương diện để nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp, tránh oan sai trong tố tụng hình sự. Quan điểm của Nhà nƣớc Việt Nam về vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự. Thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng về chỉ đạo giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị oan do hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật quy định về quyền của người bị oan, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và trình tự, thủ tục tiến hành minh oan cho người bị oan từ Hiến pháp đến các Bộ luật và văn bản dưới luật: 16
  18. Hiến pháp 1992: Tại điều 72 quy định: “Người bị bắt, bị tạm giữ, bị truy tố, bị xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác thì bị xử lý nghiêm minh”. Quy định trên của Hiến pháp xác định quyền của những người bị oan và trách nhiệm của người làm oan trong tố tụng hình sự. Quy định tại điều 72 đã có sự liệt kê những người được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự do hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Việc đạo luật cơ bản nhất là Hiến pháp quy định về vấn đề minh oan cho thấy Nhà nước đã thấy được tầm quan trọng của việc minh oan cho người bị oan trong việc góp phần đảm bảo và nâng cao dân chủ trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ đó, các luật khác cụ thể hoá quy định này và xây dựng cơ chế bảo đảm thi hành trên thực tế vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự. Hơn nữa, các quy định của luật cũng dần được hoàn thiện, được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Bộ luật tố tụng hình sự 1988 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26/08/1988 và các luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội thông qua ngày 30/06/1990 và ngày 09/06/2000 đã có sự ghi nhận về vấn đề minh oan trong hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, quy định này nằm trong nhóm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hoạt động tố tụng và không quy định cụ thể về cơ chế cũng như điều kiện thực hiện hiệu quả trên thực tế. Điều 24, đoạn 3 BLTTHS 1988 về Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng quy định: “Cơ quan đã làm oan phải khôi phục danh dự, quyền lợi và bồi thường cho người bị thiệt hại. Cá nhân có hành vi trái pháp luật thì tuỳ từng trường hợp mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. 17
  19. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 với 346 điều, trong đó đã ghi nhận quyền được minh oan cho người bị oan sai trong tố tụng thành một chế định độc lập tại điều 29 - Đây cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng: “Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật”. Quy định về minh oan trong BLTTHS 1988, 2003 chỉ dừng lại ở mức độ nguyên tắc, chưa có cơ chế thi hành trên thực tế việc minh oan cho người bị oan. Nghị quyết 388/2003/NQ quy định chi tiết về các trường hợp được và không được bồi thường thiệt hại, hình thức minh oan, thu gọn đầu mối cơ quan, người có trách nhiệm minh oan khi có nhiều cơ quan cùng gây ra oan sai cho người bị oan; trình tự, thủ tục khôi phục danh dự, quyền lợi và trình tự yêu cầu bồi thường thiệt hại cho người bị oan. Đây là văn bản quy định chi tiết hơn cả về vấn đề minh oan trong tố tụng hình sự nhưng cũng còn nhiều hạn chế. Nghị quyết chủ yếu điều chỉnh về vấn đề bồi thường thiệt hại. Vấn đề khôi phục danh dự, quyền lợi cho người bị oan chưa được chú trọng đúng mức. Mặt khác, với những lĩnh vực đã có quy phạm pháp luật điều chỉnh cũng bộc lộ nhiều hạn chế, điều này sẽ được làm rõ ở các phần sau của Luận văn. Các luật tổ chức ngành Kiểm sát, Toà án cũng quy định về vấn đề này để quy định cụ thể trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng như sau: Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002, điều 46 quy định: “Viện trưởng, phó viện trưởng, kiểm sát viên, thủ trưởng cơ quan điều tra, điều tra viên trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà gây ra thiệt hại thì Viện kiểm sát nhân dân nơi người đó công tác phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và những người đã gây ra 18
  20. thiệt hại phải có trách nhiệm bồi hoàn cho Viện kiểm sát nhân dân theo quy định pháp luật.” Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002 cũng quy định: “Thẩm phán, hội thẩm nhân dân trong khi thực hiện quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Toà án nơi thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán, Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho toà án nhân dân theo quy định của pháp luật”. Tóm lại, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đồng thời thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trước hoạt động công vụ trong lĩnh vực tố tụng hình sự, Đảng và Nhà nước chủ trương tiến hành minh oan cho những trường hợp bị oan do hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự gây ra. Quyền được khôi phục danh dự và bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra đã được ghi nhận ở nhiều văn bản pháp luật và ở các mức độ cụ thể khác nhau như xác định những người nào là người bị oan, bị thiệt hại do hoạt động tố tụng hình sự gây ra; những trường hợp được và không được bồi thường thiệt hại; cơ quan có trách nhiệm thực hiện việc công khai xin lỗi và bồi thường thiệt hại; cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc minh oan cho người bị oan; trình tự, thủ tục minh oan, nguyên tắc giải quyết bồi thường thiệt hại. Tuy các văn bản pháp luật quy định về vấn đề minh oan đã làm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết nhiều trường hợp oan, sai trong thực tế nhưng các quy định này cần phải được hoàn thiện hơn nữa để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị oan, bảo vệ pháp chế và tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. 1.1.4. Minh oan trong tố tụng hình sự ở một số nƣớc trên thế giới. Qua tham khảo pháp luật một số nước trên thế giới, có thể thấy ở các nước khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và truyền thống pháp luật khác nhau mà có các mức độ giải quyết vấn đề minh oan và bồi thường thiệt hại do oan sai 19