Luận văn Vấn đề kiểm soát đồng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Vấn đề kiểm soát đồng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_van_de_kiem_soat_dong_von_vao_tai_viet_nam_trong_gi.pdf
Nội dung text: Luận văn Vấn đề kiểm soát đồng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM LÊ DUY PHONG VẤN ĐỀ KIỂM SỐT ĐỒNG VỐN VÀO TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NĂM 2007
- Luận văn 1 Lê Duy Phong Vấn đề kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập LỜI MỞ ĐẦU Những thành tựu về kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua là rất ấn tượng, GDP tăng ở mức cao qua nhiều năm liên tục, môi trường chính trị xã hội ổn định, tạo được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, để gia tốc phát triển kinh tế nhằm tránh nguy cơ tụt hậu đòi hỏi phải thu hút vốn đầu tư cho phát triển với quy mô và tốc độ nhanh hơn nữa. Kể từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, cùng với quá trình tự do hóa tài chính, các dòng vốn quốc tế đã chảy mạnh vào các nước đang phát triển. Tuy nhiên, cùng với những lợi ích mà các dòng vốn mang lại (vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý, tăng tính thanh khoản của thị trường v.v.), những rủi ro và bất ổn, thậm chí khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã ngày một gia tăng. Có thể thấy, dòng vốn vào qua đầu tư trực tiếp và gián tiếp đã mang lại tính quyết định nhằm khuyến khích tăng tỷ lệ đầu tư cao và mức tăng trưởng GDP ở Indonesia, Malaysia và Thái Lan. Tuy vậy, dòng vốn vào ngắn hạn mang tính đầu cơ cũng đã làm suy yếu sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô, do dòng vốn này đã làm biến động các biến tài chính chủ đạo kể cả biến tỷ giá của nền kinh tế. Vì thế một số nước đã sử dụng đến những biện pháp kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp nhằm kiềm chế sự di chuyển của dòng vốn ngắn hạn, tránh sự đảo ngược dòng vốn vào. Chính vì thế, trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế, Việt Nam cũng đang nỗ lực thu hút dòng vốn vào nhưng mục tiêu vẫn phải đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững. Việc nhận định đúng bản chất của dòng vốn vào cùng với việc nghiên cứu những tác động đến hệ thống tài chính của tiến trình tự do hóa tài khoản vốn, cũng như những giải pháp nhằm kiểm soát dòng vốn vào trong quá trình hội nhập là lý do thực hiện đề tài nghiên cứu “Vấn đề kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập”. Mong muốn của đề tài cũng chỉ dừng lại bằng việc phân tích tác dụng của dòng vốn đối với nền kinh tế, tính bất ổn của dòng vốn, nhận định những vị thế
- Luận văn 2 Lê Duy Phong Vấn đề kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập cũng như cái giá phải trả của kiểm soát vốn và những bài học rút ra được từ việc kiểm soát dòng vốn vào ở một số quốc gia. Trên cơ sở những vấn đề được nêu ra và phân tích, kết hợp với những điều kiện thực tại của Việt Nam, đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm kiểm soát, định hướng dòng vốn theo hướng dài hạn, hạn chế sự đảo ngược dòng vốn. Đề tài sử dụng phương pháp phân tích số liệu thực tế, phương pháp so sánh tương quan, phương pháp duy vật biện chứng làm các phương pháp thực hiện chủ yếu. Đề tài được bố cục theo 03 chương với nội dung cụ thể như sau : Chương 1 : Dòng vốn vào và kinh nghiệm kiểm soát dòng vốn ở một số nước đang phát triển Chương 2 : Thực trạng dòng vốn vào và việc kiểm soát vốn tại Việt Nam trong những năm qua Chương 3 : Một số giải pháp nhằm kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập
- Luận văn 3 Lê Duy Phong Vấn đề kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập CHƯƠNG 1 : DÒNG VỐN VÀO VÀ KINH NGHIỆM KIỂM SOÁT DÒNG VỐN Ở MỘT SỐ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 1.1 TỔNG QUAN VỀ DÒNG VỐN QUỐC TẾ 1.1.1 Một số khái niệm Dòng lưu chuyển vốn là các giao dịch quốc tế mua bán tài sản thực (bất động sản, máy móc thiết bị, dây chuyền, công nghệ v.v.) và tài sản tài chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản cho vay, trái quyền đối với tiền gửi ngân hàng ). Ngoài ra, còn có các giao dịch tài khoản vốn khác như: tín dụng tài chính, thương mại, giao dịch trên các tài khoản ngân hàng, các nguồn vốn viện trợ chính thức và không chính thức v.v. các dòng lưu chuyển vốn này được ghi nhận trong tài khoản vốn của cán cân thanh toán. Một quốc gia có thâm hụt tài khoản vốn còn được cho là có dòng vốn ra khi nó tích lũy các trái quyền thuần trên phần còn lại của thế giới, đây là một hình thức tiết kiệm quốc gia. Ngược lại, một quốc gia có thặng dư tài khoản vốn hoặc có dòng vốn vào nếu phần còn lại của thế giới tích lũy trái quyền thuần trên nó. Tại Việt Nam, theo Pháp lệnh Ngoại hối có hiệu lực kể từ ngày 01/06/2006 thì giao dịch vốn là giao dịch chuyển vốn giữa người cư trú và người không cư trú trong các lĩnh vực : đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư vào các giấy tờ có giá (đầu tư gián tiếp –FPI), vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài, các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trong đó : - Đầu tư trực tiếp (FDI) : là dòng vốn đầu tư vào quốc gia nhằm mục đích sở hữu và nắm giữ quyền kiểm soát các hoạt động vào quốc gia nhằm mục đích sở hữu và nắm giữ quyền kiểm soát các hoạt động kinh tế nội địa. FDI chủ yếu liên quan đến các giao dịch trên tài sản thực. - Đầu tư gián tiếp (FPI) : là dòng vốn cổ phần đầu tư gián tiếp, bao gồm dòng vốn vay nước ngoài của chính phủ hoặc các doanh nghiệp trong nước và dòng vốn đầu tư cổ phần được tạo thành từ hoạt động của các quỹ đầu tư quốc tế vào các tài sản tài chính nội địa. Như vậy, FPI gồm phần lớn là các giao dịch trên các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu, khoản vay ngân hàng, chứng khoán phái sinh và các hình thức khác nhau của tín dụng (thương mại, tài chính, bảo đảm).
- Luận văn 4 Lê Duy Phong Vấn đề kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập Khi dòng vốn đầu tư quốc tế chảy vào một nước thì FDI là dòng vốn ít bất ổn nhất, dòng vốn FPI bất ổn nhiều hơn. Sự khác biệt này do dòng vốn FDI phải tốn nhiều chi phí để có thể rút vốn về và do đó nó có liên quan đến những điều kiện và nền tảng dài hạn hơn là những dao động ngắn hạn. Ngược lại, dòng vốn đầu tư gián tiếp FPI lại rất nhạy cảm với tỷ suất hoàn vốn ngắn hạn. Hơn nữa, không như những nhà đầu tư FDI, những nhà đầu tư gián tiếp có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư cổ phiếu hoặc trái phiếu của họ rất dễ dàng thậm chí ở những thị trường khác nhau. Trong tiến trình tự do hóa tài chính, giữa FDI và FPI có mối liên hệ tương quan với nhau rất lớn. Sự đa dạng hóa và giao thoa giữa hai nguồn tài trợ này càng lớn thì mức độ hội nhập tài chính càng cao. FDI mang lại những lợi ích cho các nhà tiếp nhận trong nước và đến lượt những chủ thể tiếp nhận FDI có khả năng tiếp cận các nhà đầu tư vốn cổ phần quốc tế (nhà đầu tư gián tiếp) để thu hút nguồn vốn tài trợ cho các dự án đầu tư tăng trưởng. 1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự di chuyển của dòng vốn quốc tế Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự luân chuyển của dòng vốn quốc tế và vì thế ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vốn. Khi mậu dịch tiến triển, chính phủ các nước có thẩm quyền đối với dòng tiền lưu chuyển vào nước đó. Chẳng hạn như chính phủ một nước có thể ấn định một loại thuế đặc biệt đánh trên thu nhập tích lũy của các nhà đầu tư nội địa đã đầu tư ở các thị trường nước ngoài. Một loại thuế như vậy có thể ngăn chặn dân chúng chuyển vốn ra nước ngoài và nhờ đó có thể làm tăng tài khoản vốn nội địa. Tuy nhiên các nước khác bị ảnh hưởng của thuế này có thể trả đũa bằng cách áp dụng một loại thuế tương tự cho dân chúng nước họ. Kết quả là sự sụt giảm đầu tư của nước ngoài của các nhà đầu tư đa quốc gia. Sự luân chuyển vốn cũng chịu ảnh hưởng bởi các biện pháp kiểm soát vốn của các nước. Việc áp dụng các biện pháp này nhằm đối phó với một sự yếu kém về cấu trúc trong vị thế các cân thanh toán của quốc gia. Ngay cả những nước như Úc, Đan Mạch, Pháp, Na Uy có lúc cũng đã áp dụng biện pháp hạn chế chuyển nội tệ ra nước ngoài, dù các năm gần đây trở nên thoáng hơn. Các nhà trung gian tài chính đang mong chờ một ngày các hạn chế được nới lỏng để họ có thể cạnh tranh mãnh liệt hơn trên cơ sở toàn cầu. Kết cấu dân số cũng ảnh hưởng đến sự luân chuyển các dòng vốn. Trong thập niên 1980, dân số Mỹ rất trẻ và nhìn chung những người trẻ cần nhiều vốn hơn là cung cấp chi thị trường cơ bản. Sự thiếu hụt được trang trải bởi đầu tư không phải của Mỹ trong các thị trường vốn Mỹ. Thời gian trôi qua, tuổi trung bình của dân số
- Luận văn 5 Lê Duy Phong Vấn đề kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập thành niên Mỹ tăng lên, sự thâm hụt vốn giảm và do đó nguồn tài trợ từ các nhà đầu tư không phải của Mỹ cũng giảm. Các biến động tỷ giá hối đoái dự báo được do nhà đầu tư vào chứng khoán cũng có thể ảnh hưởng đến tài khoản vốn. Nếu nội tệ một nước được dự kiến mạnh, các nhà đầu tư nước ngoài có thể sẵn sàng đầu tư vào chứng khoán của nước đó để hưởng lợi từ các biến động tiền tệ. Ngược lại, cán cân tài khoản vốn của một nước dự kiến sẽ giảm nếu đồng nội tệ của nước đó được dự kiến suy yếu, khi các yếu tố khác không đổi. Khi muốn đánh giá tính biến động của tài khoản vốn ta phải xem xét đồng thời tất cả các yếu tố. Một quốc gia có thể có sự sụt giảm trong tài khoản vốn ngay cả khi có lãi suất hấp dẫn, nếu đồng ngoại tệ của quốc gia này dự kiến sẽ giảm giá. Ngoài ra, các nhân tố thuộc về luật lệ, chính sách điều hành của chính phủ các nước cũng có tác động nhất định đến các dòng vốn quốc tế. Bên cạnh đó, dòng luân chuyển vốn quốc tế còn được lớn mạnh lên từ việc các nước bãi bỏ những hạn chế đối với các giao dịch trên tài khoản vốn đi cùng với quá trình hội nhập tài chính toàn cầu. Quá trình tự do hóa thương mại đã khuyến khích phát triển các giao dịch tài chính quốc tế cũng như sự hình thành và phát triển những công cụ phái sinh (quyền chọn, hợp đồng tương lai, kỳ hạn, hoán đổi ) đã giúp nhà đầu tư quốc tế giảm thiểu rủi ro trong hoạt động đầu tư của mình. 1.2 TÁC ĐỘNG CỦA DÒNG VỐN QUỐC TẾ 1.2.1 Vai trò và những ảnh hưởng của dòng vốn quốc tế đến nền kinh tế Đối với hoạt động đầu tư cho tăng trưởng kinh tế của một nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư quốc tế có vai trò quan trọng, khi mà tỷ lệ tiết kiệm ở các quốc gia này còn hạn chế. Ở các nước đang phát triển, các dòng vốn đầu tư quốc tế di chuyển tự do có vai trò quan trọng đến nỗi chúng được coi là động lực của sự tăng trưởng kinh tế. Vốn từ bên ngoài sẽ bổ sung vào sự thiếu hụt nguồn tài chính nội địa cho yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế mà không cần phải gia tăng tỷ lệ tiết kiệm. Thông qua việc đầu tư vốn vào một nước, các nhà đầu tư quốc tế sẽ tạo sức ép mạnh hơn từ bên ngoài đối với tính kỷ luật của chính sách kinh tế vĩ mô nội địa. Giúp phát triển thị trường và hoàn thiện các chính sách tài chính quốc gia. Họ cung cấp các loại hình dịch vụ mới và các kỹ thuật đầu tư tiên tiến, giúp các tổ chức tài chính nội địa học tập kinh nghiệm phát triển và giúp các nước này hoàn thiện các
- Luận văn 6 Lê Duy Phong Vấn đề kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập cơ chế quản lý giám sát của mình. Lưu chuyển vốn cho phép các quốc gia tránh được những sự sụt giảm tiêu dùng và đầu tư trong thời kỳ khó khăn, giúp cho nền kinh tế có điều kiện phục hồi vì nhu cầu và đầu tư vẫn được đảm bảo, đồng thời cung cấp tài chính cho các quốc gia để cải tiến công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế nội địa. Trên phương diện toàn cầu, các dòng lưu chuyển vốn giúp phân bố có hiệu quả và sử dụng tốt nhất các nguồn tiết kiệm thế giới. Không có các dòng vốn quốc tế, thì không thể có sự cân bằng suất sinh lợi từ đầu tư giữa các nước, dẫn đến sự phân bổ sai các nguồn lực : những dự án đầu tư có khả năng sinh lợi cao ở một số nước có thể không được thực hiện vì thiếu vốn. Trong khi những dự án có tỷ suất sinh lợi thấp hơn ở những nơi khác lại được cấp vốn. Luân chuyển vốn tự do làm cho lãi suất toàn cầu trở thành chi phí sử dụng vốn và suất sinh lợi từ tiết kiệm tương xứng, chứ không phải lãi suất quốc gia. Tiết kiệm và đầu tư sẽ cân xứng trong phạm vi toàn cầu hơn là trong phạm vi một quốc gia. Như vậy, trong tình huống lý tưởng, đầu tư sẽ được tái phân bổ hướng tới những dự án sinh lời nhất trên cơ sở đã điều chỉnh rủi ro. Các dòng chảy vốn còn tạo ra cơ hội cho các giao dịch tiêu dùng tương lai, đa dạng hóa danh mục đầu tư quốc tế và tối thiểu rủi ro v.v. Ngoài ra, dòng vốn quốc tế còn thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và đào tạo nguồn nhân lực cho nước tiếp nhận. Qua đó, nước tiếp nhận được dòng vốn có thể cải thiện được khu vực tài chính, tăng cường tính thanh khoản của thị trường vốn, tạo sự phát triển sâu hơn và rộng hơn cho thị trường tài chính nội địa. Tuy nhiên, đi cùng với những ưu điểm, thuận lợi tạo ra cho nước tiếp nhận đầu tư, dòng vốn đầu tư quốc tế luôn tiềm ẩn những nguy cơ, rủi ro, bất ổn (đặc biệt là dòng vốn đầu tư gián tiếp) mà thực tế đã minh chứng được qua các cuộc khủng hoảng tài chính. Điều này buộc các nước tiếp nhận dòng vốn quốc tế cần nhận thức rõ. Trước hết, sự di chuyển quá mức của các dòng vốn quốc tế làm giảm tính độc lập của chính sách tiền tệ và tỷ giá, sẽ khiến cho hệ thống tài chính của nước tiếp nhận dễ bị tổn thương và rơi vào khủng hoảng một khi gặp phải cú sốc từ bên trong hay bên ngoài nền kinh tế. Sự di chuyển vốn tự do không phải lúc nào cũng mang lại những phân phối tối ưu các nguồn lực, do các nhà đầu tư không thể đưa ra các quyết định đầu tư hoàn toàn chính xác trong tình trạng thông tin không đầy đủ và thiếu cân xứng. Tình
- Luận văn 7 Lê Duy Phong Vấn đề kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập trạng này cũng khiến cho họ không đánh giá được hết các rủi ro liên quan đến các hoạt động của mình và do vậy, họ có xu hướng bắt chước theo những gì mà các nhà đầu tư khác làm. Hiện tượng này được mô tả là “hành vi cư xử theo đám đông”. Ngoài ra sự phát triển nhảy vọt trong lĩnh vực tài chính đã khiến các nhà đầu tư có thể đầu tư vào bất kỳ một thị trường nước ngoài xa xôi nào hoặc rút vốn ra khỏi thị trường đó một cách dễ dàng (điều này đặc biệt đúng với các trường hợp vốn ngắn hạn). Kết quả là các dòng vốn có thể dễ dàng đổi chiều một cách bất ngờ với quy mô lớn vượt ra ngoài tầm kiểm soát (hiện tượng đảo ngược dòng vốn), dẫn đến thực trạng là : khi dòng vốn đổ vào một quốc gia nào một cách quá mức, nó có xu hướng gây ra tình trạng phát triển quá nóng cho nền kinh tế, làm cho các hoạt động đầu tư trở nên kém hiệu quả, đi kèm là tình trạng “bong bóng” trong giá tài sản và lạm phát tăng cao, bên cạnh đó nguồn cung ngoại tệ dồi dào khiến cho tỷ giá dễ có xu hướng bị đánh giá cao so với giá trị thực của nó. Ngược lại, tình trạng rút vốn có thể xảy ra khi các nhà đầu tư mất niềm tin vào chính sách vĩ mô của Chính phủ hay việc cơ cấu lại danh mục đầu tư. Lúc này với xu hướng bầy đàn và tính bất ổn, sức công phá mạnh của dòng lũ vốn chảy ra có thể làm tiêu tan cả nền kinh tế của một quốc gia. Sự di chuyển của các dòng vốn này nhiều khi không được đưa vào thực trạng những nhân tố nền tảng của nền kinh tế quốc gia đó, kết quả là ngay cả quốc gia có một nền tảng cơ bản vững chắc cũng khó có thể tránh khỏi sự tấn công của các dòng vốn. Đây chính là bản chất các cuộc khủng hoảng mang đặc điểm của thế kỷ 21, một cuộc khủng hoảng cán cân vốn, đối lập với cuộc khủng hoảng cán cân vãng lai truyền thống của thế kỷ 20. Việc tiếp cận quá dễ dàng với các nguồn tài trợ quốc tế có thể dẫn đến gánh nặng nợ quá mức, gây tác động xấu đến sự thịnh vượng và phát triển bền vững của quốc gia đặc biệt là trong trường hợp nợ của nhà nước và các khoản nợ được vay ngắn hạn. Nợ nhà nước lại là phần trách nhiệm của toàn thể đất nước, không phụ thuộc vào thành công hay thất bại của một dự án riêng lẻ nào được tài trợ bằng khoản tiền đi vay này, do đó khuynh hướng sử dụng không có hiệu quả nguồn vốn này là trường hợp thường gặp, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Trong khi đó, các nhà cho vay lại thường thích cung cấp tín dụng cho các chính phủ, bởi vì một quan điểm đơn giản là nợ của những nước có chủ quyền thì dĩ nhiên sẽ được hoàn trả. Như vậy việc vay nợ dễ dàng, trong khi hiệu quả đầu tư để đảm bảo trả nợ thì lại thấp, dẫn đến tình trạng nợ chồng nợ và cuối cùng là mất khả năng chi trả.
- Luận văn 8 Lê Duy Phong Vấn đề kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập Mặc dù với những rủi ro tiềm tàng và bất ổn khó dự đoán như trên, nhưng trong quá trình phát triển kinh tế của bất kỳ một quốc gia nào không thể thiếu sự bổ sung của nguồn lực quan trọng là vốn đầu tư quốc tế. Nên các quốc gia không thể ngăn cản sự di chuyển của các dòng vốn qua biên giới. Vấn đề đặt ra là cần một giải pháp nhằm tối đa hóa lợi ích mà vốn mang lại, trong khi tối thiểu hóa được các rủi ro của chúng. Đối với những quốc gia có nền tài chính yếu kém, hệ thống ngân hàng còn lạc hậu, các quy định kiểm soát còn mỏng manh, thì kiểm soát vốn là một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ thị trường tài chính nội địa. 1.2.2 Nhận định vị thế kiểm soát vốn trong quá trình hội nhập tài chính Kiểm soát vốn là bất kỳ chính sách nào nhằm giới hạn, kiểm soát hay định hướng lại các giao dịch tài khoản vốn ra hoặc vào một quốc gia, nó mang rất nhiều hình thức và được áp dụng cho nhiều mục đích khác nhau phụ thuộc vào bối cảnh kinh tế và mục tiêu của chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia. Tự do hóa tài khoản vốn từng được các nước xem là một yếu tố quan trọng cho mô hình phát triển, vì các nước này thường xuyên thiếu vốn trong khi muốn tăng trưởng. Trong khi nhiều nước đang phát triển đã hưởng được những lợi ích to lớn từ dòng vốn nước ngoài chảy vào trong nước thì sự chấm dứt đột ngột và đảo ngược các dòng vốn này lại dẫn đến các cuộc khủng hoảng với quy mô lớn. Và từ đây kiểm soát vốn đang dành lại vị thế của mình trong cách nhìn nhận của các nhà kinh tế cũng như các nhà hoạch định chính sách vĩ mô. Có thể thấy rằng, việc sử dụng các biện pháp kiểm soát vốn một cách cực đoan có thể ngăn ngừa vốn chạy ra nước ngoài trong thời gian ngắn hạn nhưng có thể làm giảm niềm tin của nhà đầu tư. Cũng cần lưu ý rằng hiệu quả kiểm soát vốn nên xử lý một cách cẩn thận không chỉ bởi vì khả năng của các cơ quan chức năng thực thi quá trình này như NHTW, cơ quan thuế, mà còn vì không giải quyết được những vấn đề tồn đọng một cách cơ bản. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy ở những nước đang phát triển nếu thả lỏng dòng vốn vào sẽ phải đối mặt với áp lực đầu cơ gây ảnh hưởng xấu đến hệ thống tài chính - tiền tệ, ngược lại nếu hạn chế hẳn thì sẽ bỏ qua cơ hội tận dụng vốn quốc tế để phát triển kinh tế. Kiểm soát vốn là biện pháp hữu hiệu, vừa cho phép dòng vốn vào, tạo cơ hội hoàn thiện thị trường tiền tệ trong nước vừa tránh được những tác động tiêu cực của dòng vốn vào. Bởi lẽ kiểm soát vốn tạo ra một bức tường bảo vệ nền kinh tế khỏi những bất ổn của các dòng vốn và ngăn chặn hiệu
- Luận văn 9 Lê Duy Phong Vấn đề kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quả việc đảo ngược dòng vốn đột ngột, đây vốn được xem là nguyên nhân chính gây ra những bất ổn nghiêm trọng cho nền kinh tế của một quốc gia. Kiểm soát vốn có khả năng ngăn chặn sự lây lan của các bất ổn tài chính giữa các quốc gia, đó là các rào cản được thiết lập trong các giao dịch vốn có thể cách ly một quốc gia khỏi những biến động từ quốc gia khác. Điều này có ý nghĩa quan trọng khi mà xu hướng toàn cầu hóa đang phát triển rất mạnh mẽ. Kiểm soát vốn cho phép tiếp cận thường xuyên với các nguồn vốn quốc tế trong một phạm vi có thể kiểm soát được, giúp chính phủ các nước hoàn thiện các chính sách quản lý vĩ mô và tăng kinh nghiệm quản lý. Giới hạn vừa phải giao dịch tài khoản vốn có thể làm cho nền kinh tế phát triển hơn bằng cách bù đắp cho sự bất hoàn hảo của thị trường tài chính, bao gồm sự bất cân xứng về thông tin giữa các nhà đầu tư. Điều này có được là do việc áp dụng các biện pháp kiểm soát trên các nguồn vốn quốc tế đã tạo ra một cơ chế bảo hiểm mạnh mẽ hơn cho sự đầu tư được chấp thuận và tăng cường công khai hóa về thông tin tài chính. Trong một cơ chế tỷ giá cố định hoặc được quản lý chặt chẽ, kiểm soát vốn có thể giúp điều hòa các mục tiêu mâu thuẫn nhau trong các chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia. Ngoài ra, kiểm soát vốn còn tạo được một cơ chế bảo hiểm ngoại hối ngầm để bảo vệ sự ổn định tài chính - tiền tệ của một quốc gia khi phải tiếp xúc với những dòng chảy vốn nóng, nhất là trong trường hợp dòng vào quá nóng làm tăng nguy cơ lạm phát hoặc khi các ngân hàng hay các thành phần kinh tế trong nước rơi vào vị thế ngoại hối không được bảo đảm do nhận thức không đầy đủ về rủi ro. Như vậy, với những ưu điểm của kiểm soát vốn và trước sự phát triển quá mạnh của đầu tư quốc tế cũng như các hoạt động đầu cơ tiền tệ hiện nay, khi mà không một quốc gia nào có đủ khả năng tận dụng hết các nguồn vốn cho sự phát triển mà lại chắc chắn thoát được những biến động bất lợi của nó, các biện pháp kiểm soát vốn cần thiết phải được áp dụng như là một cơ chế bảo hiểm cho nền tài chính nội địa. Vấn đề là lập thời gian biểu cụ thể cho lộ trình tự do hóa tài khoản vốn trong quá trình hội nhập, nên xem xét và áp dụng một cách thận trọng các biện pháp kiểm soát vốn. Và có thể thấy rằng, kiểm soát vốn ở Việt Nam là một điều cần thiết, vấn đề còn lại là thực hiện như thế nào để không gây sốc với nhà đầu tư và thị trường. Làm sao để TTCK tiếp tục phát triển nhanh, lành mạnh và bền vững, bảo đảm lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước là những việc làm nên được cân nhắc một cách cẩn thận.
- Luận văn 10 Lê Duy Phong Vấn đề kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập 1.3 XU HƯỚNG CHUNG CỦA DÒNG VỐN TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY Theo Báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), và Tổ chức Thương mại và Phát triển Liên Hiêp Quốc (UNCTAD), tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2006 đạt 1.225,5 tỷ USD, tăng 4,9% so với năm 2005 và vượt mức ấn tượng 1.000 tỷ USD năm 2000. Trên các thị trường mới nổi, đánh giá của Viện tài chính quốc tế (IIF) cho rằng dòng vốn đầu tư tư nhân năm 2006 đạt 417,9 tỷ USD, tuy giảm đôi chút so với mức tăng kỷ lục 479,6 tỷ USD năm 2005 nhưng đây vẫn là năm có mức tăng cao liên tiếp trong vòng nhiều năm qua. Nhìn chung, xu hướng dòng vốn trong những năm gần đây có thể được khái quát qua các số liệu như sau : Bảng 1.1: Dòng vốn nước ngoài chảy vào các thị trường mới nổi giai đoạn 2004 - 2007 (tỷ USD) Năm 2004 2005 2006 Dự kiến 2007 1.Dòng vốn tư nhân 323,9 479,6 417,9 403,6 - Dòng vốn đầu tư cổ phần 185,3 240,7 259,7 245,2 - Đầu tư trực tiếp 146,8 185,7 201,9 193,7 - Đầu tư gián tiếp 38,5 55,0 57,7 51,5 - Dòng vốn tín dụng nợ 138,6 238,9 158,3 158,4 - Tín dụng ngân hàng thương mại 56,5 131,8 90,6 74,0 2. Dòng vốn tài trợ chính thức -16,0 -56,1 -47,7 -5,9 - Từ các tổ chức quốc tế -14,9 -39,3 -23,0 -4,4 - Tín dụng song phương -1,1 -16,7 -24,7 -1,5 3. Tổng cộng 307,9 423,5 370,2 397,7 Nguồn : Capital Flows to Emerging Makert Economics, Institute of international Finance, tháng 09/2006 Dòng vốn nước ngoài chảy vào các thị trường mới nổi năm 2006 (370,2 tỷ USD) có giảm hơn so với năm 2005 (423,5 tỷ USD), sự suy giảm này chủ yếu do có sự sụt giảm nguồn vốn tín dụng của các NHTM và các TCTD khác trong năm 2006. Trong khi đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp vẫn có xu hướng tăng nhanh do chính phủ các nước tiếp tục thực hiện những chính sách kinh tế vĩ mô ổn định, đẩy mạnh cải cách cơ cấu để tạo sự hấp dẫn về môi trường đầu tư.
- Luận văn 11 Lê Duy Phong Vấn đề kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập Phân tích theo khu vực địa lý, châu Á - Thái Bình Dương chiếm tới 40% tổng dòng vốn đầu tư tư nhân vào thị trường mới nổi trong năm, đạt 178,6 tỷ USD, tiếp theo là các nền kinh tế mới nổi châu Âu chiếm 39,9%, đạt 166,7 tỷ USD. Châu Mỹ Latinh và châu Phi – Trung Đông sau nhiều năm liên tiếp vẫn là hai khu vực tiếp nhận dòng vốn đầu tư tư nhân ít nhất trên thế giới, chỉ chiếm 9,1% và 8,2% dòng vốn tư nhân vào thị trường mới nổi năm 2006. Bảng 1.2: Dòng vốn nước ngoài chảy vào các thị trường mới nổi phân theo khu vực giai đoạn 2004-2007 (tỷ USD) Năm 2004 2005 2006 Dự kiến 2007 1.Dòng vốn tư nhân 323,9 479,6 417,9 403,6 - Mỹ Latinh 35,1 63,9 38 51,4 - Châu Aâu 118,2 186,5 166,7 168,4 - Châu Phi – Trung Đông 10,9 30,4 34,6 29,3 - Châu Á- Thái Bình Dương 159,7 198,8 178,6 154,5 2. Dòng vốn tài trợ chính thức -16,0 -56,1 -47,7 -5,9 - Mỹ Latinh -7,7 -29,3 -17,9 1,6 - Châu Aâu -4,5 -27,8 -26,7 -5,8 - Châu Phi – Trung Đông -3,1 -3,0 -0,4 -2,4 - Châu Á- Thái Bình Dương -0,6 4,0 -2,6 0,7 Nguồn : Capital Flows to Emerging Makert Economics, Institute of international Finance, tháng 09/2006 Trong khi dòng vốn đầu tư tư nhân có xu hướng đạt mức cao trong năm 2006, thì dòng vốn tài trợ chính thức lại liên tiếp có sự suy giảm mạnh. Dòng vốn tài trợ chính thức chảy ra khỏi các nền kinh tế mới nổi năm 2004 là 16 tỷ USD, năm 2005 là 56,1 tỷ USD, năm 2006 là 47,7 tỷ USD. Nếu xét theo thành phần của dòng vốn, năm 2006 cơ cấu thành phần dòng vốn quốc tế chảy vào các thị trường mới nổi có đặc điểm cơ bản sau : - Đầu tư gián tiếp (FPI) tiếp tục có xu hướng gia tăng, năm 2006 đạt 57,7 tỷ USD, vượt mức 55 tỷ USD của năm 2005. Sự gia tăng liên tiếp của dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nhiều năm qua và trong năm nay là do những biến động theo chiều hướng có lợi của môi trường kinh tế ổn định ở nhiều nền kinh tế mới nổi trên thế giới. Tuy nhiên, một thực tế cho thấy hơn 30 năm
- Luận văn 12 Lê Duy Phong Vấn đề kiểm soát dòng vốn vào tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập qua đầu tư gián tiếp luôn chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới, chỉ chiếm khoảng 10-15%. Khu vực châu Á -Thái Bình Dương thu hút tới 40 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp trong năm, tăng nhẹ so với mức 38 tỷ USD của năm 2005 và chiếm 2/3 tổng vốn đầu tư gián tiếp vào thị trường mới nổi. Tại dây, Trung Quốc, Ấn Độ là hai nước chiếm tỷ lệ thu hút đầu tư gián tiếp cao nhất, đạt 30 tỷ USD (Trung Quốc) và 6 tỷ USD (Ấn Độ). - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2006 tăng mạnh, nhưng xu hướng gia tăng trong từng khu vực đang có sự thay đổi. Chiều hướng tăng trưởng kinh tế khả quan của các nền kinh tế cũng như các điều kiện tài chính hấp dẫn đã tạo điều kiện thu hút một lượng lớn dòng vốn FDI trên các thị trường mới nổi. Năm 2006, FDI vào khu vực các thị trường mới nổi là 201,9 tỷ USD, một mức cao chưa từng có sau khi đã đạt mức tăng trưởng kỷ lục 185,7 tỷ USD của năm 2005 và còn được dự báo sẽ là 190 tỷ USD năm 2007. Bên cạnh 5 quốc gia được đánh giá là những nước tiếp nhận FDI hàng đầu thế giới là Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Braxin (chiếm tới hơn ½ dòng FDI đổ vào các thị trường mới nổi), các nước khác (trong đó có Việt Nam) cũng đang nỗ lực cải thiện các chính sách đầu tư của mình như tái cơ cấu ngành, cải thiện cơ sở hạ tầng, hoàn thiện các thể chế, luật pháp v.v. do vậy dòng vốn FDI vào các nước này cũng không ngừng tăng lên. Một yếu tố quan trọng khiến vốn FDI trên thế giới tăng kỷ lục năm nay là làn sóng tư nhân hóa, các vụ mua bán và sáp nhập (M&A) diễn ra trong năm nhanh, mạnh chưa từng có. Làn sóng này bắt đầu bùng nổ từ cuối tập kỷ 1990 và trong năm 2006 các vụ mua bán và sáp nhập ước tính tăng 39% so với năm trước đó. Xem xét sự phân bổ FDI theo từng khu vực, ta có thể thấy một động thái của FDI trong năm nay. Sau nhiều năm tăng trưởng mạnh, năm 2006 dòng vốn FDI vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương có chiều hướng suy giảm. Mặc dù đây vẫn là khu vực đứng đầu trong các nền kinh tế mới nổi trong thu hút FDI, năm 2006 thu hút FDI của khu vực này là 75,2 tỷ USD, chiếm 37,2% tổng FDI vào các nền kinh tế mới nổi. Một điểm đáng chú ý là FDI vào các nền kinh tế mới nổi châu Âu năm 2006 đạt 66 tỷ USD, tăng 78,37% so với năm 2005, do có sự đóng góp rất lớn của dòng FDI vào Thổ Nhĩ Kỳ và Nga. Xu hướng FDI tập trung vào các ngành nhiều tài nguyên, sự tăng trưởng kinh tế quá nóng của Trung Quốc đã mở ra cơ hội đầu tư trong các ngành nguyên liệu thô (dầu mỏ, khí ga ở Nga và Angiêri). Ngoài ra,