Luận văn Vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc, thực trạng và giải pháp

pdf 124 trang vuhoa 25/08/2022 7260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc, thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_vai_tro_cua_phap_luat_doi_voi_viec_xay_dung_dao_duc.pdf

Nội dung text: Luận văn Vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc, thực trạng và giải pháp

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ PHẤN VAI TRß CñA PH¸P LUËT §èI víi VIÖC X¢Y DùNG §¹O §øC THÇY THUèC, THùC TR¹NG Vµ GI¶I PH¸P LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ PHẤN VAI TRß CñA PH¸P LUËT §èI víi VIÖC X¢Y DùNG §¹O §øC THÇY THUèC, THùC TR¹NG Vµ GI¶I PH¸P Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM THỊ DUYÊN THẢO HÀ NỘI - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Thị Phấn
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC THẦY THUỐC 5 1.1. Khái quát về pháp luật và đạo đức, đạo đức thầy thuốc 5 1.1.1. Pháp luật và đạo đức 5 1.1.2. Đạo đức người thầy thuốc 15 1.2. Pháp luật với vai trò xây dựng đạo đức nghề nghiệp 24 1.3. Vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc 28 1.3.1. Pháp luật tạo lập nên các quy tắc hành vi của thầy thuốc 30 1.3.2. Pháp luật là cơ sở để các đơn vị y tế, các cơ quan chủ quản đánh giá về đạo đức thầy thuốc 35 1.3.3. Pháp luật là công cụ để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về đạo đức thầy thuốc 37 1.3.4. Pháp luật góp phần định hướng dư luận xã hội, xây dựng ý thức pháp luật về đạo đức thầy thuốc trong đời sống pháp lý 39 Tiểu kết chương 1 42 Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC THẦY THUỐC 44 2.1. Tác động tích cực của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc 44 2.1.1. Pháp luật đã quan tâm đến xây dựng hành lang pháp lý cho việc tạo lập nên các quy tắc hành vi của thầy thuốc 44 2.1.2. Pháp luật đã bước đầu hình thành được cơ sở để các đơn vị y tế, các cơ quan chủ quản đánh giá về đạo đức thầy thuốc 49
  5. 2.1.3 Pháp luật đã là một trong những công cụ hữu hiệu để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về đạo đức thầy thuốc 52 2.1.4. Pháp luật và việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật đã góp phần định hướng dư luận xã hội, xây dựng ý thức pháp luật về đạo đức thầy thuốc trong đời sống pháp lý 56 2.2. Tác động tiêu cực và những hạn chế của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc 59 2.2.1. Những quy định của pháp luật còn nhiều thiếu sót, hạn chế, quy định rải rác và nhiều chưa thực sự hợp lý đã có tác động tiêu cực đến việc xây dựng đạo đức người thầy thuốc 59 2.2.2 Những quy định về xử lí, xử phạt còn chưa đủ mạnh, chưa thực sự có tác động răn đe, ngăn ngừa những vi phạm pháp luật, vi phạm quy chuẩn y đức 64 2.2.3. Cơ chế xác định thẩm quyền, xử lý vi phạm, quy trách nhiệm còn hạn chế, bộc lộ nhiều yếu kém. Thiếu hụt cơ chế cam kết trách nhiệm giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân khám chữa bệnh với người bệnh 66 2.2.4 Những quy định về nghiên cứu y khoa trong pháp luật Việt Nam còn nhiều hạn chế ảnh hưởng tới việc đánh giá y đức và hình thành nên quy chuẩn y đức 71 2.2.5 Cơ chế điều tra, kiểm tra, giám sát chưa phát huy được hiệu quả, việc thực hiện kiểm tra giám sát của cơ quan hữu quan còn yếu kém 73 2.2.6. Tác động một phía của truyền thông, pháp luật, của dư luận xã hội có ảnh hưởng lớn đến đạo đức người thầy thuốc 74 2.3. Nguyên nhân của những tác động tích cực và tác động tiêu cực trên 75 2.3.1. Nguyên nhân của những tác động tích cực 75 2.3.2. Nguyên nhân dẫn tới những tác động tiêu cực, hạn chế của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức người thầy thuốc và nguyên nhân dẫn đến sự xuống cấp của đạo đức thầy thuốc hiện nay 77 2.4. Một số vấn đề đang đặt ra về vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc ở Việt Nam 84 Tiểu kết chương 2 87
  6. Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC THẦY THUỐC 89 3.1. Yêu cầu nâng cao vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc 89 3.2. Đề xuất một số giải pháp giúp nâng cao vai trò của pháp luật trong xây dựng đạo đức thầy thuốc 93 3.2.1. Những giải pháp nhằm xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh 94 3.2.2 Một số giải pháp nhằm xây dựng môi trường, điều kiện thuận lợi cho người thầy thuốc cống hiến và ngăn chặn những nguyên nhân dẫn đến vi phạm đạo đức 98 3.2.3. Ban hành những quy định pháp luật hướng đến xây dựng đạo đức thầy thuốc mang tính nền tảng, bền vững 104 Tiểu kết chương 3 108 KẾT LUẬN 109 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1 Một số hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp được phản ánh 51
  8. MỞ ĐẦU Trong đời sống nhân loại, sức khỏe con người chưa bao giờ là một vấn đề bị xem nhẹ vì thế nghề y luôn là một nghề cao quý được nể trọng trong suốt chiều dài lịch sử, là nghề hội tụ hài hòa của những giá trị y lý, y thuật, y đức. Và người thầy thuốc, với tài năng thôi chưa đủ, đức độ là điều mà cả xã hội mong muốn và đòi hỏi từ họ, đặc biệt là trong xã hội phức tạp và hiện đại ngày nay. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe gia tăng chính là cơ hội lớn để phát triển ngành y tế, để ngành này trở thành một trong những ngành quan trọng và phát triển hàng đầu, mang lại sự tin tưởng cho người dân. Trong khi đó, thực tế là cũng chưa khi nào mà người dân lại lo ngại khi phải đến bệnh viện, các cơ sở y tế như hiện nay. Bởi lẽ, trong hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ thầy thuốc đã xuất hiện những biểu hiện tiêu cực, làm mờ nhạt bản chất nhân đạo tốt đẹp của y đức truyền thống, gây mất lòng tin trong cộng đồng. Điều này còn khiến cho nhiều người hoang mang tự hỏi về nguyên nhân sự xuống cấp của đạo đức người thầy thuốc và pháp luật đã và đang làm gì để điều chỉnh vấn đề này? Y đức là một vấn đề của đạo đức, đạo đức con người và đạo đức nghề nghiệp, trong khi đó pháp luật lại mang tính quy phạm, là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước. Tuy nhiên mối quan hệ giữa hai khái niệm tưởng như không liên quan này thực tế lại rất chặt chẽ, và pháp luật - có thể nói là đóng một vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng đạo đức của người thầy thuốc. 1. Tính cấp thiết của đề tài Tháng 10 năm 2013, cả nước xôn xao về một vụ việc xảy ra tại thẩm mỹ viện Cát Tường (Hà Nội) khi bác sĩ đứng đầu trung tâm thẩm mỹ này đã vi phạm nghiêm trọng các quy định y tế trong thực hiện nghề nghiệp khiến cho bệnh nhân tử vong, sau đó bác sĩ này đã mang vứt xác phi tang tại sông Hồng. Đồng thời, những vụ việc liên quan đến hàng loạt trẻ sơ sinh chết sau khi tiêm vắc-xin, các trường hợp sản phụ bị tử vong do sự bất cẩn, tắc trách của đội ngũ y bác sĩ thu hút sự chú ý đặc biệt của xã hội, hay trên mạng Internet lan truyền với tốc độ chóng mặt những đoạn clip ngắn quay lại cảnh bác sĩ quát mắng, sách nhiễu người nhà bệnh nhân.Tất cả 1
  9. những sự việc đó làm sôi sục lên trong cả xã hội một mối quan ngại sâu sắc về đạo đức của những một bộ phận không nhỏ thầy thuốc trong xã hội hiện nay, những người được đào tạo nhiều năm trong các trường đại học hàng đầu của cả nước và thuộc lòng lời dạy của Bác Hồ "lương y phải như từ mẫu". Đi tìm câu trả lời cho mối quan tâm mang tên y đức, người ta nghĩ ngay đến việc tìm đến pháp luật như một nguyên nhân lí giải cho những thực trạng trước mắt và cũng như một công cụ hữu hiệu để giải quyết vấn đề nan giải này của xã hội. Pháp luật Việt Nam hiện hành, với một số những quy định liên quan đến việc xây dựng đạo đức của người thầy thuốc đã phần nào định hướng, điều chỉnh và khắc chế được những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực đó. Tuy nhiên những hạn chế trong quy định, hệ thống hóa và điều chỉnh vấn đề này còn khá rõ rệt, cần thiết phải có những quy định rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ hơn trong việc xây dựng đạo đức thầy thuốc. Để mang tới một cái nhìn cụ thể và hoàn chỉnh hơn về vấn đề này với hy vọng đóng góp vào việc nâng cao vai trò của pháp luật trong xây dựng đạo đức người thầy thuốc, tôi sau đây sẽ đi vào nghiên cứu đề tài: Vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc, thực trạng và giải pháp. 2. Phạm vi nghiên cứu đề tài - Đối tượng nghiên cứu: Pháp luật, đạo đức, đạo đức thầy thuốc, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức. - Vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc 3. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm trở lại đây, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề đạo đức người thầy thuốc như cuốn “Đạo đức và y đức Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Hiền, NXB y học, xuất bản năm 1992 đã góp phần làm rõ mối quan hệ giữa đạo đức với đạo đức nghề y, đưa ra yêu cầu chủ yếu về đạo đức và những phương pháp căn bản để rèn luyện đạo đức cho người thầy thuốc. Cuốn “đạo đức y học” của giáo sư Hoàng Đinh Cầu, trường đại học Y Hà Nội xuất bản năm 1991, nêu lên một số nhiệm vụ cụ thể của người thầy thuốc trong quan hệ với người bệnh. Năm 2008, giáo sư Phạm Thị Minh Đức đã công bố đề tài: Nghiên cứu, khảo sát 2
  10. việc thực hành y đức tại một số bệnh viện và mới đây, năm 2011, tiến sĩ Lê Thị Lý cũng đã chọn đạo đức người thầy thuốc làm đề tài cho luận án tiến sĩ của mình với tiêu đề “nâng cao đạo đức người thầy thuốc trong điều kiện hiện nay ở nước ta” Tuy nhiên, nghiên cứu về đạo đức người thầy thuốc dưới góc độ pháp luật thì lại có rất ít bài viết viết về chủ đề này, hiếm hoi có thể kể đến bài viết của tác giả Nguyễn Thị Tố Uyên đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 155, 2005 với tựa đề Pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực y học ở Việt Nam; bài Luận đàm về y đức và pháp luật của Nguyễn Minh Tuấn trên một trang mạng cá nhân và một bài báo đăng trên báo Người Lao Động số tháng 3 năm 2014 của tác giả Ngọc Dung về ý kiến Luật hóa y đức. Như vậy, thực tế là chưa có một công trình nào nghiên cứu về vấn đề vai trò của pháp luật trong xây dựng đạo đức thầy thuốc một cách công phu, đầy đủ, tâm huyết và toàn diện. 4. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là mang tới một cái nhìn tổng quan về mặt lý luận và pháp lí về vai trò của pháp luật trong việc xây dựng đạo đức của người thầy thuốc. Đồng thời chỉ ra những điểm đáng ghi nhận và những điểm còn thiếu sót, tồn tại trong thực trạng vấn đề y đức hiện nay và những ảnh hưởng của pháp luật trong vấn đề này. Từ đó đưa ra những kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao đạo đức người thầy thuốc và hoàn thiện pháp luật hiện hành nhằm đảm bảo vai trò của pháp luật trong xây dựng đạo đức người thầy thuốc. Mục đích trên được cụ thể trong việc khái quát những nhiệm vụ chính của luận văn là: Thứ nhất, làm sáng tỏ về mặt lý luận mối quan hệ và vai trò của pháp luật đối với đạo đức của người thầy thuốc. Thứ hai, nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan để làm sáng tỏ vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng nên đạo đức của người thầy thuốc. Thứ ba, thông qua việc nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành và việc áp dụng pháp luật trong thực tế để đưa ra các đánh giá về thực trạng vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc. 3
  11. Thứ tư, đưa ra những kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc. 5. Phương pháp nghiên cứu Cũng như nhiều khoa học pháp lý khác, trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như quan điểm đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng ngành y tế phát triển toàn diện làm cơ sở phương pháp luận cho việc tìm hiểu nghiên cứu đánh giá vấn đề theo một quan điểm đúng đắn, biện chứng và khoa học. Trong từng nội dung cụ thể, luận văn sử dụng các phương pháp khác nhau một cách có hệ thống và nhất quán nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu như sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, điều tra, khảo sát, Luận văn cũng sử dụng phương pháp so sánh các quy định trong pháp luật của một số quốc gia điển hình, thu thập kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia trong việc quy định và áp dụng các vấn đề liên quan đến xây dựng đạo đức người thầy thuốc. Từ đó, rút ra những ưu và nhược điểm, xem xét tính phù hợp với điều kiện của Việt Nam để hướng tới hoàn thiện các quy định của pháp luật trong xây dựng đạo đức người thầy thuốc và cuối cùng là hướng tới nâng cao đạo đức người thầy thuốc. 6. Kết cấu của luận văn Luận văn về đề tài Vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc, thực trạng và giải pháp ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc Chương 2: Thực trạng vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo đức thầy thuốc. 4
  12. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC THẦY THUỐC 1.1. Khái quát về pháp luật và đạo đức, đạo đức thầy thuốc 1.1.1. Pháp luật và đạo đức 1.1.1.1. Pháp luật Để tổ chức và quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội, có nhiều công cụ, phương tiện được sử dụng, trong đó pháp luật giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Là một hiện tượng xã hội phức tạp, cho nên ngay từ khi mới ra đời cũng như trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, pháp luật luôn là đối tượng được quan tâm, nghiên cứu và trở thành vấn đề gây tranh cãi với nhiều quan điểm trái chiều, không thống nhất giữa các trường phái và thay đổi theo từng giai đoạn. Ở xã hội cộng sản nguyên thủy, không có pháp luật nhưng lại tồn tại những quy tắc ứng xử chung thống nhất, đó là những tập quán và các tín điều tôn giáo. Khi chế độ tư hữu xuất hiện, trong điều kiện xã hội có phân chia giai cấp và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Nhà nước ra đời, để duy trì trật tự thì nhà nước cần có pháp luật như một công cụ để điều chỉnh hành vi con người nhằm duy trì trật tự xã hội. Pháp luật ra đời cùng với nhà nước, không tách rời nhà nước và đều là sản phẩm của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Quan điểm của Mác –Lênin trước đây được nhắc đến như là một quan điểm nhận được nhiều sự đồng tình về hiện diện khách quan của pháp luật trong đời sống xã hội có giai cấp. Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục tiêu, định hướng cụ thể. Luật không chỉ đơn giản là sự hiện hữu bằng hệ thống quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung mà còn bao gồm nhiều yếu tố khác nữa: các nguyên tắc pháp luật, khung pháp luật, chính sách pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và các học thuyết pháp lý. Tiếp theo, pháp luật là một hiện tượng xã hội vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội. Tính giai cấp của pháp luật biểu hiện thông qua nhà nước, tư tưởng của giai cấp thống trị được thể chế hóa thành luật 5
  13. pháp. Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Do đó, pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp. Bên cạnh tính giai cấp, pháp luật còn mang tính xã hội. Pháp luật do nhà nước đại diện chính thức cho toàn xã hội - ban hành. Vì vậy, một mặt, pháp luật thể hiện ý chí và lợi ích của các giai cấp và tầng lớp khác nhau trong xã hội; mặt khác, với tính cách là những quy tắc xử sự chính trong xã hội, pháp luật và thực trạng của hệ thống pháp luật còn là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên, bảo lưu, thừa kế những giá trị tốt đẹp của văn hóa và văn minh truyền thống. Tuy nhiên, theo quan niệm về pháp luật hiện đại thì những quan điểm trên đã bộc lộ nhiều hạn chế. Nhìn vào pháp luật, về bản chất nguyên gốc là mối tương quan giữa con người với con người, giữa con người với tập thể, lâu dần trở thành quy tắc xử sự, mỗi người phải tuân thủ khi giao tiếp với nhau cũng như giao tiếp với xã hội, sau này trở thành một định chế, trở thành khoa học được mọi người tuân theo, được bảo đảm thực hiện và có chế tài khi có sự vi phạm. Vì vậy, pháp luật, hiện nay được hiểu là phương tiện chính thức hóa các giá trị xã hội của quyền con người, là đại lượng của công bằng, công lý, nó chứa đựng và thể hiện các giá trị của đạo đức và hơn nữa, pháp luật là đại lượng chứa đựng, bảo vệ và thể hiện các giá trị quyền con người, dân chủ. Cụ thể: Thứ nhất, pháp luật được yêu cầu phải là đại lượng của công bằng, công lý. Có thể nói, đây là một quan niệm không phổ biến trước đây bởi không phải hệ thống pháp luật nào cũng được xây dựng nhằm hướng tới sự công bằng, công lý cho xã hội mà nó tập trung vào phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị, là công cụ để giai cấp cầm quyền quản lý xã hội. Chính vì vậy, những mâu thuẫn giai cấp, những xung đột về lợi ích và sự bất công bằng luôn hiện hữu khi mà pháp luật không phải là công cụ bảo vệ quyền lợi cho mọi giai tầng. Thay thế quan niệm nhiều hạn chế đó, quan niệm về pháp luật hiện đại hướng tới đại chúng, đến sự công bằng và công lý. Công lý thì không có giai cấp và công bằng không quan tâm đến giai tầng, pháp luật nên là và phải là cán cân công lý để đảm bảo công bằng xã hội. Đó là điều mà một hệ thống pháp luật cần hướng tới và đạt được. Thứ hai, pháp luật phải thể hiện và chứa đựng các giá trị đạo đức. Đạo đức là 6
  14. một hình thái ý thức xã hội ra đời từ rất lâu trước khi con người có ý niệm về pháp luật. Và trong tiến trình phát triển của mình, đạo đức chưa bao giờ bị thay thế hay triệt tiêu bởi một hình thái ý thức xã hội nào khác bởi tầm quan trọng và những giá trị mà nó mang lại. Vì thế mà bất kì một hệ thống pháp luật nào, bao giờ cũng ra đời, tồn tại và phát triển trên nền tảng đạo đức nhất định. Đạo đức là môi trường cho tồn tại và phát triển của pháp luật, là một trong những chất liệu làm nên các quy định trong hệ thống pháp luật, những quan điểm, quan niệm, chuẩn mực đạo đức đóng vai trò là tiền đề tư tưởng, chỉ đạo việc xây dựng pháp luật. Và một hệ thống pháp luật muốn tồn tại và được chấp nhận thì điều tiên quyết là nó không trái với đạo đức và hơn nữa, pháp luật trong quan niệm hiện đại phải là những quy định bao chứa những quy tắc, chuẩn mực và thể hiện những giá trị của đạo đức Thứ ba, pháp luật phải là đại lượng chứa đựng, bảo vệ và thể hiện các giá trị quyền con người, quyền dân chủ. Nếu không có sự thừa nhận của xã hội thông qua pháp luật thì quyền tự nhiên vốn có của con người chưa trở thành quyền thực sự. Các quyền đó được pháp luật hóa và mang tính bắt buộc, được xã hội thừa nhận, bảo vệ. Pháp luật là công cụ sắc bén trong việc thực hiện bảo vệ quyền con người và là tiền đề, nền tảng tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ở đây pháp luật được xem xét không chỉ với tư cách là công cụ, phương tiện của Nhà nước mà còn là công cụ, vũ khí của mọi người trong xã hội để thực hiện, bảo vệ quyền con người. Trong một xã hội không còn đối kháng giai cấp thì Nhà nước là người đại điện cho mọi tầng lớp, gia cấp. Cho nên, hoạt động của Nhà nước và hệ thống pháp luật tự thân đã bao hàm trong đó ý nghĩa các giá trị chân chính là đại lượng của công bằng, công lí và hướng tới bảo vệ các quyền lợi chính đáng của con người. Việc thực thi pháp luật cũng đồng nghĩa với việc đảm bảo trên thực tế các quyền thiêng liêng của con người, sự tôn trọng các giá trị xã hội và các giá trị đạo đức. Với tư cách là phương tiện có vai trò quan trọng nhất để tổ chức và quản lý đời sống xã hội, pháp luật có ba chức năng cơ bản sau: Một là, chức năng điều chỉnh: đây là chức năng bảo đảm điều chỉnh các quan 7
  15. hệ xã hội theo những quy phạm pháp luật. Hai là, chức năng bảo vệ: pháp luật đảm bảo cho các quan hệ xã hội đã được xác lập không bị xâm hại bất luận từ hướng nào bằng các chế tài pháp luật. Ba là, chức năng giáo dục: pháp luật được thể hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức của con người, hình thành ở con người những tư tưởng tình cảm tốt đẹp. Pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa đề cao chức năng này. 1.1.1.2. Đạo đức Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, là sản phẩm của quá trình phát triển lịch sử xã hội, phản ánh tồn tại xã hội về lĩnh vực đạo đức. Danh từ đạo đức bất nguồn từ tiếng Latinh là mos (mois) - lề thói (morialis nghĩa là có liên quan đến lề thói đạo nghĩa). Còn luân lý được xem như đồng nghĩa với đạo đức có gốc từ tiếng Hi Lạp là ethicos - lề thói, tập tục. Khi nói đến đạo đức, tức là nói đến lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong sự giao tiếp hàng ngày. Ở phương Đông, đạo đức là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Hoa cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường, về sau khái niệm đạo đức được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội. Khái niệm đạo đức lần đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà Chu và từ đó trở đi được người Trung Quốc sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của người Trung Hoa cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo. Ở phương Tây, từ lâu vấn đề đạo đức đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà tư tưởng. Cho đến nay người ta vẫn coi Xôcrát (469 - 399 tr.CN) là người đầu tiên đặt nền móng cho khoa học đạo đức. Còn Arixtốt (384 - 322 tr.CN) đã viết bộ sách Đạo đức học với 10 cuốn, trong đó ông đặc biệt quan tâm đến phẩm hạnh của con người. Nội dung phẩm hạnh chính là ở chỗ biết định hướng đúng, biết làm việc thiện. Ông nói: Chúng ta bàn đến đạo đức không phải để biết đức hạnh là gì mà để trở thành 8
  16. con người có đức hạnh. Trong khi đó Êpiquya (341 - 271 tr.CN) lại là người đầu tiên đưa phạm trù “lẽ sống” vào đạo đức học, và là một trong những người có công luận giải về sự tự do của con người. Từ đó đến nay, với bao biến cố, thăng trầm của lịch sử nhưng không bao giờ nhân loại không quan tâm, không bàn luận về vấn đề đạo đức Đạo đức là một vấn đề phức tạp, có nhiều mặt, mỗi khi đối tượng được định nghĩa càng có nhiều mặt phải quan sát bao nhiêu, thì định nghĩa mà người ta đưa ra trên cơ sở các mặt ấy càng khác nhau bấy nhiêu.Với ý nghĩa đó, khó có thể có một định nghĩa đầy đủ, hoàn chỉnh về đạo đức. Từ điển bách khoa Việt Nam cho rằng: Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội, bao gồm những chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi con người trong quan hệ với toàn xã hội. Trong khi đó, với thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, dựa trên sự kế thừa có chọn lọc những quan niệm về đạo đức trước đó, quan điểm Mác xít cho rằng: đạo đức là sản phẩm của điều kiện kinh tế, xã hội. Trong đó nhân tố quy định đạo đức là các quan hệ kinh tế, lợi ích là cái chi phối trực tiếp, là cơ sở khách quan của đạo đức. Dưới góc độ nhận thức luận, đạo đức là một hiện tượng tinh thần, một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, là tính thứ hai so với tồn tại xã hội. Tính chất đặc biệt của đạo đức thể hiện trong quá trình hình thành các quy tắc đạo đức, đó là do sự thừa nhận của số đông trong xã hội hay sự thừa nhận của một giai cấp nhất định. Dưới góc độ chức năng, đạo đức điều chỉnh hành vi của con người bằng những chuẩn mực và quy tắc đạo đức theo yêu cầu của xã hội, mục đích là nhằm đảm bảo lợi ích chung của xã hội hay lợi ích cơ bản của giai cấp đã đề ra chuẩn mực, quy tắc đạo đức ấy. Với chức năng giáo dục, đạo đức giúp cho con người hình thành những quan điểm, nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực cơ bản để đánh giá hành động đạo đức xã hội và những hành vi đạo đức của bản thân mỗi con người. Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, ra đời, tồn tại và biến đổi theo nhu cầu xã hội, nhằm 9
  17. điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội. Sự đánh giá hành vi của con người theo chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Chúng được thực hiện một cách tự nguyện tự giác, xuất phát từ nhận thức, niềm tin cá nhân, truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Do vậy sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, xét về bản chất đạo đức là sự tự lựa chọn của con người. Đạo đức là hệ thống các giá trị. Hệ thống giá trị đạo đức chia thành giá trị chung (lương tâm, bổn phận, ); giá trị riêng (trách nhiệm cá nhân, tính liêm khiết, ). dưới góc độ tác động và tác dụng của giá trị người ta lại chia ra giá trị tích cực (thiện, tốt, hạnh phúc, ) và giá trị tiêu cực (ác, xấu, bất hạnh, ). Đặc trưng của giá trị đạo đức là chỗ nó cấu tạo bởi tính có ích, tính tự giác, tính tự nguyện, và tính không vụ lợi của hành vi. Các hiện tượng đạo đức thường biểu hiện dưới hình thức khẳng định, hoặc phủ định một lợi ích chính đáng, hoặc không chính đáng nào đó. Nghĩa là nó bày tỏ sự tán thành hay phản đối trước thái độ hoặc hành vi ứng xử của các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng xã hội nhất định. Vì vậy, đạo đức là nội dung hợp thành hệ thống giá trị xã hội. Sự hình thành, phát triển và hoàn chỉnh hệ thống giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh của ý thức đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ xã hội, thì hệ thống ấy có tính tích cực, nhân đạo. Ngược lại hệ thống ấy mang tính tiêu cực, phản tiến bộ, phản nhân đạo. 1.1.1.3. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật Lại nói về góc độ lịch sử phát triển, từ hình thức xã hội đầu tiên xã hội cộng sản nguyên thủy, những chuẩn mực đạo đức và tín điều tôn giáo trở thành những quy phạm xã hội, mọi người trong xã hội đều tuân theo một cách tự nguyện do đó là những quy tắc mà họ cùng nhau đặt ra. Đến khi nhà nước ra đời kéo theo sự ra đời của pháp luật thì kể từ đó, đạo đức và pháp luật song song tồn tại cho đến ngày hôm nay. 10
  18. Đạo đức và pháp luật có rất nhiều điểm khác biệt, từ sự hình thành, cách thức ban hành, biện pháp bảo đảm thực hiện, đến trách nhiệm chủ thể phải chịu. Có thể kể đến một vài điểm khác nhau cơ bản như sau: Về con đường hình thành, pháp luật ra đời bằng con đường nhà nước, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận. Trong khi đó đạo đức được hình thành một cách tự do tự phát do nhận thức của cá nhân và cộng đồng khi họ cần có những quy tắc, chuẩn mực chung để điều chỉnh, ổn định trật tự và điều hòa các mối quan hệ xã hội. Về hình thức thể hiện, hình thức thể hiện của đạo đức đa dạng hơn so với hình thức thể hiện của pháp luật, nó được biểu hiện thông qua dạng không thành văn (văn hóa truyền miệng, phong tục, tập quán, ) và đa dạng thành văn (kinh, sách, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật, ) còn pháp luật lại biểu hiện chủ yếu dưới dạng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật (ở một số hệ thống pháp luật của quốc gia trên thế giới thì còn có tiền lệ pháp và tập quán pháp). Về tính chất quy phạm (khuôn mẫu) thì trong khi đạo đức mang tính chung chung, định hướng còn pháp luật thì lại cụ thể, rõ ràng. Đạo đức chỉ nhằm định hướng cho con người nên con người cần tự tìm tòi khám phá và qua dư luận mà điều chỉnh hành vi một cách cụ thể. Đạo đức có nguồn gốc giá trị lâu dài, khi con người ý thức hành vi, tự họ sẽ điều chỉnh hành vi đó. Do sự điều chỉnh đó xuất phát tự tự thân chủ thể nên hành vi đạo đức có tính bền vững. Ngược lại, pháp luật là sự cưỡng bức, tác động bên ngoài, dù muốn hay không người đó cũng phải thay đổi hành vi của mình. Sự thay đổi này có thể là không bền vững vì nó có thể lập lại ở nơi này hay nơi khác nếu vắng bóng pháp luật. Về biện pháp thực hiện, pháp luật đảm bảo bằng nhà nước thông qua các bộ máy cơ quan như cơ quan lập pháp, tư pháp, hành pháp, cảnh sát, còn đạo đức lại được đảm bảo bằng dư luận và lương tâm con người. Bên cạnh đó, sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật được thể hiện ở ba điểm sau đây: Thứ nhất, pháp luật và đạo đức đều có chung mục tiêu, đó là các quan hệ xã 11
  19. hội và hành vi của con người. Pháp luật và đạo đức đều nhằm đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển một cách ổn định và trật tự, qua đó bảo vệ và định hướng những quan hệ xã hội phù hợp với ý chí và lợi ích chung của cộng đồng xã hội và giai cấp thống trị. Pháp luật và đạo đức còn là công cụ hướng hành vi của con người vào những khuôn khổ trật tự nhằm đảm bảo hoạt động bình thường của xã hội. Thứ hai, đạo đức và pháp luật đều mang tính quy phạm phổ biến, chúng là những khuôn mẫu chuẩn mực trong hành vi của con người, tác động đến tất cả các cá nhân, tổ chức trong xã hội và tác động đến hầu hết các lĩnh vực trong đời sống. Thứ ba, pháp luật và đạo đức đều phản ánh sự tồn tại của xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Chúng là kết quả của quá trình nhận thức đời sống của chính mình. Pháp luật và đạo đức đều chịu sự chi phối, đồng thời tác động lại đời sống kinh tế xã hội. Trong mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, với những điểm khác biệt và tương đồng như đã được đề cập ở trên thì đạo đức và pháp luật trong quá trình song hành tồn tại chúng không mâu thuẫn, bài trừ nhau mà lại bổ sung, hỗ trợ và tác động qua lại lẫn nhau, cùng nhau trở thành những quy tắc xã hội để điều chỉnh hành vi của con người. Để hiểu được mối quan hệ khăng khít giữa đạo đức và pháp luật thì cần hiểu được vai trò và tác động qua lại của đạo đức lên pháp luật và ngược lại. Về mặt tác động của đạo đức đến pháp luật, đạo đức có vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành các quy định trong hệ thống pháp luật. Bất kì một hệ thống pháp luật nào bao giờ cũng ra đời, tồn tại và phát triển trên một nền tảng đạo đức nhất định. Những quan điểm, quan niệm, chuẩn mực đạo đức đóng vào trò là tiền đề tư tưởng, chỉ đạo việc xây dựng pháp luật. Thứ nhất, đạo đức tác động đến việc hình thành các quy định trong hệ thống pháp luật Đạo đức là môi trường cho sự phát dinh tồn tại và phát triển của pháp luật, là một trong những chất liệu làm nên các quy định trong hệ thống pháp luật. Những quan điểm, quan niệm, chuẩn mực đạo đức đóng vào trò là tiền đề tư tưởng, chỉ đạo việc xây dựng pháp luật. Sự tác động của đạo đức tới việc hình thành các quy định trong pháp luật 12