Luận văn Vai trò của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong tố tụng hình sự Việt Nam

pdf 91 trang vuhoa 25/08/2022 9220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Vai trò của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong tố tụng hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_vai_tro_cua_luat_su_trong_phong_chong_oan_sai_trong.pdf

Nội dung text: Luận văn Vai trò của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong tố tụng hình sự Việt Nam

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -=-=-=-=-=-=- NGUYỄN VĂN TĨNH VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG PHÒNG, CHỐNG OAN, SAI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2018
  2. VIỆN HÀN LÂM HOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG PHÒNG, CHỐNG OAN, SAI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NGUYỄN VĂN TĨNH chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS TRẦN ĐÌNH NHÃ HÀ NỘI, 2018
  3. MỤC LỤC: MỞ ĐẦU: Từ trang 1 đến trang 4 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG PHÒNG, CHỐNG OAN, SAI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1 Khái niệm phòng, chống oan, sai trong Tố tụng hình sự 1.1.1 Khái niệm phòng chống oan, sai trong Tố tụng hình sự. 5 - 6 1.1.2 Chủ thể gây oan, sai trong Tố tụng hình sự. 6 - 7 1.1.3 Giai đoạn xẩy ra oan, sai. 7 - 8 1.1.4 Trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể gây oan, sai. 8-10 1.2 Vai trò của luật sư trong Tố tụng hình sự 1.2.1 Khái niệm phòng chống oan, sai và phòng, chống oan, sai trong Tố tụng hình sự. 10-14 1.2.2 Cơ sở pháp lý của phòng ngừa và giải quyết oan, sai trong Tố tụng hình sự. 1.2.3 Chủ thể phòng ngừa và giải quyết oan, sai trtong Tố tụng hình sự. 14-20 1.3 Luật sư và vai trò của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong Tố tụng hình sự. 1.3.1 Luật sư và nghĩa vụ của luật sư trong Tố tụng hình sự. 20-21 1.3.2 Vai trò của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong Tố tụng hình sự. 21-30 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG PHÒNG, CHỐNG OAN, SAI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2.1 Thực trạng pháp luật về phòng, chống oan, sai trong Tố tụng hình sự. 31
  4. 2.2 Tình hình oan, sai trong những năm gần đây và nguyên nhân. 2.2.1 Tình hình oan, sai trong Tố tụng hình sự những năm gần đây 31-34 2.2.2 Nguyên nhân của tình hình oan, sai trong Tố tụng hình sự 34- 42. 2.3 Thực trạng hoạt động của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong Tố tụng hình sự 2.3.1 Thực trạng hoạt động của luật sư trong phòng, chống oan, sai thời gian qua 42-44 2.3.2 Những khó khăn, bất cập trong hoạt động của luật sư đối trong phòng, chống oan, sai 44-56 CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN 3.1 Dự báo tình hình oan, sai trong Tố tụng hình sự và định hướng phòng chống. 57-66 3.2 Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của luật sư trong phòng, chống oan, sai. 66- 76 KẾT LUẬN LUẬN VĂN: 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO: 78-83
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bộ luật Tố tụng hình sự BLTTHS Bộ luật hình sự BLHS Xã hội chủ nghĩa XHCN Tòa án nhân dân TAND Công an nhân dân CAND Hội đồng xét xử HĐXX Viện kiểm sát nhân dân VKSND Cơ quan điều tra CQĐT Sách đã dẫn SĐD Nhà xuất bản NXB
  6. MỞ ĐẦU 1 – Tính cấp thiết của đề tài: Tuy oan, sai là điều không ai mong muốn, nhưng là điều khó loại bỏ hoàn toàn . Vấn đề là làm sao để hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan, sai và làm thế nào để sửa sai cho hiệu quả, cảnh tỉnh những sai lầm tương tự trong tương lai. Đã có những công trình nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam như: GS, TS khoa học Đào Trí Úc từng công bố bài viết: “Cải cách tư pháp hình sự và vấn đề phòng, chống oan, sai” Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4/2005; PGS, TS khoa học Lê Văn Cảm đã đưa ra mô hình lý luận về đạo luật TTHS , trong đó tác giả xây dựng nguyên tắc độc lập minh oan trong TTHS (Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự ); TS Bùi Kiên Điện có bài viết về “ khắc phục tình trạng oan, sai trong TTHS”. Tạp chí luật học số tháng 1- 2001; TS Nguyễn Ngọc Chí , Đào Thu Hà “ Bàn về oan sai trong Tố tụng hình sự”- Báo Pháp luật số 138 và số 140 năm 2003. “ Vấn đề oan và chính sách, pháp luật tố tụng hình sự về bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự” - Luận văn thạc sỹ ngành luật hình sự của Phạm Tiến Dũng, khoa Luật trường đại học Quốc gia Hà Nội 2008, “Phòng, chống oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự” Tuy nhiên đến nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu triệt để về oan, sai trong TTHS và thực tiễn cho thấy tình trạng oan, sai trong TTHS vẫn tiếp tục xảy ra. Điều này cho thấy cần có thêm những nghiên cứu công phu về nội dung này để có thể đưa ra các giải pháp, biện pháp hữu hiệu nhằm phòng chống oan, sai trong TTHS. Việt nam đang trên con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, coi trọng quyền con người. Bảo vệ con người là sứ mệnh của Nhà nước và đó cũng là một trong những sứ mệnh của giới luật sư. Vì hoạt động của luật sư liên quan đến lợi ích của nhiều người, có ý nghĩa quan trọng đối với một bản án. Đã có 1
  7. những vụ án, luật sư tìm ra được những chứng cứ gỡ tội cho thân chủ của mình, được HĐXX chấp nhận giảm nhẹ hình phạt, thay đổi tội danh theo hướng có lợi cho bị cáo, thậm chí tuyên vô tội đối với họ theo đúng quy định của pháp luật. Vì vậy: trong phòng, chống oan, sai trong TTHS Việt Nam là giới luật sư đóng góp vai trò quan trọng trong việc : “không làm oan người ngay, để lọt kẻ gian” Chính vì những lý do trên, với tư cách là một luật sư, học viên mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “ Vai trò của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong TTHS Việt Nam”; với hy vọng có cái nhìn toàn diện hơn về phòng, chống oan, sai, từng bước loại trừ việc gây oan, sai cho người vô tội trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. 2– Tình hình nghiên cứu đề tài: Tại Học viện Khoa học xã hội đã có một số đề tài luận văn thạc sỹ liên quan đến luật sư như: “ Pháp luật về tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư qua thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh” của Trần Văn Công ; “Luật sư và bảo vệ quyền con người trong TTHS Việt Nam” của Lê Đăng Tùng; “Địa vị pháp lý của luật sư trong TTHS Việt Nam thực tế tại thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Hữu Lai Những đề tài trên chưa đề cập một cách thấu đáo và có hệ thống vấn đề Vai trò của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong TTHS Việt Nam. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài: “ Vai trò của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong TTHS Việt Nam” là không trùng lặp với bất cứ đề tài nào trước đây. 3 - Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: 3.1- Mục đích nghiên cứu đề tài: Đề tài này làm rõ vai trò, nhiệm vụ của luật sư trong việc phòng, chống oan, sai, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong hoạt động TTHS; đánh giá tính phù hợp của các quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật TTHS liên quan đến oan, sai và phòng, chống oan, sai. Luận giải và đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật 1
  8. hiện hành và kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng và thi hành pháp luật liên quan đến phòng, chống oan, sai. 3.2- Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài : 3.2.1- Xác định cơ sở lý luận về vai trò của luật sư trong phòng, chống oan, sai. 3.2.2- Làm sáng tỏ nội dung, các lĩnh vực thể hiện các quy định của pháp luật TTHS, Luật luật sư đối với vai trò, trách nhiệm của luật sư trong việc phòng, chống oan, sai. 3.2.3- Làm rõ thực trạng tình hình gây oan, sai và những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này. 3.2.4- Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong thời gian tới. 4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: 4.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào chính sách chủ đạo của Đảng, sự thể chế hóa chính sách của Nhà nước trong việc phòng, chống oan, sai. Tập trung nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật và hoạt động của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong TTHS. 4.2- Phạm vi nghiên cứu: Những quy định của Bộ luật TTHS và Luật Luật sư điều chỉnh trực tiếp nội dung: hoạt động của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong TTHS Việt Nam. Thực tiễn hoạt động của luật sư trong phạm vi toàn quốc theo lĩnh vực này trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2015. 5 – Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài: Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong giai đoạn hiện nay. 2
  9. Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, tổng hợp. Các phương pháp trên được sử dụng một cách linh hoạt để đảm bảo hiệu quả và tính thuyết phục của việc nghiên cứu. 6- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: - Luận văn làm rõ khái niệm oan, sai và phòng, chống oan, sai trong TTHS Việt Nam cũng như làm rõ nội dung: vai trò của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong TTHS Việt Nam, trên cơ sở các chính sách, các quy phạm pháp luật điều chỉnh đến các nội dung trên. - Nghiên cứu các quyền và nghĩa vụ của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong TTHS; từ đó phân tích, đánh giá cụ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ này trong thực tiễn thời gian qua. - Những luận điểm trên là cơ sở khoa học để ban hành, tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về phòng, chống oan, sai trong TTHS Việt Nam nói chung và tăng cường vai trò của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong TTHS Việt Nam trong thời gian tới. - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật về: phòng, chống oan, sai trong TTHS Việt Nam; sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về pháp luật, về phòng, chống oan, sai ở các cơ sở đào tạo pháp luật. 7 – Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về oan, sai và phòng, chống oan, sai trong Tố tụng hình sự. Chương 2: Thực trạng oan, sai và hoạt động phòng, chống oan, sai của luật sư trong Tố tụng hình sự. Chương 3: Giải pháp tăng cường vai trò của luật sư trong phòng, chống oan, sai trong Tố tụng hình sự. 3
  10. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG PHÒNG, CHỐNG OAN, SAI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1- Oan, sai trong Tố tụng hình sự : 1. 1 Khái niệm phòng, chống oan, sai trong Tố tụng hình sự: “Oan là: Bị quy cho tội mà bản thân không phạm, phải chịu trừng phạt mà bản thân không đáng phải chịu. [63 tr 479] “ Sai là: Không phù hợp với cái hoặc điều có thật, mà có khác đi. [63 tr 843-844] Oan trong TTHS là bản thân người bị buộc tội không phạm tội, nhưng các cơ quan tư pháp xác định họ phạm tội và thực hiện các biện pháp tố tụng, thậm trí kết án và thi hành hình phạt đối với họ gây tổn hại về mặt vật chất, tinh thần đối với bản thân họ và gia đình. Việc làm oan người vô tội là một hệ quả của hành vi trái (sai) pháp luật. sai trong TTHS là người tuy có hành vi phạm tội nhưng tính chất, mức độ không đúng như nhận định, kết luận của cơ quan và người tiến hành tố tụng mà hậu quả cuối cùng là người bị truy tố, xét xử sai phải gánh chịu những tổn thất nhất định mà đáng ra họ không phải chịu. Đây là kết quả hoạt động, hoặc chất lượng giải quyết vụ án hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng không đúng theo yêu cầu của pháp luật, dẫn đến hậu quả không đáng có. Tuy oan, sai trong TTHS là hai khái niệm, phạm trù khác nhau nhưng lại có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Dù ở mức độ nào thì oan, sai cũng dẫn đến hậu quả tiêu cực đối với cá nhân và gia đình họ, đối với xã hội và đối với Nhà nước, không đảm bảo công lý, công bằng xã hội và ảnh hưởng tiêu cực đến phòng chống tội phạm. Oan, sai là khái niệm không mới trong hoạt động TTHS. Oan, sai không phải là hiện tượng cá biệt mà ở mọi quốc gia, mọi nơi trên thế giới, đâu cũng có oan, sai; cho dù nền tư pháp của một nước yếu kém hay phát triển. pháp luật hiện đại tiếp tục xây dựng những nguyên tắc tiến bộ nhằm đảm bảo quyền của mỗi con người, trong đó có việc không được làm oan, sai người vô tội. 4
  11. Hiện tượng một số hành vi vi phạm nghĩa vụ xác lập từ các giao dịch dân sự, kinh tế, hành chính không cấu thành tội phạm nhưng bị khởi tố, điều tra, truy tố hoặc xét xử theo pháp luật hình sự và TTHS. (hình sự hóa các giao dịch dân sự, kinh tế, hành chính ) đang là vấn đề bức xúc được dư luận, giới nghiên cứu và các nhà hoạt động thực tiễn đặc biệt quan tâm. Tình trạng này không chỉ gây thiệt hại trực tiếp không ít đối với người dân, các nhà doanh nghiệp mà còn làm tổn hại môi trường đầu tư, kinh doanh, gây mất niềm tin vào công lý và tư pháp. Thực tiễn ấy đòi hỏi phải có sự quan tâm nghiên cứu, luận giải của những nhà khoa học pháp lý để sớm có giải pháp khắc phục. Bản chất của hiện tượng này chính là áp dụng pháp luật một cách sai trái, làm oan cho người vô tội. Đối lập với quá trình “Hình sự hóa” là quá trình “Phi hình sự hóa”. Đó là việc người có hành vi phạm tội hình sự mà đáng lẽ họ phải bị xử lý bằng hình sự nhưng các cơ quan chức năng lại chỉ xử lý họ ở mức xử lý hành chính hoặc dân sự. Đây cũng là việc làm sai quy định của pháp luật và sai đối với người phạm tội. 1. 1. 2 Chủ thể gây oan, sai trong Tố tụng hình sự “Chủ thể”: Bộ phận chính, giữ vai trò chủ yếu. Con người với tư cách là một sinh vật có ý thức và ý chí, trong quan hệ đối lập với thế giới bên ngoài [63- tr 179]. Chủ thể gây oan, sai trong TTHS phải là cơ quan, người tiến hành TTHS. Đó là những chủ thể được pháp luật giao thẩm quyền áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án và do đó,có thể có sai lầm dẫn đến oan, sai. 1 – Cơ quan tiến hành tố tụng gồm: a- CQĐT; b- VKS; c- TA. 2 – Người tiến hành tố tụng gồm: a- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, cán bộ điều tra. b- Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; c- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, thẩm tra viên. [3- tr 21] Những cơ quan, người tiến hành tố tụng được Bộ luật TTHS quy định trên đây, có quyền và nghĩa vụ chứng minh có, hay không có hành vi phạm tội của 5
  12. những người, pháp nhân vi phạm, buộc họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi vi phạm pháp luật mà mình đã gây ra. Những người và cơ quan tiến hành tố tụng chính là những chủ thể có thể gây oan, sai trong TTHS và do đó họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi làm oan sai cho người khác. Con người tham gia tố tụng phải có cái tâm trong sáng, tinh thông tri thức. Trong một vụ án thường có nhiều mối quan hệ khác nhau, do nhiều bộ luật khác chi phối chứ không phải chỉ có riêng BLHS, hay bộ luật TTHS. Vậy nên khi xem xét vụ án thì những người và cơ quan tiến hành tố tụng phải tham chiếu cả những luật khác ngoài BLHS và bộ luật TTHS, các văn bản dưới luật khác có liên quan để làm sáng tỏ vụ án, không để xảy ra oan, sai. 1. 1. 3 Giai đoạn xẩy ra oan, sai: Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng như: CQĐT, VKS, TA. Tuy việc xẩy ra oan, sai đều có thể xảy ra trong bất cứ giai đoạn nào trong điều tra, truy tố, xét xử; nhưng thực tế cho thấy thường xảy ra từ trong giai đoạn điều tra. “Từ khi luật trên có hiệu lực, đến hết ngày 31- 12- 2015 trong hoạt động TTHS Tòa án các cấp đã thụ lý, giải quyết 38 vụ việc đòi bồi thường oan, sai, đã giải quyết xong 32 vụ việc, với tổng số tiền phải bồi thường là 37 tỷ 772 triệu 742 nghìn đồng (trong đó có 7 tỷ 272 triệu 247 nghìn đồng của ông Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang), 22 tỷ 977 triệu 183 nghìn đồng của ông Lương Ngọc Phi (Thái Bình), còn 6 vụ việc đang giải quyết; Viện kiểm sát các cấp đã thụ lý, giải quyết đối với 113 vụ việc yêu cầu bồi thường, đã giải quyết xong 93 vụ việc, với tổng số tiền phải bồi thường là 16 tỷ 415 triệu 005 nghìn đồng, còn 20 trường hợp đang giải quyết; Ngành Công an đã thụ lý, giải quyết 11 vụ việc, đã giải quyết xong 7 vụ việc, với số tiền phải bồi thường là 2 tỷ 221 triệu 637 nghìn đồng, còn 4 vụ việc đang giải quyết; cơ quan tiến hành tố tụng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng đã thụ lý, giải quyết 1 vụ việc với số tiền bồi thường là 350 triệu đồng (Quân khu III). 6
  13. Như vậy, trong 6 năm ( 1- 1- 2009 đến 31- 12- 2015): Viện kiểm sát các cấp đã thụ lý, giải quyết 113 vụ việc oan, sai với số tiền trên 16 tỷ đồng; Tòa án các cấp đã thụ lý, giải quyết 38 vụ việc oan, sai với số tiền gần 38 tỷ đồng; Ngành Công an đã thụ lý, giải quyết 11 vụ việc oan, sai với số tiền trên 2 tỷ đồng”. [10] Một số điều tra viên ở địa phương vẫn còn tư tưởng chủ quan, nóng vội, nhất là trước áp lực công việc đòi hỏi phải kết thúc sớm vụ án, do áp lực dư luận Cũng có những trường hợp do tư tưởng thành tích nên trong thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ, chủ quan, thỏa mãn khi thấy bị can nhận tội mà không quan tâm đến chứng cứ khác. Còn trong giai đoạn truy tố, xét xử của Viện kiếm sát và Tòa án cũng không phải là không có những việc làm thiếu tinh thần trách nhiệm, tắc trách chỉ căn cứ vào kết quả điều tra nên dễ dẫn đến oan, sai. Nếu ta tham dự một phiên tòa nào đó thì sẽ thấy tình trạng tại nhiều phiên tòa HĐXX hoàn toàn dựa hẳn vào kết luận điều tra của cơ quan CSĐT, cáo trạng của Viện kiếm sát mà dễ dàng bỏ qua những lỗi sờ sờ của quá trình điều tra và truy tố như: hồ sơ thiếu thủ tục, vật chứng không niêm phong, thiếu vật chứng, không coi trọng những thông tin mới qua quá trình tranh tụng tại phiên tòa, không thu thập chứng cứ mới tại phiên tòa khiến vụ án chỉ được xét xử theo đúng hướng mà kết luận điều tra, cáo trạng đưa ra. 1.1. 4 Trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể gây oan, sai “ Trong qua trình tiến hành tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình. Người vi phạm pháp luật trong việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật”. [3- tr 17] 7
  14. “Tăng cường các biện pháp phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS” cũng đã chỉ rõ: “ Khi đã xác định có oan, sai thì phải kịp thời minh oan cho người bị oan, bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; xử lý nghiêm đối với người mắc sai phạm, xem xét trách nhiệm hoàn trả đối với người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; xử lý trách nhiệm liên đới của người đứng đầu cơ quan gây nên oan, sai, để xảy ra bức cung, nhục hình”; “ Kiên quyết loại bỏ khỏi bộ máy những cán bộ yếu kém về đạo đức và chuyên môn nghiệp vụ ” [50] Gần đây, với việc các cơ quan tố tụng công khai xin lỗi dân, phần nào danh dự của người oan, sai đã được phục hồi, thiệt hại về tinh thần và vật chất cũng đã được bù đắp qua số tiền bồi thường. Thế nhưng những người từng bị ngồi tù oan vẫn không ngừng bức xúc: trách nhiệm của những cán bộ, người có thẩm quyền trực tiếp tiến hành các hoạt động tố tụng dẫn đến oan, sai của công dân sao chưa bị xử lý? Giả dụ nếu như một ông giám đốc ngân hàng nào đó ký sai để gây ra hậu quả mất tiền thì tức khắc ông ấy phải đền lại số tiền đã bị mất của Nhà nước và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đồng nghĩa với vấn đề này, nếu một cá nhân hoặc một tổ chức nào đó trong cơ quan tiến hành tố tụng nếu gây ra án oan, sai, rồi tổ chức xin lỗi, Nhà nước trả tiền bồi thường thì quá đơn giản cho cơ quan tiến hành tố tụng. Số tiền bồi thường này là tiền ngân sách, là tiền thuế của dân đóng góp cho ngân khố quốc gia nhằm phục vụ kế sách dân sinh chứ không phải là để mang bồi thường do những người trong cơ quan tố tụng gây ra oan sai cho dân. Khi phát hiện oan, sai Nhà nước tạm thời trích tiền ngân sách ra để cho những người đã do bất kỳ một lý do nào đó mà gây ra oan, sai “vay” để bồi thường cho những người đã bị oan, sai. Sau đó bằng mọi cách theo đúng quy định của pháp luật phải buộc cá nhân hay tổ chức đó phải trả hoàn trả lại số tiền trên cho ngân sách của Nhà nước. Hiện vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể ai sẽ phải chịu trách nhiệm bồi hoàn( Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên ), tỷ lệ bồi hoàn bao nhiêu, phương thức bồi hoàn như thế nào (?) nên 8
  15. thực tế chưa có ai phải thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn này. Mặt khác cũng cần phải có những hình thức kỷ luật thật nặng, thậm chí phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những cá nhân gây nên oan, sai. Sau khi xử lý cần thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đấy cũng là cách làm hiệu quả để thúc đẩy tiến trình cải cách tư pháp, đảm bảo công bằng xã hội, giữ nghiêm kỷ cương phép nước. 1.2 Vai trò của luật sư trong Tố tụng hình sự: 1.2.1 Khái niệm phòng chống oan, sai và phòng, chống oan, sai trong Tố tụng hình sự: “ Bộ luật TTHS có nhiệm vụ bảo đảm chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm , không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.”. [3- tr 7- 8] Như vậy: “ không làm oan người vô tội” đã được Bộ luật TTHS quy định thành một trong những nhiệm vụ của những cơ quan và những người có thẩm quyền tố tụng. Việc để xảy ra oan, sai trước hết là ở người thực thi pháp luật. Chẳng hạn khi một điều tra viên nhận được thông tin có liên quan đến hành vi phạm tội của một đối tượng mà mình đang được giao trách nhiệm điều tra, thì điều tra viên biết mình phải xử lý những thông tin ấy như thế nào? Quy định của luật pháp ra sao đối với việc xử lý thông tin đó. Cái sai đầu tiên thường bắt nguồn từ cơ quan điều tra . Các thủ tục ban đầu của một tập hồ sơ TTHS, đến các biên bản ghi lời khai của người làm chứng, bị can, đối chất là do cơ quan điều tra thiết lập. Trong bản cáo trạng của Viện kiểm sát hay bản án của Tòa án thường từ 90 đến 95 % là trên cơ sở kết luận điều tra của CQCSĐT và được viết sẵn trước khi mở phiên tòa. Vậy nếu CQCSĐT không công tâm, thậm trí là bức cung, mớm cung, nhục hình trong giai đoạn điều tra. Ngược lại nếu kiểm sát 9
  16. viên lại tắc trách khi đọc tài liệu điều tra để thực hiện chức năng công tố theo luật định, kiểm sát hoạt động tư pháp lại không phát hiện cái gì không phải là chứng cứ, nguồn của nó từ đâu mà ra (?) Khi ra tòa bị cáo phản cung cho rằng mình bị ép cung, mớm cung, nhục hình, khai đi cho xong chuyện Thẩm phán yêu cầu phải đưa ra chứng cứ chứng minh lời khai của mình trước HĐXX thì bị cáo đành phải cúi đầu im lặng. Khi lấy lời khai trong trại tạm giam chỉ có điều tra viên và bị can với nhau nên chỉ có trời biết, đất biết và hai người biết. Từ thực tế nêu trên đã không ít những vụ án oan, sai đã bị xảy ra theo motip này. Phòng, chống oan, sai trong TTHS là việc phòng ngừa không để oan, sai xảy ra, xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật, những sai phạm TTHS của các cơ quan, người tiến hành tố tụng gây ra trong khi thi hành công vụ dẫn đến oan, sai. Giải quyết oan, sai trong TTHS là việc các cơ quan có trách nhiệm theo quy định của pháp luật giải quyết hậu oan, sai do các cơ quan, người tiến hành tố tụng vi phạm TTHS gây ra. Một trong những nhiệm vụ giải quyết oan, sai là phải bồi thường thiệt hại cho người bị oan, sai. ´ “1 – Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra. 2- Người khác bị thiệt hại do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra có quyền được Nhà nước bồi thường thiệt hại.” [3- tr 19] Vậy theo quy định của pháp luật thì những người được bồi thường thiệt hại gồm có: người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, khởi 10
  17. tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật và những người khác bị thiệt hại do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra. CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết bồi thường trong hoạt động TTHS . “Cơ quan điều tra hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là cơ quan giải quyết bồi thường trong các trường hợp sau đây: 1- Đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp mà không có căn cứ theo quy định của Bộ luật TTHS và người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; đã ra lệnh bắt, quyết định tạm giữ nhưng cơ quan, người có thẩm quyền quyết định trả tự do, hủy bỏ quyết định tạm giữ, không phê chuẩn lệnh bắt, không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; 2- Đã ra quyết định khởi tố bị can nhưng Viện kiểm sát không phê chuẩn quyết định khởi tố vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm; 3- Viện kiếm sát quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung , Cơ quan điều tra kết luận điều tra bổ sung hoặc kết luận điều tra mới đề nghị truy tố nhưng Viện kiếm sát ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm.” [ 53 ] Ở nước ta, cùng với Hiến pháp, các Bộ luật TTHS, Bộ luật Dân sự cũng như các văn bản pháp luật hiện hành đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản xác định trình tự, thủ tục khôi phục danh dự và thủ tục bồi thường thiệt hại do hoạt động tố tụng gây ra. Phương thức, kinh phí bồi thường, cơ quan giải quyết bồi thường cũng được quy định cụ thể. Nghị định 47/CP ngày 3- 5- 1997 quy định rõ khi người bị thiệt hại trực tiếp yêu cầu, trong thời hạn 15 ngày, thủ trưởng có thẩm quyền lập Hội đồng xem xét đánh giá và nghị mức bồi thường gửi Thủ trưởng cơ quan tố tụng quyết định. Việc giải quyết bồi thường phải được tiến hành trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu. Điều 14; 15; 11
  18. 16 Nghị định cũng nêu rõ người tiến hành tố tụng gây thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả phí bồi thường cho Nhà nước kể từ ngày có quyết định hoàn trả hoặc trừ dần vào lương với mức lương không quá 30 % và không dưới 10 % tổng thu nhập lương và phụ cấp hàng tháng. Nghĩa vụ của người thi hành công vụ gây thiệt hại như sau: “ Hoàn trả cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại”. [53] Kể từ khi có Nghị quyết 388 và Thông tư liên tịch 01 hướng dẫn thi hành đến nay, trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường cho người bị oan từng bước được đơn giản hóa, nhiều vụ việc được giải quyết kịp thời, giảm phiền hà cho dân. Theo quy định hiện hành thì kể từ ngày nhận được bản án hoặc quyết định có hiệu lực xác định một người bị oan, trong thời gian một tháng, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải tiến hành xin lỗi và cải chính công khai trên báo chí (3 số liên tiếp, trừ trường hợp người bị oan yêu cầu không đăng báo, khoản 1, mục V Thông tư 01). Việc bồi thường thiệt hại vật chất trước hết phải được thông qua thương lượng giữa các bên. Và để được bồi thường, người bị oan phải làm đơn yêu cầu, phải trình “các chứng từ hợp lệ về các chi phí hợp lệ về thu nhập” để cơ quan tố tụng lấy đó làm cơ sở giải quyết bồi thường. Tuy nhiên, một thực tế rõ ràng là thực tiễn bồi thường thiệt hại do hoạt động tố tụng gây ra đang bộc lộ nhiều bất cập. Việc giải quyết bồi hoàn chủ yếu mới dừng ở việc công khai xin lỗi khôi phục danh dự, còn bồi thường vật chất vẫn gặp nhiều khó khăn, thương thuyết bồi thường hiện còn nhiều trở lực; chất lượng, tốc độ bồi thường hạn chế. Rõ ràng là với thực trạng người bị oan chưa có điểm dừng thì việc bồi thường như hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Đó là chưa kể có không ít trường hợp bị truy tố, xét xử sai nhưng không được bồi thường vì chưa được dự liệu bằng quy phạm cụ thể. Nhiều vụ việc kéo dài do thương lượng bất thành và các bên lại phải tốn thêm thời gian, sức lực cho vụ kiện. 1.2.2 Cơ sở pháp lý của phòng, chống oan, sai trong Tố tụng hình sự 12
  19. Phòng, chống oan, sai trong TTHS đang là vấn đề nhức nhối ở nước ta hiện nay. Để góp phần từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại trừ việc oan, sai ra khỏi đời sống xã hội; nhiều năm qua Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, ban hành nhiều đạo luật và văn bản dưới luật để điều chỉnh vấn đề này; song như đã nêu, tình hình oan, sai vẫn chưa thực sự chuyển biến tích cực và việc giải quyết hậu quả oan, sai vẫn gặp nhiều trở ngại. “ người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường về thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”.[ 39- tr 23] BLHS đã quy định rất cụ thể, rõ ràng về những hành vi và chế tài xử lý vi phạm. Thiết nghĩ, những người áp dụng hãy chú ý thực hiện nghiêm những quy định đó thì không thể xảy ra oan, sai. Điều 31 Bộ luật TTHS 2015 quy định về việc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS. Luật bồi thường Nhà nước 2017 đã viện dẫn phần trên, Nghị định của Chính Phủ cũng như các thông tư, hướng dẫn liên ngành cũng đã đề cập rất rõ những chủ trương, biện pháp, cách giải quyết những vấn đề liên quan đến phòng, chống oan, sai trong TTHS. 1.2.3 Chủ thể phòng ngừa và giải quyết oan, sai trong Tố tụng hình sự Có một loại chủ thể ngoài cơ quan tiến hành tố tụng, đó là tổ chức đảng, các cơ quan dân cử như: Quốc Hội, Hội đồng nhân dân; các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức luật sư Như vậy, cần phân biệt hai loại chủ thể trong phòng ngừa oan, sai, đó là: - Cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, công dân( bao gồm cả tổ chức luật sư và các luật sư). Đây là những cơ quan, tổ chức, cá nhân thông qua hoạt động của mình theo quy định của pháp luật thực hiện các chức năng, tổ chức, giám sát kịp thời phát hiện tố giác, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các tổ 13