Luận văn Vai trò của chủ nợ trong thủ tục giải quyết phá sản theo pháp luật Việt Nam

pdf 101 trang vuhoa 25/08/2022 9280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Vai trò của chủ nợ trong thủ tục giải quyết phá sản theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_vai_tro_cua_chu_no_trong_thu_tuc_giai_quyet_pha_san.pdf

Nội dung text: Luận văn Vai trò của chủ nợ trong thủ tục giải quyết phá sản theo pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN THỊ NGỌC MAI VAI TRÒ CỦA CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN THỊ NGỌC MAI VAI TRÒ CỦA CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ CHÂU Hà Nội – 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các kết quả trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. NGƯỜI CAM ĐOAN Đoàn Thị Ngọc Mai
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ VAI TRÒ CỦA CHỦ NỢ TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP 11 1.1. Khái niệm và phân loại chủ nợ 11 1.1.1. Khái niệm chủ nợ 11 1.1.2. Phân loại chủ nợ 14 1.1.3. Thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ 22 1.2. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về quy định vai trò của chủ nợ trong Luật phá sản và gợi mở cho Việt Nam 24 1.2.1. Vai trò của chủ nợ trong pháp luật phá sản của Cộng hòa Pháp 24 1.2.2. Vai trò của chủ nợ trong pháp luật phá sản Nhật Bản 27 1.2.3. Vai trò của chủ nợ trong Luật Phá sản của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 29 Chương 2: VAI TRÒ CỤ THỂ CỦA CHỦ NỢ TRONG CÁC GIAI ĐOẠN GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT PHÁ SẢN HIỆN HÀNH 34 2.1. Các quy định trước khi thực hiện thủ tục tố tụng tại Tòa án 35 2.2. Các quy định về thủ tục tố tụng tại tòa án để giải quyết yêu cầu thông báo phá sản DN 35 2.2.1. Vai trò của chủ nợ trong quá trình nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 35
  5. 2.2.2. Vai trò của chủ nợ đối với việc được thông báo khi DN mất khả năng thanh toán 39 2.2.3. Vai trò của chủ nợ đối với việc cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh DN lâm vào tình trạng phá sản 40 2.2.4 Vai trò của chủ nợ trong việc thương lượng với DN trước khi Tòa án thụ lý đơn 43 2.2.5 Vai trò của các loại chủ nợ khi tham gia Hội nghị chủ nợ 46 2.2.6 Vai trò của chủ nợ trong việc thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DN lâm vào tình trạng phá sản 52 2.2.7. Vai trò của chủ nợ trong giai đoạn tuyên bố phá sản 63 2.2.8. Vai trò của chủ nợ trong việc phân chia tài sản: 66 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP 73 3.1. Thực tiễn một năm thi hành LPS 2014 73 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vai trò của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản DN 74 3.3. Các giải pháp về tăng cường công tác thi hành pháp luật 86 KẾT LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DN : Doanh nghiệp GQPS : Giải quyết phá sản HNCN : Hội nghị chủ nợ LPS : Luật phá sản TTPS : Thủ tục phá sản TAND : Tòa án nhân dân DN : Doanh Nghiệp HNCN : Hội nghị chủ nợ NLĐ : Người lao động HTX : Hợp tác xã
  7. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Nền kinh tế càng phát triển thì mối quan hệ giữa các doanh nghiệp lại càng trở nên căng thẳng, phức tạp. Để có thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp không ngừng cạnh tranh nhau, không ngừng tìm cách để bài trừ, loại bỏ lẫn nhau. Tự do cạnh tranh và phá sản là những thuộc tính vốn có của kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào không đáp ứng được những đòi hỏi nghiệt ngã của thương trường, của sức ép cạnh tranh sẽ bị đào thải. Để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, đồng thời phòng ngừa, khắc phục những hậu quả, rủi ro mà những doanh nghiệp này có thể gây ra cho nền kinh tế, mỗi quốc gia đều phải xây dựng và thực thi một cơ chế phá sản có hiệu quả. Tuy nhiên, do tính chất nhạy cảm và mức độ ảnh hưởng rộng tới nhiều đối tượng khác nhau trong đời sống kinh tế nên cơ chế phá sản luôn đòi hỏi sự can thiệp mềm dẻo, linh hoạt của Nhà nước, phù hợp với những yêu cầu thực tiễn mà hoạt động kinh doanh đặt ra. Phá sản là một hiện tượng kinh tế - xã hội tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh những hậu quả gây ra cho nền kinh tế mà các doanh nghiệp bị phá sản gây ra, phá sản cũng có những ảnh hưởng tích cực không thể phủ nhận, đó là việc cơ cấu lại nền kinh tế một cách có trật tự, đào thải những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả ra khỏi thương trường, bảo đảm một môi trường kinh doanh phát triển bền vững. Ở Việt Nam, sau gần 30 năm tiến hành đổi mới toàn diện đất nước kể từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI vào tháng 12 năm 1986, cho đến nay, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn đang trên đà phát triển và dần được định hình rõ nét. Bằng chứng là số lượng các doanh nghiệp gia tăng mạnh mẽ với đa dạng 1
  8. loại hình kinh doanh, mang lại một bức tranh đầy màu sắc. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội và sự hội nhập kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam cũng phải đương đầu với những cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài, đối diện với không ít nguy cơ và thách thức to lớn khiến cho hàng loạt doanh nghiệp ở nước ta làm ăn thua lỗ, bị phá sản hoặc đứng trước bờ vực phá sản. Trong bối cảnh đó, pháp luật về phá sản ở Việt Nam cần phải bắt kịp với xu thế của thời đại, có sự điều chỉnh phù hợp để đảm bảo việc thực thi trên thực tế một cách có hiệu quả. LPS 2014 được đánh giá là một bước tiến bộ lớn trong kỹ thuật lập pháp so với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và LPS 2004, đưa những quy định của pháp luật về phá sản tiến gần với những quy định phá sản của các nước đang hội nhập và phát triển. Tuy nhiên, với những gì đang diễn ra trong thời gian qua, khi đánh giá về hiệu quả điều chỉnh của LPS 2004, nhiều ý kiến cho rằng văn bản này có hiệu quả điều chỉnh quá thấp, ít tính khả thi cũng như không phản ảnh hết yêu cầu và thực trạng giải quyết phá sản ở Việt Nam. Trong thực trạng đó, việc sửa đổi bổ sung LPS 2004 nói riêng và tiếp tục hoàn thiện pháp luật phá sản nói chung là một yêu cầu cấp thiết. Đáp ứng yêu cầu đó, LPS 2014 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014 và đã có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015. Giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp là một quá trình tố tụng tư pháp với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, trong đó, thể hiện rõ nét vai trò quan trọng của các chủ nợ. Bên cạnh vai trò quyết định của Tòa án, chủ nợ được xem là người góp công sức to lớn trong việc giải quyết phá sản doanh nghiệp. Điều đó dựa trên tinh thần bảo vệ quyền và lợi ích cho chủ thể bị ảnh hưởng lớn nhất trước nguy cơ một doanh nghiệp bị phá sản, vì một “con nợ chết” sẽ kéo theo hàng loạt chủ nợ có thể đứng trước nguy cơ mất 2
  9. trắng tài sản và lâm vào tình trạng bi đát về tài chính. Bởi vậy, LPS 2014 đã có những quy định xuyên suốt đề cao vai trò của các chủ nợ trong quá trình tiến hành thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành cho thấy việc triển khai vai trò của các chủ nợ theo tinh thần của LPS còn gặp nhiều khó khăn, nguyên nhân là do các chủ nợ chưa thấu hiểu hết được vai trò quan trọng của mình trong việc giải quyết phá sản doanh nghiệp; đồng thời những quy định của LPS 2014 vẫn còn nhiều bất cập, chưa bắt kịp với sự phát triển của xã hội và tư duy lập pháp tiên tiến trên thế giới cũng như thiếu tính khả thi khiến cho các chủ nợ chưa phát huy được vai trò của mình trên thực tế. Hơn thế nữa, trong giai đoạn kinh tế suy thoái và đang có dấu hiệu phục hồi như hiện nay, việc các chủ nợ khẳng định được vai trò của mình trong quá trình xử lý phá sản doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với hiệu quả giải quyết thật tốt các vụ phá sản nhằm cơ cấu lại một nền kinh tế có trật tự, thúc đẩy sự phát triển vượt trội ở giai đoạn hậu suy thoái. Đây là yêu cầu có tính cấp thiết cả về mặt lý luận pháp lý và thực tiễn thi hành, nó tác động không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế - xã hội của nước ta, do đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Vai trò của chủ nợ trong thủ tục giải quyết phá sản theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Có thể nhận thấy kể từ khi pháp luật về phá sản bắt đầu hình thành ở nước ta, cụ thể là từ khi Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 ra đời cho đến nay, đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu và phân tích các quy định trong hệ thống pháp luật phá sản, chỉ ra những bất cập mà LPS hiện hành đang mắc phải, trong đó có cả những quy định về chủ nợ và vai trò của nó. Xung quanh vấn đề này, đã có nhiều công trình nghiên cứu do các nhà khoa học và người làm công tác thực tiễn ở Việt Nam thực hiện. Các công trình nghiên cứu về các chủ nợ được thực hiện dưới nhiều hình thức và cấp độ khác nhau, trong đó có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: 3
  10. - Luận án tiến sĩ luật học của TS. Trương Hồng Hải (2004) :“Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ so sánh và phương hướng hoàn thiện”. Luận án này tập trung nghiên cứu so sánh LPS DN năm 1993 của Việt Nam với LPS của một số nước như Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Cộng hòa liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa với những vấn đề chủ yếu: Xác định tình trạng phá sản, phạm vi đối tượng của LPS, quản lý tài sản phá sản, mô hình thủ tục phá sản. Luận án nghiên cứu, đánh giá LPS Việt Nam trong mối quan hệ so sánh với LPS của một số quốc gia trên cơ sở vận dụng các nguyên tắc của luật so sánh. Mặc dù đã nêu và phân tích được một số nét về vấn đề tài sản và quản lý tài sản theo LPS, nhưng luận án chủ yếu đi sâu vào các khía cạnh về mặt thủ tục tố tụng, chưa nêu lên các đặc thù về vai trò của các chủ nợ trong DN khi giải quyết yêu cầu phá sản. - Đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ kế hoạch và đầu tư (2004): “Thực trạng phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam”do ThS. Nguyễn Kim Anh làm chủ nhiệm. Nội dung của đề tài này chủ yếu tập trung nghiên cứu và đánh giá pháp luật về phá sản ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật phá sản ở Việt Nam, chỉ ra những bất cập trong việc thực thi pháp luật về phá sản và kiến nghị giải pháp hoàn thiện. Công trình này đã đề cập một cách có hệ thống và toàn diện các vấn đề của LPS. Tuy nhiên, cho đến nay, khi LPS 2004 đã trải qua 10 năm thi hành, LPS 2014 trải qua hơn 01 năm thi hành thì các phân tích của tác giả phần nào chưa bao quát hết các vấn đề phát sinh và một số kiến nghị đã thể hiện tính không phù hợp với điều kiện áp dụng của nền kinh tế Việt Nam. - Luận văn Thạc sỹ Luật học của ThS. An Phương Huệ (2004): “Luật Phá sản của Việt Nam và Luật Phá sản của Cộng hòa Pháp – những nét tương đồng và khác biệt” - luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp 4
  11. luật Phá sản Việt Nam trong mối liên hệ so sánh với Luật Phá sản Pháp, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm góp phần hoàn thiện pháp luật phá sản ở nước ta. Nhắc đến việc phân tích các quy định của pháp luật về thủ tục phá sản, trong đó tác giả có đề cập đến vai trò của chủ nợ khi tham gia quá trình giải quyết phá sản với tư cách là một chủ thể quan trọng, không thể không kể đến Luận văn thạc sỹ luật học “Quyền của chủ nợ là người lao động trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp” của Th.s Trần Ngọc Diệp. Luận văn này tập trung nghiên cứu về nội dung quyền lợi của người lao động trong vai trò là chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Luận văn không chỉ làm rõ vấn đề mà còn có những so sánh, đưa ra được những kinh nghiệm quốc tế liên quan đến đề tài. Đồng thời trong nội dung đề tài cũng đã đề xuất được các phương án, đưa ra các kiến nghị có ích để hoàn thiện hơn nữa pháp luật về phá sản ở Việt Nam. - Luận án tiến sĩ của TS. Vũ Thị Hồng Vân (2008): “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu phân tích và luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý và xử lý tài sản phá sản, đưa ra đánh giá và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam trong thủ tục phá sản DN, tạo sơ sở pháp lý để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ và những chủ thế khác có liên quan đến quá trình giải quyết các vụ án phá sản ở Việt Nam. - Đề tài khoa học của Bộ tư pháp do PGS.TS. Dương Đăng Huệ và ThS. Nguyễn Thanh Tịnh làm chủ nhiệm: “Thực trạng pháp luật về phá sản và việc hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam”. Đề tài đã đi sâu vào phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục phá sản và tập trung vào vấn đề thực trạng thực hiện quản lý, thanh lý tài sản của DN. Đề tài đã làm rõ thực trạng giải quyết yêu cầu mở TTPS, phát hiện những tồn tại, hạn chế của LPS 2004, các văn bản pháp luật có liên quan cũng như các 5
  12. yếu tố khác làm ảnh hưởng đến việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trong phạm vi nhất định, đề tài cũng đã đề cập tới một số vấn đề về vai trò của chủ nợ trong quá trình GQPS nhưng chưa đi sâu tìm hiểu kỹ. Bên cạnh đó, có thể kể đến các công trình nghiên cứu dưới dạng bài viết tạp chí đề cập đến một số khía cạnh liên quan đến LPS và có nhắc đến các quy định về chủ nợ như bài viết “Về một số nội dung của LPS 2004” của tác giả Ngô Cường được đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, số 16/2007; bài viết “Những vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật Phá sản” của tác giả La Minh Tường đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, số 15/2012; hay bài viết “Mạn đàm về một số quy định về Hội nghị chủ nợ trong Luật Phá sản 2004” của tác giả Nguyễn Thị Tình và Đỗ Phương Thảo được đăng trên Chuyên đề báo Pháp luật số tháng 6/2013; v.v Hầu hết các công trình nghiên cứu đều tập trung khai thác một cách tổng thể các quy định của LPS để từ đó đánh giá và đưa ra được những kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Xét về góc độ nghiên cứu riêng về chủ nợ trong LPS thì có rất ít công trình nghiên cứu tập trung phân tích sâu sắc vấn đề này, có thể kể đến một vài công trình nghiên cứu hướng đến đối tượng nghiên cứu là chủ nợ như bài viết “Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục Phá sản” của tác giả Trần Văn Tú và Nguyễn Văn Giang được đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng quốc hội, số 03/2012. Tuy nhiên, hầu như chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về vai trò của chủ nợ - một chủ thể rất quan trọng tham gia vào quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp. Do đó, với đề tài nghiên cứu của mình, trên cơ sở kế thừa những đánh giá, phân tích của các công trình nghiên cứu trước, tác giả hy vọng sẽ góp thêm một “đường nét” mới mẻ vào “bức tranh” 6
  13. hoàn thiện LPS nước nhà và không có sự trùng lặp bởi các công trình nghiên cứu khác. 3. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của LPS 2014 và thực trạng về vai trò của chủ nợ trong DN kể từ khi DN lâm vào tình trạng phá sản đến khi kết thúc quá trình giải quyết yêu cầu phá sản đối với DN. 4. Phạm vi nghiên cứu đề tài: Về nội dung, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về các loại chủ nợ và vai trò của nó trong suốt quá trình giải quyết phá sản theo pháp luật phá sản Việt Nam, đồng thời luận văn cũng phân tích những bất cập; hạn chế của pháp luật phá sản gây khó khăn cho các chủ nợ trong việc phát huy vai trò của mình trên thực tế; từ đó đưa ra cái nhìn bao quát và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của chủ nợ, góp phần hoàn thiện LPS. Về không gian, luận văn nghiên cứu dựa trên phạm vi các quy định của pháp luật phá sản Việt Nam hiện hành và hướng đến đối tượng chính là các loại chủ nợ của DN, chủ yếu là các quy định của LPS 2014, ngoài ra, Luận văn còn có sự đối chiếu với các quy định của Luật phá sản doanh nghiệp 1993; LPS 2004 và đôi nét so sánh với pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới. Về thời gian, xuất phát từ tình hình thực tiễn là nền kinh tế Việt Nam chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập, do vậy, luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu trong giai đoạn chủ yếu từ năm 2004 trở lại đây, đặc biệt là trên cơ sở các quy định của LPS 2014 và một số vấn đề cần đối chiếu thuộc LPS 2004. Và để đảm bảo tính hiệu lực cũng như khả năng áp dụng vào thực tế của luận văn, tác giả xin được đưa ra những phân tích, đánh giá trên cơ sở của LPS 2014, kể từ thời điểm được thông qua. Tuy nhiên, do là một luật mới được ban hành, mới được áp dụng nên tác giả chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu 7
  14. trong các quy định của LPS 2014, từ đó rút ra những vấn đề vẫn còn tồn tại hoặc có thể phát sinh sau khi Luật được áp dụng. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: Chương 1 của luận văn được triển khai thông qua phương pháp phân tích các vấn đề chung về các chủ thể của LPS và phân chủ nợ, kết hợp với phương pháp so sánh, đối chiếu với pháp luật phá sản một số nước khác. Đối với chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích nhằm cụ thể hóa và làm rõ những quy định của pháp luật phá sản về vai trò của chủ nợ trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp. Từ đó, ở chương 3, bằng phương pháp đối chiếu, phương pháp kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn, phương pháp thống kê – phân tích nhằm làm rõ thực tiễn thi hành LPS 2014, tác giả đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm phát huy vai trò của chủ nợ trong suốt quá trình tiến hành thủ tục phá sản doanh nghiệp. Dù là sử dụng phương pháp nào để xây dựng các nội dung của luận văn thì các phương pháp nghiên cứu trong luận văn vẫn được thực hiện trên nền tảng của phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; trên cơ sở các quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. 6. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài trên, tác giả mong muốn phân tích làm sáng tỏ thực trạng các quy định của LPS về vai trò của chủ nợ trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị về những phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định của LPS về vai trò của chủ nợ, góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được xác định cụ thể như sau: 8
  15. - Một là, về phương diện lý luận, luận văn hệ thống hóa sẽ phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về chủ nợ và vai trò của nó, những yếu tố tác động đến vai trò của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp. - Hai là, về thực tiễn, luận văn tiến hành phân tích nội dung cơ bản của pháp luật phá sản về vai trò của chủ nợ trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng và thi hành LPS 2014. - Ba là, luận văn nghiên cứu, so sánh và giới thiệu kinh nghiệm về quan điểm xây dựng, hoàn thiện pháp luật phá sản về vai trò của chủ nợ của một số nước trên thế giới và rút ra bài học cho Việt Nam. - Bốn là, luận văn nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của Luật phá sản về vai trò của chủ nợ, cũng như việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật phá sản trong tương lai tạo điều kiện để các chủ nợ phát huy được vai trò của mình trên thực tế 7. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách cụ thể, toàn diện và có hệ thống về vai trò của chủ nợ trong quá trình giải quyết phá sản theo pháp luật Việt Nam. Trong khuôn khổ một Luận văn thạc sỹ, tác giả sẽ làm sáng tỏ một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về chủ nợ và vai trò của chủ nợ trong quá trình tham gia vào thủ tục phá sản. Trên cơ sở các quy định của LPS hiện hành, tác giả còn đi sâu bình luận, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về vai trò của chủ nợ trong thủ tục phá sản, có sự dẫn chiếu tới Luật Phá sản doanh nghiệp cũ và LPS 2014 mới nhất. Cuối cùng, từ những bất cập, hạn chế của pháp luật và thực tiễn thi hành Luật Phá sản nói chung, tác giả đưa ra những quan điểm và kiến nghị góp phần nâng cao về vai trò của chủ nợ trong giải quyết phá sản doanh nghiệp trong LPS 2014. 9
  16. 8. Bố cục của Luận văn Ngoài phần lời nói đầu và phần kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo chủ yếu, luận văn được kết cấu với 3 chương: Mở đầu: Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu. Chương 1: Khái quát về địa vị pháp lý của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; Chương 2: Thực trạng pháp luật về vai trò của chủ nợ trong các giai đoạn giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; Chương 3: Một số giải pháp nâng cao vai trò của chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp. 10
  17. Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ VAI TRÒ CỦA CHỦ NỢ TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Phá sản là một hiện tượng hết sức bình thường, tồn tại tất yếu và phổ biến trong nền kinh tế thị trường nơi sự cạnh tranh lẫn nhau luôn tồn tại. Phá sản là một thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt, trong đó không thể không nhắc đến sự hiện diện của những chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng này với những vai trò và địa vị pháp lý riêng biệt. Trước hết, có thể hiểu chủ thể tham gia quan hệ giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp là tất cả những người có quyền và nghĩa vụ độc lập khi tham gia vào tố tụng phá sản. Theo quy định tại LPS 2014 , những chủ thể này bao gồm: Chủ nợ; Doanh nghiệp mắc nợ; Tòa án; HNCN; Doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản. Mỗi chủ thể đều được LPS xác lập cho một vị trí pháp lý khác nhau nhưng tất cả đều có chung một mục tiêu là cùng phối hợp chặt chẽ để đạt được kết quả cuối cùng là giải quyết ổn thỏa vụ việc phá sản của doanh nghiệp. 1.1. Khái niệm và phân loại chủ nợ 1.1.1. Khái niệm chủ nợ Chủ nợ là một khái niệm chung tồn tại trong quan hệ pháp luật dân sự, theo đó, khi một đối tượng cho vay thì người đó sẽ là chủ nợ trong quan hệ với người đi vay – là con nợ. Trong hoạt động kinh doanh, khái niệm này có thể được hiểu theo nghĩa rộng hơn, theo đó, chủ nợ có thể là các tổ chức, cá nhân có quyền buộc cá nhân, tổ chức khác thực hiện được những nghĩa vụ để bù trừ cho một khoản tiền hay công việc mà trước đó chủ nợ đã thực hiện thay cho con nợ. Với cách hiểu này, đối tượng được coi là chủ nợ và nguyên nhân trở thành chủ nợ sẽ đa dạng hơn, mối quan hệ giữa chủ nợ với con nợ cũng phong phú hơn. 11
  18. LPS 2004 không đưa ra khái niệm về “chủ nợ” mà thực hiện việc định danh bằng cách phân loại các đối tượng chủ nợ. Việc không đưa ra khái niệm cụ thể này dẫn đến tình trạng một số đối tượng có quyền và nghĩa vụ về tài sản có liên quan tham gia vào thủ tục phá sản nhưng lại không thể định danh thành một loại chủ thể nhất định, dẫn đến khó xác định vai trò và đảm bảo quyền lợi của họ trong quá trình GQPS. LPS 2014 đã khắc phục hạn chế này bằng cách đưa ra khái niệm về “chủ nợ” tại khoản 3 Điều 4: “Chủ nợ là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu DN, HTX phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ, bao gồm chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ có bảo đảm”. Như vậy, khái niệm chủ nợ đã được xác định bởi quyền yêu cầu doanh nghiệp trả nợ, cách hiểu này đã bao hàm được cả những cá nhân, tổ chức có khoản nợ đối với doanh nghiệp phát sinh trước, trong và cả sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, tránh bỏ sót những chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, sau khi đưa ra khái niệm về “chủ nợ”, LPS 2014 lại lặp lại khái niệm này khi phân loại chủ nợ, điều này là không cần thiết và khiến cho khái niệm chủ nợ trở nên rắc rối, khó hiểu hơn. Mục đích của LPS đó là bảo vệ quyền và lợi ích của con nợ và chủ nợ thông qua việc giải quyết và tìm ra cách thức thanh toán nợ. Thực tế cho thấy, không phải lúc nào quyền của các chủ nợ cũng được bảo đảm. Và dẫu có thì cũng chỉ là một phần nhỏ trong số những thiệt hại lớn mà các chủ nợ phải gánh chịu. Với vai trò là người trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh hay là người thành lập nên doanh nghiệp của các chủ nợ, việc đảm bảo quyền lợi của họ sẽ vừa là động lực, vừa là nền tảng để họ có thể mạnh dạn hơn khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao chất lượng đời sống, ổn định xã hội Theo quy định tại LPS 2014 thì có 3 loại chủ nợ đó là: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm. Việc phân 12
  19. chia này dựa trên mối tương quan giữa khoản nợ và giá trị tài sản bảo đảm mà doanh nghiệp đã cầm cố, thế chấp cho chủ nợ. Tuy nhiên, không phải cả 3 loại chủ nợ trên đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, mà chỉ chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm mới có quyền nộp đơn Điều 5 LPS 2014. Về nguyên tắc, mọi chủ nợ đều bình đẳng và đều có quyền lợi nhất định trong vụ việc phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm bị hạn chế bởi chính sự thỏa thuận về việc xử lý giá trị tài sản được bảo đảm, họ luôn có trong tay tài sản cầm cố, thế chấp không phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có bị phá sản hay không; nghĩa là quyền lợi của họ được bảo đảm rất lớn [21.tr 29]. Do vậy, pháp luật đã có giới hạn nhất định về quyền của loại chủ nợ này so với các chủ nợ khác. Bên cạnh những loại chủ nợ đã nêu trên, khi đề cập đến các chủ thể tham gia vào thủ tục phá sản không thể không nhắc đến một loại chủ nợ không có bảo đảm đặc biệt – đó chính là người lao động. Phần lớn pháp luật phá sản các nước trên thế giới đều quy định cho phép người lao động có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp nơi họ làm việc. Theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam thì sau khi nộp đơn, người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp được coi là chủ nợ - loại chủ nợ không có bảo đảm đặc biệt. Sự đặc biệt đó thể hiện ở chỗ: Hàng hóa duy nhất họ đem ra trao đổi là sức lao động và tiền lương – nguồn sống chính của bản thân và gia đình người lao động. Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì họ là một trong những đối tượng chịu thiệt hại nặng nề nhất; mất việc làm dẫn đến mất thu nhập và cuộc sống sẽ bấp bênh, ảnh hưởng rất nhiều. Pháp luật quy định cho người lao động có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu thủ tục phá sản để thể hiện tiếng nói của mình trong việc giải quyết phá sản doanh nghiệp cũng chính là giúp họ tự bảo vệ chính mình khi lợi ích của chính họ bị xâm hại 13
  20. 1.1.2. Phân loại chủ nợ Một trong những mục tiêu quan trọng mà pháp luật phá sản hướng đến là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Về nguyên tắc, trong thủ tục phá sản, các chủ nợ đều bình đẳng với nhau về quyền lợi và nghĩa vụ. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tính chất của các khoản nợ mà quyền lợi của các chủ nợ cũng khác nhau, từ đó sẽ dẫn đến vai trò của họ cũng khác nhau. Việc phân loại chủ nợ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định vai trò cũng như trách nhiệm của từng loại chủ nợ ở mỗi giai đoạn tố tụng phá sản, từ đó góp phần thúc đẩy việc giải quyết phá sản doanh nghiệp đạt được hiệu quả thiết thực. Để phân loại các chủ nợ, cần dựa vào các tiêu chí nhất định, cụ thể: * Căn cứ vào tương quan giữa giá trị tài sản bảo đảm và giá trị khoản nợ: Đây là tiêu chí mà LPS 2014 đã dùng để phân loại chủ nợ, cơ sở phân loại theo tiêu chí này chính là sự xuất hiện của tài sản bảo đảm của doanh nghiệp cho khoản nợ của mình, theo đó, chủ nợ được phân làm ba loại cơ bản: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm. + Chủ nợ có bảo đảm: Theo quy định tại Khoản 5, Điều 4 LPS 2014 thì “Chủ nợ có bảo đảm là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, HTX phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp, HTX hoặc của người thứ ba” Đây là loại chủ nợ được bảo đảm về quyền lợi nhiều nhất trong ba loại chủ nợ được LPS 2014 quy định, bởi chủ nợ có bảo đảm luôn được pháp luật bảo vệ quyền lợi bởi chính giá trị tài sản bảo đảm mà doanh nghiệp đem cầm cố, thế chấp; và giá trị tài sản đảm bảo của khoản nợ có đảm bảo là tương đương hoặc lớn hơn so với giá trị khoản nợ của doanh nghiệp. Ví dụ: Ngân hàng A cho công ty cổ phần B vay 4 tỷ đồng và nhận tài sản thế chấp là mảnh đất của công ty được định giá là 5,3 tỷ. Như vậy, ở đây Ngân hàng A chính là chủ nợ có bảo đảm; bởi quyền lợi của Ngân 14
  21. hàng được đảm bảo bằng chính giá trị mảnh đất tương đương với khoản tiền mà ngân hàng A cho công ty B vay. + Chủ nợ có bảo đảm một phần : Theo quy định tại khoản 6, Điều 4 LPS 2014 thì: “Chủ nợ có bảo đảm một phần là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, HTX phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, HTX hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm thấp hơn khoản nợ đó”. Đây cũng có thể được xem là chủ nợ có bảo đảm bởi bản thân chủ nợ này cũng được bảo đảm bằng chính tài sản của doanh nghiệp hoặc bên thứ ba. Tuy nhiên, LPS 2014 đã mang đến cái nhìn cụ thể hóa khi dựa vào sự chênh lệch giữa giá trị tài sản bảo đảm và giá trị khoản nợ của doanh nghiệp trong việc phân nhỏ loại chủ nợ này. Theo đó, chủ nợ có bảo đảm một phần được đảm bảo về quyền lợi ít hơn so với chủ nợ có bảo đảm; bởi chính giá trị tài sản bảo đảm nhỏ hơn so với giá trị khoản nợ của doanh nghiệp. Nếu xét theo ví dụ trên về Ngân hàng A và công ty cổ phần B, nếu mảnh đất mà công ty đem thế chấp được định giá là 3,5 tỷ nhỏ hơn khoản vay 4 tỷ, thì Ngân hàng A ở đây chính là chủ nợ có bảo đảm một phần. Thông thường, khi thỏa thuận áp dụng biện pháp bảo đảm, các bên thường thỏa thuận đảm bảo cho toàn bộ nghĩa vụ theo hợp đồng, nhưng các khoản nợ có đảm bảo một phần vẫn xuất hiện là do: + Khi thỏa thuận, các bên thỏa thuận bằng một số tiền cụ thể hoặc một tài sản nhỏ hơn giá trị khoản nợ. + Mặc dù khi ký kết hợp đồng, các bên thỏa thuận đảm bảo 100% nghĩa vụ để phòng ngừa rủi ro, nhưng trong quá trình thực hiện nghĩa vụ, tài sản bị giảm hoặc mất đi một phần giá trị, một trong những tài sản đảm bảo bị mất đi do lý do khách quan(thiên tai, hỏa hoạn ) dẫn đến giá trị tài sản bảo đảm không được bảo toàn như ban đầu. 15