Luận văn Tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm từ thực tiễn viện khoa học thủy lợi Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm từ thực tiễn viện khoa học thủy lợi Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_tuyen_dung_vien_chuc_theo_vi_tri_viec_lam_tu_thuc_t.pdf
Nội dung text: Luận văn Tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm từ thực tiễn viện khoa học thủy lợi Việt Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THU TRANG TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC THEO VỊ TRÍ VIỆC LÀM TỪ THỰC TIỄN VIỆN KHOA HỌC THỦY LỢI VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số : 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Võ Khánh Vinh HÀ NỘI, 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn: “Tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm từ thực tiễn Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam” là công trình do tôi thực hiện nghiên cứu theo sự hướng dẫn khoa học của GS.TS. Võ Khánh Vinh, các thông tin trong Luận văn đáng tin cậy. Các kết quả nghiên cứu chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào. Tác giả luận văn Nguyễn Thu Trang
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC THEO VỊ TRÍ VIỆC LÀM 9 1.1. Những vấn đề lý luận về tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm 9 1.2. Pháp luật Việt Nam về tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm 18 1.3. Quy định về tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm của một số nước trên thế giới 22 Chương 2: THỰC TRẠNG TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC THEO VỊ TRÍ VIỆC LÀM TẠI VIỆN KHOA HỌC THỦY LỢI VIỆT NAM 26 2.1. Đặc điểm tổ chức, hoạt động của Viện khoa học Thủy lợi Việt Nam . 26 2.2. Đặc điểm thực hiện tuyển dụng viên chức tại Viện khoa học Thủy lợi Việt nam 33 2.3. Tình hình thực hiện tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm tại Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam 37 Chương 3: HOÀN THIỆN TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨCTHEO VỊ TRÍ VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM 51 3.1. Quan điểm hoàn thiện tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm ở Việt Nam 51 3.2. Những vấn đề quan trọng trong thực tiễn triển khai tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm 54 3.3. Những vấn đề và giải pháp hoàn thiện việc tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm ở Việt Nam 58 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ĐVSNCL Đơn vị sự nghiệp công lập PGS,TS Phó Giáo sư, Tiến sĩ TS Tiến sĩ VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật Viện KHTLVN Viện khoa học Thủy lợi Việt nam
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ máy tổ chức hay bộ máy cơ quan hành chính nhà nước gồm con người và tư liệu, phương tiện làm việc, trong đó con người là yếu tố quan trọng có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của tổ chức nói chung, cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Hồ Chủ tịch từng nói: “Cán bộ là gốc của mọi việc, thành hay bại đều do cán bộ”. Cải cách thể chế lấy con người làm trung tâm cho sự thay đổi. Nói cách khác, cải cách thể chế do con người tạo ra và cũng do con người thực hiện. Con người sử dụng tư liệu, phương tiện để điều hành mọi hoạt động trong một tổ chức hay một cơ quan nhà nước. Như vậy, có thể thấy con người được xem là yếu tố quyết định đối với sự thành bại trong công cuộc cải cách hành chính nói chung. Tuyển chọn nhân lực chuyên môn có chất lượng là công việc quan trọng mà mọi tổ chức đều phải chú trọng thực hiện, bởi con người là chủ thể của mọi hoạt động trong hệ thống cơ quan, tổ chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khuyên nhủ “Dụng nhân như dụng mộc”, có nghĩa không có người vô dụng, mà phải nhìn việc để giao cho người. Giao việc sai người không chỉ hỏng việc, mà đôi khi còn có những hệ lụy khó lường. Chính vì thế, từ phạm vi quốc gia đến từng cơ quan, đơn vị của nhà nước hoặc các tổ chức sản xuất, kinh doanh đều phải xây dựng chiến lược, kế hoạch thu hút người có năng lực, phẩm chất, người tài về làm việc. Tuy nhiên, trước nhu cầu thay đổi, phát triển của xã hội, nguồn nhân lực có chất lượng cao lại là điểm yếu của nhiều nơi, nhiều đơn vị trong giai đoạn hiện nay. Ngoài những hạn chế của đội ngũ nhân lực hiện có, việc tuyển dụng nhân lực mới tại các cơ quan, đơn vị cũng đang gặp phải một số vướng mắc như thiếu sự chủ động, khó thu hút nhân lực có chất lượng chuyên môn cao, tiêu cực phát sinh trong tuyển dụng, sự bất hợp lý từ các quy định pháp luật 1
- Điều này đòi hỏi phải có sự thay đổi mạnh mẽ trong công tác tuyển dụng nhân lực tại các cơ quan, đơn vị trong bộ máy Nhà nước. Có thể thấy, riêng trong phạm vi tuyển dụng viên chức nhà nước, chúng ta đã có hệ thống văn bản pháp quy như Luật Viên chức đã được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 15/11/2010 ) [20], là luật đầu tiên điều chỉnh riêng về nhóm đối tượng viên chức; Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính Phủ ) [23] về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 8/5/2012 ) [22] quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy vậy, một số qui định vẫn còn chưa cụ thể, mang tính chung chung hình thức; vẫn chờ các Bộ, ngành liên quan có thông tư hướng dẫn; chưa thống nhất về các quan điểm giữa các cơ quan có thẩm quyền. Kết quả làm giảm hiệu quả, hiệu lực hoạt động quản lý nhà nước, dẫn đến tình trạng tiêu cực trong tuyển dụng viên chức, không thu hút được người tài tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Để nâng cao chất lượng cán bộ, viên chức trong bộ máy hành chính nhà nước thì ngay từ khâu tuyển dụng phải xuất phát từ nhu cầu vị trí của từng công việc cụ thể; để làm được điều này phải kết hợp đồng bộ các giải pháp trong đó phải kể đến việc hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm, xây dựng danh mục vị trí việc làm, từ đó mới có cơ sở để tuyển dụng đúng người, đúng việc. Tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm giống như lựa chọn một bộ phận thích hợp vào hệ thống guồng máy, sẽ góp phần khắc phục được những hạn chế của hoạt động tuyển dụng viên chức hiện nay, tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ trong đội ngũ viên chức như chất lượng công việc, tư duy làm việc, phong cách, kỷ luật làm việc. Nhờ vậy, hiệu quả làm việc sẽ được cải thiện và nâng cao. Tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm nhằm phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, trọng dụng bố trí, sử dụng người có năng lực, trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí cần tuyển. 2
- Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam bước đầu đã thực hiện tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm dựa trên các qui định pháp lý hiện hành và đặc thù của Viện khoa học được xếp hạng đặc biệt để đưa ra các tiêu chí tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm phù hợp. Việc nghiên cứu từ thực tiễn ở Viện KHTL Việt Nam ở khía cạnh tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm sẽ góp phần vào việc hoàn thiện cơ sở khoa học và thực tiễn của công tác tổ chức và cán bộ trong tình hình mới ở nước ta hiện nay. Đồng thời cũng là yêu cầu cấp thiết cho quá trình cải cách hành chính, phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016- 2020. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc tuyển chọn người vào làm việc tại các cơ quan, đơn vị của nhà nước và các vấn đề xung quanh hoạt động này là đề tài nghiên cứu của nhiều luận án, luận văn, bài viết, công trình nghiên cứu khoa học. Phần lớn các công trình đều tập trung nghiên cứu việc tuyển dụng đối với nhóm đối tượng công chức hoặc có nghiên cứu về viên chức trong nhóm cán bộ, công chức. Đào Thị Thanh (năm 2010) [42] có bài viết “Một số kiến nghị về xây dựng cơ chế tuyển dụng công chức theo mô hình công vụ việc làm ở nước ta”. Trong bài viết của mình, Hoàng Quốc Long (năm 2010) [18] đã cung cấp “Một số nội dung mới trong công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức”. Tác giả Lê Cẩm Hà (năm 2010) [8] quan tâm nhiều đến khu vực nhà nước và đưa ra ý kiến “Một số nội dung trong tuyển dụng nhân lực của khu vực nhà nước”.Nguyễn Quốc Hiệp (năm 2007) [13] trong luận án Tiến sĩ đã cung cấp có hệ thống các vấn đề liên quan đến “Hoàn thiện pháp luật về tuyển chọn và bổ nhiệm công chức ở nước ta”. Nguyễn Phước Hiệp (năm 2007) [14] lại quan tâm đến “Vai trò của pháp luật trong việc tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ, công chức ở nướcta”.PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải (năm 2009) [10] có nhiều ý kiến phân tích, tổng hợp về vấn đề “Thi tuyển công chức theo vị trí việc làm và điều kiện áp dụng ở nước ta”. TS. Nguyễn Minh Phương (năm 2011) [31] đã phân tích, hệ thống và đề xuất “Một số giải pháp phát hiện và sử dụng nhân tài ở nước ta hiện nay”. TS. Ngô 3
- Thành Can (năm 2010) [2] cung cấp thông tin, phân tích và luận giải vấn đề “Tuyển chọn, bồi dưỡng người tài năng cho công vụ” Cũng có những bài thảo luận, như Trần Văn Quảng (năm 2011) [34] có trình bày quan điểm về “Một số vấn đề về tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ nhân tài”. Với nhóm đối tượng viên chức, các công trình, bài viết tập trung nghiên cứu về số lượng, chất lượng, hoạt động chuyên môn; những bất hợp lý trong pháp luật điều chỉnh về viên chức; các biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức. Các cơ quan nhà nước cũng có một số nghiên cứu về thực trạng viên chức đang làm việc tại các đơn vị sự nghiệp trực thuộc hoặc trong lĩnh vực thuộc quyền quản lý. Trong quá trình xây dựng Luật Viên chức, nhiều bài viết, nghiên cứu cũng được thực hiện nhằm đưa ra những cách nhìn nhận khách quan, thực tế về nhóm đối tượng này. Một số bài viết liên quan đến các vấn đề kể trên như của TS Nguyễn Minh Phương (năm 2009) [32]với đề tài khoa học cấp bộ “Luận cứ khoa học phân định công chức với viên chức”, đã phân tích cơ sở khoa học phân định công chức với viên chức, đồng thời đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về công vụ theo hướng tách bạch giữa công chức và viên chức.TS. Nguyễn Hải Thập (năm 2009) [45] có một loạt bài liên quan đến vấn đề này như “Một số suy nghĩ về việc xây dựng Luật Viên chức”, “Thực trạng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và những nội dung cần nghiên cứu khi xây dựng Luật Viên chức”. Còn Ngô Tự Nam (năm 2011) [21] lại đề cập tới vấn đề “Pháp luật về viên chức và những đổi mới về phương thức, cơ chế quản lý viên chức”. “Sự điều chỉnh của pháp luật về viên chức” của GS.TS. Phạm Hồng Thái (năm 2011) [43]. Trần Anh Tuấn (năm 2010) [47] viết bài thảo luận với tiêu đề “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập”.Văn Tất Thu (năm 2010) [49] có nhiều gợi ý trong bài “Viên chức và những vấn đề cần chú ý khi xây dựng Luật Viên chức”. Năm 2009, Vũ Khoan, Nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ có bài viết “Một số suy nghĩ về việc xây dựng Luật Viên chức”, đăng ở Tạp chí Tổ chức nhà nước[16]. 4
- Việc đổi mới, hoàn thiện chế độ tuyển dụng viên chức hướng tới xây dựng một đội ngũ viên chức chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu của đổi mới và xu thế hội nhập là vấn đề luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm. Các tác giả đều đã phân tích, đề cập một cách có hệ thống, hoàn chỉnh hiệu quả và tương đối toàn diện về vấn đề: xây dựng Luật viên chức, đổi mới về phương thức, cơ chế quản lý viên chức. Đó là những công trình, sản phẩm trí tuệ có giá trị, ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đặt cơ sở cho các nghiên cứu phát triển tiếp theo. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này hầu hết đều tiếp cận nghiên cứu nhằm hướng tới việc xây dựng, hoàn thiện Luật viên chức, phân biệt công chức và viên chức, chưa đề cập nhiều đến các nội dung liên quan đến công tác tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm. Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp đến vấn đề về tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm với tư cách là một luận văn Thạc sĩ Luật học. Với mong muốn nghiên cứu sâu về những vấn đề liên quan tới hoạt động tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm, nhất là trong hoàn cảnh cơ chế, pháp luật đối với đội ngũ viên chức đang có những thay đổi, luận văn này hy vọng sẽ có những đóng góp nhất định trong việc nghiên cứu về viên chức nói chung, hoạt động tuyển dụng nói riêng. Tuy nhiên, các công trình trên đã góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thông tin bổ ích cho học viên trong việc lựa chọn nghiên cứu đề tài này; đề tài vừa mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm, tạo nền tảng cho việc hoàn thiện chế độ tuyển dụng viên chức ở nước ta. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm và từ thực tế đánh giá tuyển dụng viên chức ở Viện KHTLVN, luận văn đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện việc tuyển dụng viên chức 5
- theo vị trí việc làm, cũng như góp phần cung cấp luận cứ khoa học để hoàn thiện việc tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm ở Việt Nam hiện nay. - Đánh giá thực trạng tuyển dụng viên chức nói chung và tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm ở Viện KHTLVN từ năm 2008 cho đến nay. - Đề xuất quan điểm và các giải pháp hoàn thiện việc thực hiện tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm, những vấn đề lý luận và pháp luật hiện hành liên quan; một số yếu tố tác động tới thực tiễn tuyển dụng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm từ thực tiễn Viện KHTLVN, chủ yếu giai đoạn từ năm 2008 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Phương pháp luận của nghiên cứu dựa trên nguyên lý chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời hướng theo tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng đội ngũ công chức, viên chức và hoàn thiện nâng cao chất lượng tuyển dụng viên chức. Ngoài ra, việc nghiên cứu tuân thủ nguyên tắc kế thừa, vận dụng có chọn lọc những kết quả của các tác giả đã nghiên cứu vấn đề này. 6
- 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành các nội dung nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu thường quy trong lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn. Cụ thể các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp, hệ thống các kết quả nghiên cứu đã công bố về những vấn đề liên quan trong luận văn. - Phương pháp khảo sát, thu thập số liệu thực tế làm cơ sở khoa học để luận giải những ý kiến, quan điểm trong xây dựng quy trình tuyển chọn viên chức theo vị trí việc làm. - Phương pháp so sánh, đối chiếu để lựa chọn kết quả tối ưu. - Phương pháp phân tích và quy nạp duy vật biện chứng khách quan để xem xét các hiện tượng, vấn đề của đề tài, tránh nhận xét chủ quan, võ đoán. Các vấn đề phải mang tính hệ thống và những mối quan hệ biện chứng hữu cơ của chúng. - Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp và gắn kết với hoàn cảnh thực tế hiện tại và định hướng phát triển trong tương lai. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm; bổ sung lý luận của quản lý nhà nước về công tác tuyển dụng viên chức, đồng thời cung cấp luận cứ khoa học hoàn thiện cơ chế, pháp luật về tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm trong các ĐVSNCL. Từ đó, tuyển dụng được đội ngũ viên chức có năng lực đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước ta. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về đề tài tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm. Nội dung của luận văn tập trung phân tíchđánh giá thực trạng công tác tuyển dụng viên chức nói chung và tuyển dụng viên chức theo vị 7
- trí việc làm nói riêng ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Viện KHTL Việt Nam; đồng thời đề xuất những phương hướng, giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động này trong tình hình mới. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm có 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm Chương 2. Thực trạng tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm tại Viện khoa học Thủy lợi Việt nam Chương 3. Hoàn thiện tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm ở Việt Nam 8
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC THEO VỊ TRÍ VIỆC LÀM 1.1. Những vấn đề lý luận về tuyển dụng viên chức theo vị trí việc làm 1.1.1. Khái niệm viên chức Trong cuộc sống, bên cạnh những nhu cầu vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển, con người còn có những nhu cầu về chăm sóc sức khỏe, giáo dục, thông tin Xã hội dần hình thành một bộ phận lao động đảm nhiệm những công việc đó. Ban đầu những người làm công việc này chỉ chiếm một số lượng nhỏ so với lao động tại các các ngành nghề sản xuất khác. Sự phát triển của xã hội và chuyên môn hóa lao động ngày càng cao khiến cho lực lượng này ngày càng đông đảo và mang tính chất chuyên nghiệp hơn. Tùy từng giai đoạn, từng chế độ xã hội mà lực lượng này có tên gọi khác nhau hoặc có những khác biệt đôi chút trong quản lý, sử dụng và hoạt động cung cấp dịch vụ. Nhưng có một điểm chung là những người làm công việc này có được một sự tôn trọng từ phía nhà nước và xã hội. Khái niệm viên chức được sử dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) thay đổi theo từng thời kỳ tuỳ thuộc vào quan điểm của Nhà nước về đội ngũ này. Hiến pháp năm 1992 sử dụng cụm từ "cán bộ, viên chức" để chỉ chung những người làm việc tại các cơ quan nhà nước, ĐVSNCL (Điều 8). Theo đó, viên chức là một khái niệm rất rộng, "có khi dùng để chỉ một phạm vi rộng lớn những người làm việc trong cả bộ máy, tổ chức nhà nước"[37, tr.27]. Viên chức theo cách hiểu ở trên không được sử dụng nguyên nghĩa trong các VBQPPL có hiệu lực thấp hơn. Tại Pháp lệnh Cán bộ, công chức ban hành năm 1998 [33], cụm từ được sử dụng là "cán bộ, công chức". Khi Pháp lệnh được sửa đổi, bổ sung năm 2003, lần đầu tiên viên chức được tách riêng thành một nhóm, phân biệt với công chức. Điểm d, điều 1 Pháp lệnh quy định viên chức là "những 9
- người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc được giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội". Theo quy định này, viên chức là một nhóm nhỏ thuộc một tập hợp lớn hơn là cán bộ, công chức. Hai đối tượng công chức và viên chức tiếp tục có sự thay đổi tại hai đạo luật mới ban hành là Luật Cán bộ, công chức (2008) [19], và Luật Viên chức (2010) [20]. Đối tượng là công chức được liệt kê một cách rõ ràng hơn tại Nghị định 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ [24]. Theo quy định tại Điều 11, Nghị định 06/2010/NĐ-CP thì có “công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý ĐVSNCL” theo đó Người lãnh đạo ĐVSNCL trước đây được xếp vào đối tượng viên chức thì nay chuyển sang nhóm đối tượng công chức. Điều 2, Luật Viên chức 2010 [20] định nghĩa: "Viên chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật". Qua định nghĩa trên, có thể nắm bắt được những đặc điểm cơ bản của viên chức như sau: - Thứ nhất, phải là công dân Việt Nam. - Thứ hai, về chế độ tuyển dụng: Viên chức phải là người được tuyển dụng theo vị trí việc làm. Theo đó, căn cứ đầu tiên để tuyển dụng viên chức là vị trí việc làm. Ngoài ra, điều 20 Luật Viên chức năm 2010 [20] quy định cụ thể hơn về chế độ tuyển dụng như sau: “Việc tuyển dụng viên chức phải căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập”. Tại khoản 1, Điều 7 Luật viên chức [20] quy định vị trí việc làm được hiểu là “công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lí tương ứng, là căn cứ xác định số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức để thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lí viên chức trong đơn vị sự nghiệp 10
- công lập”. Vị trí việc làm có thể có một hoặc nhiều công việc, có tính thường xuyên, liên tục chứ không bao gồm những công việc thời vụ, tạm thời. Để được tuyển dụng vào vị trí việc làm thì phải thông qua một trong hai phương thức tuyển dụng Viên chức: thi tuyển hoặc xét tuyển (điều 23 Luật Viên chức năm 2010). Ví dụ: Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội, Bác sĩ khoa Nhi Bệnh viện Bạch Mai - Thứ ba, về nơi làm việc: Viên chức làm việc tại Đơn vị sự nghiệp công lập. Đơn vị sự nghiệp công lập theo khoản 1 điều 9 Luật Viên chức năm 2010 [20] được hiểu là “ tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước”. Đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm: + Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (sau đây gọi là đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ); + Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (sau đây gọi là đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ). Ví dụ: Trường Đại học Luật Hà Nội, Bệnh Viện Bạch Mai - Thứ tư, về thời gian làm việc: Thời gian làm việc của viên chức được tính kể từ khi được tuyển dụng, Hợp đồng làm việc có hiệu lực cho đến khi chấm dứt hợp đồng làm việc hoặc đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ luật Lao động. - Thứ năm, về chế độ lao động: viên chức làm việc theo chế độ Hợp đồng làm việc và hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Điều đó có nghĩa giữa viên chức và bên tuyển dụng có sự thỏa thuận về vị trí việc làm, tiền lương, chế độ đãi ngộ, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên Hợp đồng làm việc là cơ sở pháp lí để sau này xử lí các việc liên quan đến việc vi phạm quyền hay các vấn đề khác phát sinh giữa hai bên. 11
- Mặc dù đã xây dựng được hai đạo luật quan trọng điều chỉnh về hai nhóm đối tượng, nhưng khái niệm viên chức và đối tượng được coi là viên chức vẫn chưa đạt được sự nhất trí cao của những nhà quản lý và các nhà nghiên cứu. Việc đưa người đứng đầu ĐVSNCL từ đối tượng viên chức sang công chức là điều gây băn khoăn nhất. Đáng tiếc là điều này xảy ra khi Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức đã được nghiên cứu, soạn thảo khá kỹ lưỡng sau khi rút ra nhiều kinh nghiệm từ thực tiễn quản lý công chức và viên chức hàng chục năm qua. Điều này khiến cho việc ban hành các quy định về tuyển dụng cũng như quản lý, sử dụng viên chức gặp phải một số điểm phức tạp không đáng có. 1.1.2. Khái niệm nội dung tuyển dụng viên chức Hiểu một cách đơn giản thì tuyển dụng là hình thức lựa chọn người để làm việc. Với ý nghĩa như vậy, bất kỳ một cơ quan, đơn vị nào có nhu cầu sử dụng nhân lực đều phải tiến hành hoạt động tuyển dụng. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh nhiều mặt giữa các đơn vị, việc tuyển dụng nhân lực còn được nâng lên thành tầm chiến lược, nghệ thuật. Tuyển dụng phải theo nguyên tắc cạnh tranh giữa các ứng viên. Như vậy mới đúng nghĩa là "tuyển". Trong phần lớn các lĩnh vực, số lượng việc làm được tạo ra thường ít hơn số lao động tìm việc. Do vậy, khi có nhiều ứng viên tham gia tuyển dụng cho một vị trí việc làm có hạn sẽ khiến người tuyển dụng có nhiều cơ hội để lựa chọn hơn, nếu thực hiện một cách công bằng sẽ lựa chọn người có trình độ chuyên môn cao nhất, xứng đáng nhất. Luật Viên chức đã đưa ra giải thích rõ ràng về tuyển dụng đối tượng làm việc trong các ĐVSNCL. Tuyển dụng là "việc lựa chọn người có phẩm chất, trình độ và năng lực vào làm viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập"(Khoản 4, Điều 3, Luật viên chức) [20]. Như vậy, ba yêu cầu đối với cá nhân được tuyển dụng làm viên chức là có tư cách đạo đức, trình độ chuyên môn và khả năng làm việc. Trong ĐVSNCL có nhiều phần việc từ đơn giản đến phức tạp, không nhất thiết phải tuyển dụng viên chức để thực hiện mọi công việc. Việc cung cấp dịch 12
- vụ công, cần thiết sử dụng tới chuyên môn kỹ thuật phải được thực hiện bởi đội ngũ viên chức. Đối với những công việc giản đơn mang tính thừa hành, giúp việc, nên sử dụng lao động hợp đồng theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP; hợp đồng vụ việc hoặc sử dụng dịch vụ cung ứng lao động chuyên nghiệp từ các đơn vị khác. Đây là sự phân công lao động giản đơn nhưng cần thiết, đảm bảo cho công việc chuyên môn của viên chức được trân trọng đúng mức, tạo điều kiện trả lương xứng đáng cho những người làm chuyên môn. Tuyển dụng viên chức khác biệt so với tuyển dụng công chức. Công chức mang trong mình công quyền, hoạt động để thực thi công vụ. Vì vậy, tuyển dụng công chức phải tuân theo những quy định chặt chẽ về điều kiện, phương thức. Khi tuyển dụng phải căn cứ vào chỉ tiêu biên chế của cơ quan nhà nước, chủ yếu được thực hiện bằng hình thức thi tuyển. Đối với tuyển dụng viên chức, ĐVSNCL căn cứ vào vị trí việc làm và quỹ lương để xây dựng kế hoạch. Với đặc thù cung cấp dịch vụ, đơn vị sự nghiệp cần người có trình độ chuyên môn kỹ thuật hoặc kỹ năng đặc biệt, được đào tạo bài bản để đảm nhiệm công việc. Vì vậy, tuyển dụng viên chức theo một thủ tục đơn giản hơn, chủ yếu bằng phương thức xét tuyển, nội dung xét tuyển tập trung đánh giá năng lực chuyên môn của ứng viên. ĐVSNCL và viên chức ràng buộc với nhau bằng hợp đồng làm việc. Tuyển dụng viên chức có những điểm khác biệt so với tuyển dụng nhân lực tại các đơn vị ngoài công lập. Cùng là việc lựa chọn người xứng đáng nhất, phù hợp nhất, nhưng tiêu chuẩn, phương thức tuyển dụng ở hai khu vực khác nhau. Tuyển dụng nhân lực tại khu vực ngoài công lập không nhất thiết phải theo một khuôn phép được quy định sẵn, đơn vị tuyển dụng có thể tự đặt ra tiêu chuẩn đối với ứng viên dự tuyển, kết quả cuối cùng mà họ mong muốn là lựa chọn được người phù hợp nhất cho công việc. Đây cũng là mục đích trong tuyển dụng viên chức, tuy nhiên việc tuyển dụng phải tuân theo những quy định tại các VBQPPL; điều kiện, phương thức, thủ tục tuyển dụng có sự chặt chẽ hơn. Điều này được lý giải bởi viên chức là người làm việc trong các ĐVSNCL. Các đơn vị này thực hiện 13
- hoạt động nhằm phục vụ công tác quản lý nhà nước, sử dụng ngân sách nhà nước trong các hoạt động, nên việc tuyển dụng phải theo những quy định chặt chẽ. Theo quy định hiện nay thì tuyển dụng viên chức khác với tiếp nhận. Tuyển dụng là lựa chọn một người mới trở thành viên chức, còn tiếp nhận là việc nhận một người đang là viên chức hoặc công chức tại một cơ quan, đơn vị khác của nhà nước tới làm việc. Tuyển dụng viên chức trên cơ sở các quy định của pháp luật hành chính, tuy nhiên cũng không được trái với các quy định của pháp luật lao động. Xét cho cùng, viên chức cũng là người lao động, làm việc cho đối tượng sử dụng lao động đặc biệt. Vì vậy, những quy định về độ tuổi tuyển dụng, thủ tục tuyển dụng, hợp đồng làm việc cũng phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc của pháp luật lao động. Tuyển dụng là một hoạt động diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng lại ảnh hưởng lâu dài tới sự tồn tại và phát triển của một đơn vị. Có thể coi hoạt động này như việc người nông dân chọn những hạt giống tốt nhất để gieo trồng trên mảnh ruộng của mình. Nếu tuyển dụng được thực hiện có hiệu quả sẽ là cơ sở để xây dựng một đội ngũ viên chức có trình độ, năng lực và sự phát triển của đơn vị. Ngược lại, nếu tuyển dụng không được tiến hành một cách nghiêm túc sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động chung, thậm chí còn mang tới những nguy cơ cho sự sa sút hoặc sụp đổ của một đơn vị. Tuyển dụng được viên chức xứng đáng, có năng lực cũng chính là việc sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực mà nhà nước đầu tư cho các đơn vị sự nghiệp. Hiện nhà nước vẫn đang cấp một lượng ngân sách khá lớn cho việc trả lương và thanh toán các hoạt động liên quan tới đội ngũ viên chức. Một viên chức có năng lực, đảm nhiệm tốt công việc chuyên môn sẽ làm giảm bớt biên chế tại các vị trí việc làm, tạo điều kiện tiết kiệm nguồn lực để đầu tư vào các hoạt động khác. Xây dựng nguồn nhân lực luôn là nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ một cơ quan, đơn vị nào. Ngoài việc nâng cao chất lượng đội ngũ hiện có, bổ sung 14
- những viên chức mới có chất lượng là điều cần thiết. Do đó, tuyển dụng viên chức phải được xây dựng như một hoạt động mang tính chiến lược dài hạn. Hiện nay, các ĐVSNCL không còn độc quyền trong việc tuyển chọn nguồn nhân lực. Người lao động có nhiều lựa chọn cho công việc của mình hơn. Nhiều đơn vị ngoài công lập đang có những ưu thế về cơ chế làm việc, tiền lương thu hút mạnh mẽ người lao động có trình độ chuyên môn cao. Thực tế đó đòi hỏi các ĐVSNCL phải có những điều chỉnh trong chiến lược tuyển dụng của mình. Tóm lại, tuyển dụng viên chức là việc lựa chọn những công dân Việt Nam có năng lực, phẩm chất, trình độ làm công tác chuyên môn theo yêu cầu công việc tại các ĐVSNCL. Việc tuyển dụng được thực hiện qua ký kết hợp đồng làm việc ở vị trí việc làm mà đơn vị yêu cầu. Đây là công việc có tầm quan trọng đặc biệt, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của một đơn vị. Bên cạnh đó còn tác động tới công tác quản lý của nhà nước đối với các ĐVSNCL và đội ngũ viên chức. 1.1.3 Khái niệm vị trí việc làm Vị trí việc làm là khái niệm biểu thị tất cả những nhiệm vụ được thực hiện bởi một người lao động. Khái niệm này vừa chỉ vị trí công việc đảm nhận, vừa chỉ địa vị của cá nhân trong hệ thống tổ chức, gắn liền với guồng máy công việc. Vị trí việc làm là một biện pháp quản trị nhân sự giúp nhà quản lý xác định được tính chất, quy trình thực hiện công việc và các yêu cầu đối với người thực hiện công việc để từ đó xác định số lượng, chất lượng, tiêu nhuẩn nhân lực cần và đủ cho quá trình thực hiện nhiệm vụ. Như vậy, khi nói đến vị trí việc làm là nói đến những vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, tên gọi vị trí việc làm có thể là Vụ trưởng, Giám đốc, Phó Vụ trưởng, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, Chuyên viên, Nhân viên Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn của người đảm nhiệm vị trí việc làm phải thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao. Đây là sự khác nhau cơ bản để phân biệt các vị trí việc làm trong một tổ chức với nhau, cũng như giữa tổ chức này với tổ chức khác. 15
- Thứ ba, yêu cầu về trình độ, kỹ năng, chuyên môn mà người đảm nhiệm vị trí việc làm phải đáp ứng (hay còn gọi là tiêu chuẩn); Mỗi ví trí việc làm có tiêu chuẩn khác nhau do tính chất công việc khác nhau. Ví dụ như vị trí Kế toán yêu cầu về trình độ, kỹ năng khác với vị trí nhân viên Văn thư. Thứ tư, tiền lương được trả tương xứng và phù hợp với chức vị, chức trách, tiêu chuẩn, tính chất, hiệu quả công việc, khối lượng, thành tích Điều này thể hiện rõ nét trong khu vực doanh nghiệp, còn ở khu vực công vẫn mang tính cào bằng. Tiền lương được xác định là bộ phận chính của vị trí việc làm, tiền lương được trả dựa trên 02 nguyên tắc: - Một là, theo chiều dọc, công việc có tính chất phức tạp cao, khối lượng, cường độ, áp lực lớn thì phải trả lương cao; - Hai là, theo chiều ngang hai người cùng làm một công việc thì lương phải được trả như nhau, còn làm vị trí khác nhau sẽ có lương khác nhau. Ngoài các bộ phận trên, còn có các bộ phận hợp thành khác như chế độ áp dụng đối với những vị trí việc làm đặc biệt (yêu cầu chức trách, tiêu chuẩn điều kiện và phụ cấp chức vụ ) hoặc có các điều kiện đảm bảo thực hiện nhiệm vụ như cơ sở vật chất nơi làm việc, trang thiết bị, phối hợp thực hiện Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm vị trí việc làm. Để thuận tiện cho nghiên cứu và giới hạn trong khuôn khổ luận văn, tác giả dựa theo Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 8/5/2012 [22] quy định tại khoản 1, Điều 2 về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập để tiếp cận khái niệm “vị trí việc làm là công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý tương ứng; là căn cứ xác định số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức để thực hiện tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập”. Vị trí việc làm là một công việc cụ thể được đặt vào đó, tùy thuộc vào quy mô của từng cơ quan, tổ chức. Mỗi vị trí việc làm gắn liền với ít nhất một công 16