Luận văn Tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm của cơ quan cảnh sát điều tra bộ công an
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm của cơ quan cảnh sát điều tra bộ công an", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_tuong_tro_tu_phap_ve_hinh_su_trong_phong_chong_toi.pdf
Nội dung text: Luận văn Tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm của cơ quan cảnh sát điều tra bộ công an
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN QUYỂN TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ HÌNH SỰ TRONG PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA BỘ CÔNG AN Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số : 60.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh HÀ NỘI, 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được công bố trong bất cứ công trình nào. TÊN TÁC GIẢ NGUYỄN XUÂN QUYỂN
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ HÌNH SỰ VÀ VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA BỘ CÔNG AN 6 1.1. Cơ sở lý luận của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự . 6 1.2. Vai trò của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an trong thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự 19 1.3. Nhiệm vụ và các hình thức thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự . 22 Chương 2. CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ TÌNH HÌNH TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ HÌNH SỰ DO CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA BỘ CÔNG AN THỰC HIỆN GIAI ĐOẠN 2011- 2015 . 27 2.1. Cơ sở pháp lý của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự . . 27 2.2. Tình hình tương trợ tư pháp về hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an . 33 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRABỘ CÔNG AN 54 3.1. Dự báo tình hình thực hiện tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an trong thời gian tới 54 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an . 59 KẾT LUẬN 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69 PHỤ LỤC 72
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự BCA : Bộ Công an CH : Cộng hòa CHDCND : Cộng hòa dân chủ nhân dân CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa CQĐT : Cơ quan điều tra CSĐT : Cảnh sát điều tra ĐƯQT : Điều ước quốc tế INTERPOL : International Criminal Police Organization Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế TAND : Tòa án nhân dân VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân WTO : World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
- DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ phân tích tỷ lệ các yêu cầu yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của nước ngoài đề nghị Việt Nam thực hiện ( giai đoạn 2011 – 2015) Tổng số các yêu cầu tương trợ tư pháp của nước ngoài yêu cầu Việt Nam thực hiện từ năm 2011 đến tháng 12 năm 2015 Biểu đồ phân tích tỷ lệ các yêu cầu yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của Việt Nam đề nghị nước ngoài thực hiện ( giai đoạn 2011 – 2015) Tổng số các yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự doViệt Nam yêu cầu nước ngoài thực hiện từ năm 2011 đến tháng 12 năm 2015
- MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết củađề tài Tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế đã cụ thể hóa đường lối đối ngoại của Đảng, trong đó đề ra yêu cầu tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng trong nhiều lĩnh vực.Tăng cường hợp tác quốc tế là một trong những nội dung lớn của cải cách tư pháp, được quy định tại các nghị quyết của Bộ Chính trị: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị Quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, mở rộng các hoạt động hợp tác quốc tế đang diễn ra nhanh chóng trên thế giới, việc phát triển các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu tư và giao lưu giữa công dân các nước đã tạo nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội giữa các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Song, chính điều này cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ gia tăng tội phạm, đặc biệt là tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài đã gây khó khăn, thách thức cho công tác bảo đảm an ninh, trật tự. Do đó, việc tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm đặc biệt là tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài thông qua hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự là nhu cầu khách quan và cấp thiết. Tại Việt Nam hiện nay, tương trợ tư pháp về hình sự được thực hiện theo quy định của Luật tương trợ tư pháp, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) và các điều ước quốc tế (ĐƯQT) đa phương và song phương mà Việt Nam là thành viên. Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động hợp tác quốc tế nói chung, hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự nói riêng, nhằm tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm và tăng cường hội nhập quốc tế, góp phần thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, thời gian qua, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công 1
- an (CSĐT BCA) đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc thực hiện chức năng tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng như theo các hiệp định tương trợ tư pháp, các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết và đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tương trợ tư pháp về hình sự là một lĩnh vực hoạt động có nhiều điểm mới đối với các cơ quan tiến hành tố tụng tại Việt Nam. Mặc dù, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 và mới đây là BLTTHS năm 2015 đã quy định về hợp tác quốc tế (phần thứ 8) và Luật tương trợ tư pháp năm 2007 đã có một chương quy định về tương trợ tư pháp về hình sự, nhưng đây mới chỉ là những quy định mang tính nguyên tắc, nhiều nội dung chưa được cụ thể hóa nên gặp khó khăn trong quá trình áp dụng. Ở góc độ lý luận, cho đến nay tuy đã có một số công trình nghiên cứu về tương trợ tư pháp về hình sự nhưng các công trình này mới chỉ nghiên cứu ở một số phạm vi nhất định, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tương trợ tư pháp về hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của Cơ quan CSĐT BCA. Từ những lý do mang tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn như trên, tôi đã chọn vấn đề:“Tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kể từ khi Luật tương trợ tư pháp năm 2007 ban hành và có hiệu lực, ở Việt Nam đã có một số công trình khoa học nghiên cứu các vấn đề về hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự. Các công trình đó là: - “Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự Việt Nam”, PGS, TS. Trần Phương Đạt, Ths. Nguyễn Đức Phúc, nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2010; - “Tương trợ tư pháp hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, PGS, TS. Nguyễn Ngọc Anh, Ths. Nguyễn Văn Mạnh, CN. Phạm Văn Công, nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2009; - “Hoạt động Interpol trong thực hiện tương trợ tư pháp hình sự và dẫn độ tội phạm ở Việt Nam”, Ths.Chử Văn Dũng, nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2010; 2
- - “Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nguyễn Quốc Cường, Luận văn thạc sĩ luật học năm 2008; - “Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát nhân dân”, Bùi Anh Dũng, Luận văn thạc sĩ luật học năm 2006; - Tăng cường hợp tác quốc tế, tương trợ tư pháp hình sự trong điều kiện hội nhập quốc tế, Nguyễn Viết Sách, Tạp chí Công an nhân dân năm 2004; Tuy nhiên, những công trình khoa học này được nghiên cứu trên phạm vi và góc độ khác nhau, xuất phát từ mục đích nghiên cứu khác nhauvề tương trợ tư pháp hình sự nhưng chưa có công trình nào tập trung đi sâu nghiên cứu về tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm của Cơ quan CSĐT BCA. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài luận văn là không trùng lặp với các công trình đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu Làm rõ nhận thức về lý luận và thực tiễn của việc thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm; từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của việc thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm của Cơ quan CSĐT BCA trong thời gian tới. - Nhiệm vụ nghiên cứu Nhằm đạt được mục đích nêu trên, đề tài cần phải giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau đây: + Nghiên cứu làm rõ những vấn đề chung của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự; + Nghiên cứu cơ sở pháp lý về hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự; + Khảo sát, đánh giá tình hình hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm của Cơ quan CSĐT BCA từ năm 2011 đến tháng 12 năm 2015; làm rõ những hạn chế cũng như những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân; + Đề xuất một số giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự của Cơ quan CSĐT BCA trong thời gian tới. 3
- 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu:là những vấn đề lý luận và thực tiễn về tương trợ tư pháp về hình sự theo chức năng của Cơ quan CSĐT BCA. - Phạm vi nghiên cứu: + Về nội dung: luận văn nghiên cứu tình hình tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam và thực trạng thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự của Cơ quan CSĐT BCA. + Về chủ thể: đề tài tập trung nghiên cứu tương trợ tư pháp về hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của Cơ quan CSĐT BCA. + Về địa bàn nghiên cứu: do tính đặc thù của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, tác giả tập trung đi sâu khảo sát, nghiên cứu tại Cơ quan CSĐT BCA và VKSND tối cao. + Về thời gian nghiên cứu: luận văn tiến hành nghiên cứu trong thời gian từ năm 2011 đến tháng 12 năm 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước và ngành Công an về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cùng đó, luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp cụ thể sau: nghiên cứu tài liệu; thống kê, tổng hợp, phân tích; phương pháp đối chiếu, so sánh logic. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Là công trình nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện về tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm của Cơ quan CSĐT BCA, nên kết quả rút ra qua nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn; cụ thể là: - Đưa ra khái niệm khoa học về tương trợ tư pháp về hình sự. - Phân tích làm rõ phạm vi, nội dung, nhiệm vụ của tương trợ tư pháp về hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. 4
- - Đánh giá tình hình tương trợ tư pháp về hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của Cơ quan CSĐT BCA; từ đó rút ra những vướng mắc và nguyên nhân của những bất cập đó. - Đề tài đã đưa ra một số giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự của Cơ quan CSĐT BCA nói riêng và thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự của Cơ quan CSĐT các cấp trong công an nhân dân nói chung. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, đề tài được cấu trúc thành 3 chương như sau: Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về tương trợ tư pháp về hình sự và vai trò của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an Chương 2.Cơ sở pháp lý và tình hình tương trợ tư pháp về hình sự do Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an thực hiện giai đoạn 2011 - 2015 Chương 3.Một số giải pháp tăng cường hiệu quả tương trợ tư pháp về hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an 5
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ HÌNH SỰ VÀ VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA BỘ CÔNG AN 1.1. Cơ sở lý luận của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự Xét về mặt lý luận, quốc gia có quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ của mình để thực hiện mọi hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp và quản lý cần thiết đối với các cơ quan, tổ chức, công dân của mình trên mọi phương tiện, đặc biệt là quyền tài phán. Khi toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại thụ lý giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài đó, thì các cơ quan này không chỉ căn cứ vào pháp luật của nước mình, điều ước mà nước đó là thành viên, trong nhiều trường hợp còn phải dựa vào sự phối hợp, giúp đỡ của các toà án, các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài liên quan trong quá trình tiến hành một số hành vi tố tụng riêng biệt cần thiết cho việc giải quyết các vụ việc cụ thể đó. Nhưng quốc gia khó có thể thực hiện thành công quyền tài phán đó của mình đối với các cơ quan, tổ chức, công dân của mình trong phạm vi lãnh thổ nước khác, nếu không có sự cho phép, sự tương trợ tư pháp cần thiết (có thể là tống đạt giấy tờ, tiến hành thu thập chứng cứ, thực hiện các uỷ thác điều tra hình sự, dẫn độ tội phạm, thi hành án ) của các cơ quan hữu quan nước ngoài. Hoạt động tương trợ tư pháp (Mutual Assistance in Juridical Matters) trên thế giới từ xưa đến nay đều do thực tiễn cuộc sống phong phú của các quốc gia đặt ra trong từng thời kỳ lịch sử. Căn cứ vào phạm vi, mức độ quan hệ giữa các quốc gia với nhau, xuất phát từ nhu cầu các vấn đề cần có tương trợ tư pháp, trên cơ sở phù hợp với tính chất và khả năng thực tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ mà các nước đưa ra những học thuyết, quan niệm, các cơ sở lý luận tương ứng về tương trợ tư pháp của mình trong quan hệ quốc tế. Các cơ sở lý luận hiện nay của các nước, vẫn tồn tại rất nhiều quan niệm lý luận khác nhau về pháp luật nói chung, về các chế định, khái niệm pháp lý cụ thể nói riêng, trong đó có chế định tương trợ tư pháp. Thậm chí, trong pháp luật các nước vẫn thường gặp cái gọi là xung đột về 6
- danh pháp (Conflict of Qualifications), tức cùng một danh từ pháp lý nhưng nội hàm của chúng lại có thể rất khác nhau. Điều đó chủ yếu phụ thuộc vào việc nước đó theo hệ thống pháp luật nào trong các hệ thống pháp luật lớn của nền văn minh nhân loại. Trong các giao dịch dân sự, kinh tế - thương mại hàng ngày giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân các nước khác nhau với các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước sở tại đã làm phát sinh không ít vụ hình sự và tội phạm đang có sự giao lưu, xen kẽ và đồng hành với sự phát triển quan hệ kinh tế, xã hội giữa các nước đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh kịp thời. Tuy nhiên, phạm vi, mức độ, trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp và các vấn đề khác liên quan đến hoạt động tương trợ tư pháp phần lớn lại phụ thuộc vào ý chí chủ quyền của các quốc gia được yêu cầu. Xét về mặt này trên phương diện quốc tế, thì tương trợ tư pháp còn được hiểu như một biểu hiện cụ thể của chủ quyền quốc gia và các quốc gia khác phải hết sức tôn trọng, không được ép buộc hoặc áp đặt để can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác dưới bất kỳ hình thức nào. Chính vì vậy, các nước có các quy định khác nhau về tương trợ tư pháp để khẳng định rõ nội dung chủ quyền của mình trong quan hệ quốc tế, tuyên bố rõ với cộng đồng quốc tế những hành vi tố tụng riêng biệt không được tiến hành, những hành vi tố tụng được phép tiến hành, cũng như các quy chuẩn tối thiểu phải tuân theo trong thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp. Như vậy, dưới góc độ pháp luật quốc tế, việc cho phép tiến hành hoặc không tiến hành những hành vi tố tụng riêng biệt trong hoạt động tương trợ tư pháp chính là sự biểu hiện về mặt đối ngoại của chủ quyền quốc gia, không giản đơn là một nội dung của nghĩa vụ hợp tác quốc tế. Tương trợ tư pháp, hợp tác quốc tế phòng chống tội phạm trong thời đại ngày nay phải được nhìn nhận như một đòi hỏi khách quan, một nhu cầu tất yếu trọng sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của các trào lưu quan hệ quốc tế giữa các quốc gia nói chung, của các giao dịch dân sự, kinh tế - thương mại giữa các tổ chức, cá nhân các nước khác nhau nói riêng. Trong xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, thì nhu cầu tương trợ tư pháp càng trở nên bức thiết; mở rộng và tăng cường quan hệ tương trợ tư pháp về các vấn đề hình sự đã và đang trở thành vấn đề thời sự 7
- đối với những nước có số lượng khá lớn người nước ngoài xuất nhập cảnh, cư trú, làm ăn sinh sống, cũng như với các nước có nhiều công dân xuất nhập cảnh, cư trú, làm ăn sinh sống ở nước ngoài. Vì vậy, nhu cầu tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia ngày càng trở nên bức thiết.Tương trợ tư pháp ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình hợp tác nhiều mặt giữa các nước. Điều đó được giải thích bởi xu hướng xích lại gần hơn trong đời sống kinh tế - xã hội của các nước, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng có nhiều người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ của mỗi quốc gia. 1.1.1. Khái niệm - Quan niệm về tương trợ tư pháp của Liên hợp quốc: ngày 24/10/1970 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã tuyên bố về những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương của Liên hợp quốc, các quốc gia - chủ thể cơ bản của Luật quốc tế, phải có nghĩa vụ hợp tác với nhau. Về nghĩa vụ hợp tác có phạm vi rất rộng, bao gồm cả hợp tác tương trợ tư pháp về hình sự. Song, để hiểu thế nào là tương trợ tư pháp về hình sự thì trong khoa học pháp lý hiện nay vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau. - Quan niệm về tương trợ tư pháp của hệ thống pháp luật châu Âu: Các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa về cơ bản có chung quan niệm về tương trợ tư pháp, điển hình ở Đức và Pháp, theo đó tương trợ tư pháp được hiểu là việc các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia khác nhau trợ giúp lẫn nhau trong tống đạt giấy tờ, tài liệu tư pháp và thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt để thu thập chứng cứ trong một vụ việc giải quyết một vụ án. Sau khi mở rộng hợp tác trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế châu Âu, quan niệm truyền thống tư pháp về tương trợ tư pháp được mở rộng, bao gồm việc trợ giúp lẫn nhau trong trao đổi thông tin pháp luật nước ngoài, tống đạt tài liệu, giấy tờ bổ trợ hoạt động tư pháp, các thông báo của tòa án và của các cơ quan hữu quan khác - Quan niệm về tương trợ tư pháp của hệ thống pháp luật án lệ: các nước thuộc hệ thống pháp luật án lệ như Anh – Mỹ không có quan niệm chung về tương trợ tư pháp nói chung và trong hoạt động tố tụng như các nước châu Âu lục địa. Theo đó, tương trợ tư pháp được hiểu đơn giản là các hoạt động dịch vụ trong tống 8
- đạt giấy tờ, tài liệu tư pháp và hoạt động thu thập chứng cứ ở nước ngoài. Trong thực tiễn tư pháp, tòa án các nước thuộc hệ thống pháp luật án lệ thường thực hiện việc lấy lời khai của người làm chứng ở nước ngoài thông qua một người được tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ủy nhiệm làm việc đó. Khi thẩm vấn trực tiếp hoặc đối chất, lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, người có quyền và lợi ích liên quan phải có đại diện của các bên tham gia tố tụng cùng tiến hành các hoạt động này. Các biên bản lấy lời khai phải được gửi cho tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền đã chỉ định ủy nhiệm. Như vậy, tương trợ tư pháp trong thực tiễn tư pháp các nước thuộc hệ thống pháp luật án lệ được hiểu là việc tòa án, các cơ quan tư pháp giúp đỡ lẫn nhau tiến hành một số hoạt động tố tụng riêng biệt trong điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. - Quan niệm về tương trợ tư pháp của Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây: quan niệm về tương trợ tư pháp cơ bản giống với quan niệm của các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu. Tùy thuộc vào phạm vi, nội dung các vấn đề được quy định trong pháp luật của các nước và các điều ước quốc tế liên quan, tương trợ tư pháp được hiểu là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của các nước khác nhau trợ giúp lẫn nhau trong việc thực hiện hành vi tố tụng riêng biệt để thu thập chứng cứ trong vụ việc tố tụng, thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự và hình sự của tòa án nước ngoài, tống đạt giấy tờ Thực tiễn cho thấy, trong lĩnh vực tư pháp hình sự, nhiều trường hợp tội phạm có yếu tố nước ngoài đã xảy ra mà một quốc gia không thể tự mình trực tiếp thực hiện các hoạt động chỉ đơn thuần mang tính chất pháp lý như xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ, tìm kiếm và bắt giữ người phạm tội trên lãnh thổ một quốc gia khác nhằm phục vụ cho việc giải quyết vụ án hình sự đó. Trong trường hợp này, biện pháp lựa chọn duy nhất của các quốc gia đó là tìm kiếm sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các quốc gia đối tác hữu quan và chính sự giúp đỡ này được gọi là "tương trợ tư pháp hình sự”. Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn tư pháp ở một số nước, có thể hiểu: tương trợ tư pháp là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của các nước khác nhau trợ giúp lẫn nhau thực hiện các hành vi tố tụng tư pháp riêng biệt theo 9
- trình tự, thủ tục, thể thức nhất định để thi hành pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của cơ quan, cá nhân mỗi nước trên lãnh thổ của nhau, thúc đẩy phát triển hợp tác quốc tế. Từ thực tế đó, việc nghiên cứu làm rõ khái niệm, các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn tương trợ tư pháp về hình sự là điều cần thiết trong hoạt động phòng, chống tội phạm hiện nay. Về vấn đề này, qua nghiên cứu cho thấy, trong khoa học pháp lý Việt Nam, khái niệm tương trợ tư pháp về hình sự đã được đề cập trong một số công trình, giáo trình và Từ điển, như: Từ điển Bách khoa công an nhân dân Việt Nam năm 2005: Tương trợ tư pháp về hình sự là một thủ tục tư pháp quốc tế trong lĩnh vực hình sự, trong đó các quốc gia có liên quan hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong việc thu thập chứng cứ, lời khai, cung cấp thông tin, vật chứng và các tài liệu khác có liên quan; tiến hành hoạt động dẫn độ tội phạm” [27, tr.1261]. Theo cách hiểu này, phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự được đề cập tương đối rộng đó là tất cả những biện pháp mà các quốc gia hữu quan có thể hỗ trợ cho nhau trong lĩnh vực hình sự bao gồm cả dẫn độ tội phạm; Giáo trình Luật TTHS Việt Nam (2008), trường đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội nêu: “Tương trợ tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự là việc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước này thực hiện hành vi tố tụng hay hoạt động tố tụng theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nước khác trên cơ sở thỏa thuận của các quốc gia tương ứng” [28, tr.575- 576]. Khái niệm này mới chỉ gói gọn phạm vi tương trợ tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự và xác định cơ sở để thực hiện là thỏa thuận giữa các quốc gia. Theo GS, TS. Nguyễn Xuân Yêm thì: “Tương trợ pháp lý về hình sự là một thủ tục pháp luật hình sự quốc tế, trong đó các quốc gia có liên quan hợp tác hỗ trợ lẫn nhau trong việc thu thập chứng cứ, lời khai; cung cấp thông tin và các vật chứng; tìm hiểu hồ sơ vụ án; tạo điều kiện thực hiện việc tiến hành khám xét, bắt giữ, cung cấp các bản gốc hoặc bản sao đã công chứng của các tài liệu có liên quan đến vụ án, kể cả những chứng từ ngân hàng tài chính hoặc hồ sơ kinh doanh; xác minh làm rõ những thu thập, tài sản, công cụ hoặc đồ vật khác có liên quan đến 10
- vụ án Nhằm thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự như điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án”[37, tr. 1441]. Như vậy, phạm vi tương trợ mà khái niệm này đề cập rất rộng liên quan đến nhiều lĩnh vực cần tương trợ giữa các quốc gia. Theo GS, TS. Nguyễn Ngọc Anh đưa ra khái niệm: “Tương trợ tư pháp về hình sự là thủ tục pháp lý quốc tế, trong đó các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của quốc gia có liên quan hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong việc thu thập, cung cấp thông tin, chứng cứ, lời khai và các tài liệu khác có liên quan trên cơ sở điều ước quốc tế, pháp luật trong nước để điều tra xử lý vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài” [2, tr.16]. Trên cơ sở tiếp thu những kết quả hợp lý từ các công trình nghiên cứu và từ những phân tích nêu trên, theo chúng tôi khái niệm tương trợ tư pháp về hình sự có thể hiểu như sau: Tương trợ tư pháp về hình sự là việc các quốc gia giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong việc điều tra, truy tố hoặc các thủ tục tố tụng khác trong các vấn đề hình sự thông qua Cơ quan trung ương của mỗi quốc gia trên cơ sở điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương mà các quốc gia ký kết hoặc tham gia hoặc nguyên tắc có đi có lại. Xuất phát từ nội dung của khái niệm trên cho thấy, tương trợ tư pháp về hình sự là quá trình hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ quan tư pháp hình sự của các quốc gia có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài. Việc tiếp nhận và thực hiện các yêu cầu ủy thác tư pháp về hình sự của nhau thuộc về phạm vi quyền tài phán của các quốc gia. Hoạt động này được thực hiện dựa trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các quốc gia hoặc quy định của các điều ước quốc tế mà các quốc gia đó là thành viên hoặc được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại. 1.1.2. Đặc điểm và nguyên tắc tương trợ tư pháp về hình sự 1.1.2.1. Đặc điểm tương trợ tư pháp về hình sự Thứ nhất, bản chất của tương trợ tư pháp về hình sự là hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia có liên quan trong quá trình giải quyết các vấn đề tư pháp hình sự mà các bên quan tâm. Tuy nhiên, không phải tất cả đều cần đến tương trợ tư pháp về hình sự mà 11
- hoạt động này chỉ được áp dụng đối với vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài và khi có một bên yêu cầu sự hỗ trợ từ các quốc gia hữu quan. Thứ hai, mục đích của tương trợ tư pháp về hình sự là nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân trước sự xâm phạm của tội phạm. Đồng thời, nhằm góp phần củng cố và tăng cường các mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia hữu quan trên mọi lĩnh vực, trong đó có hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thứ ba, cơ sở pháp lý thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự là các điều ước quốc tế (đa phương, song phương hoặc khu vực) mà các quốc gia là thành viên hoặc được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại (trong trường hợp chưa có điều ước) và pháp luật trong nước của các quốc gia liên quan. Hoạt động này chịu sự chi phối, điều chỉnh của pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật hình sự, pháp luật tương trợ tư pháp. Ngoài ra, còn chịu sự chi phối của các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, nguyên tắc có đi có lại, nguyên tắc tội phạm kép, nguyên tắc quốc tịch Thứ tư, nội dung của tương trợ tư pháp về hình sự bao gồm các hoạt động liên quan đến việc đề ra yêu cầu, tiếp nhận và xử lý các yêu cầu ủy thác tương trợ tư pháp về hình sự của nhau. Thông qua đó, các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền của các quốc gia liên quan đến hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Thứ năm, phạm vi hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các vấn đề tương trợ về hình sự như hỗ trợ hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, truy cứu trách nhiệm hình sự, dẫn độ tội phạm, thi hành án hình sự Theo nghĩa hẹp là hoạt động hỗ trợ cho việc giải quyết vụ án hình sự như: thu thập tài liệu, chứng cứ, lời khai; cung cấp thông tin; thực hiện việc trợ giúp các hoạt động khám xét, bắt giữ người phạm tội; cung cấp tài liệu có liên quan đến vụ án, phục vụ quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự theo sự thỏa thuận giữa các quốc gia trong các điều ước quốc tế hoặc theo nguyên tắc có đi có lại. Thứ sáu, biện pháp thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự được thực hiện thông qua các yêu cầu ủy thác tư pháp về hình sự hoặc thực hiện các yêu cầu ủy thác tư pháp về hình sự giữa các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia hữu quan đối 12
- với các hành vi tố tụng cần tương trợ trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài. Thứ bảy, chủ thể thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự là do pháp luật quốc nội của các quốc gia quy định nhưng thông thường đó là các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền. Trong lĩnh vực này, các quốc gia đều xác định cơ quan đầu mối trung ương để tiếp nhận, chuyển giao các yêu cầu ủy thác tư pháp về hình sự. Đồng thời, xác định hệ thống các cơ quan tư pháp trực tiếp thực thi các hoạt động tương trợ tư pháp hình sự (thông thường được quy định trongBLTTHS và Luật tương trợ tư pháp). 1.1.2.2. Nguyên tắc tương trợ tư pháp về hình sự Theo quy định tại Điều 4 Luật tương trợ tư pháp năm 2007, tương trợ tư pháp về hình sự được thực hiện trên nguyên tắc : - Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế đã được Hiến chương Liên hợp quốc ghi nhận và là nền tảng cho mọi quan hệ quốc tế song phương và đa phương. Nguyên tắc này được thể hiện trong hầu hết các lĩnh vực hợp tác quốc tế trong đó có hợp tác tương trợ tư pháp về hình sự.Trong mọi quan hệ quốc tế, chủ quyền quốc gia phải được coi là tối cao, thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Mỗi quốc gia đều có quyền riêng biệt đối với hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp trên phạm vi lãnh thổ của mình mà không ai có thể can thiệp. Mọi pháp nhân, thể nhân kể cả pháp nhân, thể nhân nước ngoài ở trên lãnh thổ một quốc gia đều phải tuân thủ pháp luật của quốc gia đó.Như vậy nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền đảm bảo cho điều kiện tiên quyết để các quan hệ hợp tác quốc tế được thực thi với đầy đủ ý nghĩa của nó.Trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, nội dung của nguyên tắc này được thể hiện là khi tiếp nhận một yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự, nước nhận được yêu cầu có quyền chấp nhận hay từ chối yêu cầu tương trợ đó. Nghĩa là việc chấp nhận trợ giúp pháp lý hình sự hay không tùy thuộc hoàn toàn vào ý chí của 13
- quốc gia đã tiếp nhận yêu cầu, đây là quyền của quốc gia và xuất phát từ lợi ích của quốc gia. Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau là yêu cầu có tính tối cao trong mọi quan hệ quốc tế, trong đó có lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự. Nguyên tắc này khẳng định giữa các quốc gia đều không có sự phân biệt, đối xử về chế độ chính trị, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và đều là chủ thể bình đẳng, có quyền và nghĩa vụ quốc tế như nhau trong mọi quan hệ quốc tế, kể cả trong lĩnh vực tương trợ tư pháp hình sự. Nội dung của nguyên tắc này hướng tới mục đích là không được có sự phân biệt đối xử giữa các quốc gia trong thực hiện các uỷ thác tư pháp về hình sự, kể cả trường hợp giữa các quốc gia này có sự khác biệt nhau về chế độ chính trị - xã hội, mức độ thân thiện, cũng như trình độ phát triển. Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm phải được thực hiện trên cơ sở tuân theo Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và các ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên. Đây là nguyên tắc thể hiện sự nhất quán trong chính sách, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nói chung và trong lĩnh vực tương trợ tư phápvề hình sự nói riêng. Nguyên tắc này, một mặt đảm bảo cho uy tín của Nhà nước ta trên trường quốc tế trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế và trở thành đối tác đáng tin cậy của cộng đồng quốc tế. Mặt khác, đảm bảo sự phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của đất nước, phù hợp với môi trường pháp lý hiện hành của Việt Nam. Ngoài ra, nguyên tắc này còn thể hiện về định hướng và giới hạn phạm vi hợp tác. Việt Nam có thể thỏa thuận hợp tác nhiều nội dung của TTHS nhưng không được trái với Hiến pháp và trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế. Do vậy, hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự trước hết phải được thực hiện phù hợp với Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam có liên quan và hệ thống các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Nguyên tắc này đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước ta, nhưng trước hết là quy định của Hiến pháp năm 2013, tại Điều 12khẳng định: “Nước CHXHCN Việt Nam thực hiện nhất quán 14