Luận văn Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_tuoi_chiu_trach_nhiem_hinh_su_theo_phap_luat_hinh_s.pdf
Nội dung text: Luận văn Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI THIỀU CẨM SƠN TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG HÀ NỘI, 2017 HÀ NỘI - năm
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học Viện Khoa học xã hội. Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học Viện Khoa học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN THIỀU CẨM SƠN
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 7 1.1. Những vấn đề lý luận chung 7 1.2. Cơ sở quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam 21 1.3. Lịch sử lập pháp Hình sự Việt Nam về tuổi chịu trách nhiệm hình sự 27 CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .41 2.1. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định Bộ luật Hình sự năm 1999 41 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định Bộ luật Hình sự về tuổi chịu trách nhiệm hình sự .44 Chương 3: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 53 3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tuổi chịu trách nhiệm hình sự 53 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự .63 KẾT LUẬN 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự phát triển của đất nước, công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đã, đang và luôn luôn được quan tâm chú trọng, đặc biệt khi Việt Nam đang trongtiến trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế một cách sâu rộng, toàn diện. Theo các kết quả nghiên cứu và thống kê mới nhất của các cơ quan bảo vệ pháp luật cho thấy, tình hình tội phạm ở nước ta trong những năm gần đây đang có sự gia tăng không những về số lượng, số vụ mà còn gia tăng cả về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, cũng như sự xuất hiện nhiều loại tội phạm với phương thức, thủ đoạn mới trong giai đoạn hiện nay. Đáng lo ngại hơn, tình trạng người chưa thành niên phạm tội cũng đang có sự gia tăng về cả số lượng và tính chất, mức độ nguy hiểm.Độ tuổi của người thực hiện hành vi phạm tội ngày trẻ hóa.Hành vi phạm tội của người chưa thành niên ngày càng táo tợn, manh động gây hoang mang, lo lắng cho dư luận xã hội. Theo kết quả nghiên cứu của Bộ Tư pháp, trung bình mỗi năm cả nước có khoảng 14.000 - 16.000 người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Trong năm 2009, có 14.466 trường hợp,từ năm 2006 đến năm 2010, tình trạng này có xu hướng giảm nhưng không ổn định. Đáng lưu ý, tỷ lệ đối tượng bị xử lý hình sự tăng (năm 2007 là 27,1%, năm 2010 là 36%) và hình phạt phổ biến mà Tòa án áp dụng là tù có thời hạn. Các tội phạm chủ yếu mà người chưa thành niên thực hiện là trộm cắp tài sản, gây rối trật tự công cộng, đánh bạc, cướp giật, cưỡng đoạt tài sản, cố ý gây thương tích, hiếp dâm.Trong đó, có không ít các trường hợp phạm các tội đặc biệt nghiêm trọng như cướp tài sản, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, giết người ,Địa bàn có nhiều người chưa thành niên phạm tội là các thành phố lớn, khu đô thị lớn, như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Bắc Ninh điển hình có những vụ án đặc biệt nghiêm trọng gây xôn xao dư luận mà các phương tiện thông tin đại chúng đã thường xuyên đăng tải. 1
- Những số liệu trên cho thấy diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng và ngày càng nguy hiểm của tội phạm chưa thành niên. Nguyên nhân của những hiện tượng trên bắt nguồn từ chính mặt trái củanền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Ngoài tiếp thu những tiến bộ khoa học kĩ thuật, văn hóa tinh hoa nhân loại, thì đồng thời cũng xuất hiện những vấn đề tiêu cực, như lối sống gấp, chạy theo đồng tiền, tâm lí hưởng thụ, lười lao động, thói quen rượu chè, nghiện hút . Cùng với đó là hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Thực tiễn áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1999 cho thấy các quy định của pháp luật hình sự về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự có phần còn sơ sài: đồng nhất mọi cá thể ở các điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau trong cùng một độ tuổi, chưa được quy định trực tiếp với tư cách là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm hay định nghĩa lập pháp về tuổi và độ tuổi, căn cứ xác định độ tuổi của người phạm tội, tất cả đều dẫn đến việc hiểu và áp dụng chưa thống nhất, còn nhiều bất cập, tồn tại nhiều vướng mắc.Ngoài ra, vấn đề loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người cao tuổi chưa được đề cập trong Bộ luật Hình sự hiện hành. Khía cạnh này mới chỉ được quy định như một tình tiết miễn, giảm trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt. Đây cũng là một trong những vấn đề về tuổi chịu trách nhiệm hình sự đặt ra cho các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu cũng như các nhà lập pháp cần phải nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật. Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài: “Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho tới thời điểm này, vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự mặc dù là một trong những chế định quan trọng trong Bộ luật Hình sự, nhưng vẫn còn rất ít các công trình nghiên cứu. Vấn đề này chủ yếu mới chỉ được đề cập đến như một phần nhỏ trong các bài viết, khóa luận, luận văn về tội phạm và cấu thành 2
- tội phạm, chủ thể của tội phạm hay nhân thân người phạm tội, hoặc trong các công trình nghiên cứu về người chưa thành niên phạm tội. Các nghiên cứu khoa học khác cũng rất ít đề cập đến việc nghiên cứu về tuổi chịu trách nhiệm hình sự với tư cách một công trình riêng biệt. Liên quan đến đề tài, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây: - Nhóm công trình luận văn, luận án bao gồm: Luận văn thạc sĩ luật học“Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Thị Hoàng Lan, Khoa Luật – Đại học Quốc Gia, 2012, Luận văn thạc sĩ luật học “Vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự - Lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Đức Hoàng, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2015. - Nhóm công trình sách, bài viết, tài liệu tham khảo: Bài viết “Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam”của tác giả Nguyễn Văn Niên đăng tại tạp chí Nhà nước và Pháp luật.- Số 1/2015, tr. 35 – 41, Bài viết “Một số quy định sửa đổi, bổ sung liên quan đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015”của tác giả Nguyễn Tuyết Mai đăng tại Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân tối cao.- Số 15/2016, tr. 27 – 29, Bài viết “Một số ý kiến về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và biện pháp thay thế xử lý hình sự áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định trong dự thảo Bộ luật Hình sự sửa đổi Tòa án nhân dân” của tác giả Dương Tuyết Miên đăng tại tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân tối cao.- Số 18/2015, tr. 1 - 6, 18, bài viết “Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Luật Hình sự Việt Nam”của tác giả Phạm Văn Báu đăng tại tạp chí Luật học – Trường Đại học Luật Hà Nội.- Số 10/2014, tr. 3 – 11; Bài viết “Nên quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự sớm hơn” của tác giả Vũ Hải Việt đăng tại tạp chí Luật sư Việt Nam, số 11/2015, tr. 10-14; Sách chuyên khảo sau đại học: Tội phạm và trách nhiệm hình sự của TS. Trình Tiến Việt nxb Công an nhân dân, 2013; Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật 3
- hình sự (Phần chung) của GS.TSKH. Lê Văn Cảm, nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005,Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (sửa đổi và bổ sung” của GS.TS. Võ Khánh Vinh nxb Công an nhân dân,Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999 – Phần chung, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2000 của ThS. Đinh Văn Quế Các công trình nghiên cứu kể trên đã đề cập và phân tích ở các cấp độ khác nhau về những vấn đề lý luận, hệ thống quá trình lịch sử cũng như quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Tổng hợp số liệu thống kê thực tiễn để từ đó đưa ra những bất cập cùng những giải pháp kiến nghị đề xuất hoàn thiện. Một số công trình cũng đưa ra các quan điểm về vấn đề nên quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự sớm hơn. Luận văn sẽ tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu khoa học nói trên làm nền tảng lí luận cho đề tài. Tuy nhiên từ thời điểm Bộ luật Hình sự 2015 được thông qua nhưng chưa chính thức có hiệu lực, phần lớn các nghiên cứu kể trên chỉ dưới dạng bài viết, chưa có công trình thể hiện sự so sánh với quy định hiện hành, tìm ra những điểm mới cũng như những bất cập trong Bộ luật hình sự 2015 hay những quan điểm về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong quá trình xây dựng Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, trên cơ sở các nghiên cứu này, tác giả tiếp tục phân tích sâu, đưa ra những bình luận, nhận định khoa học và kiến nghị, giải pháp riêng của mình để tiếp tục hoàn thiện chế định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là nhằm làm rõ hơn những vấn đề lý luận về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam, hệ thống lại quá trình xây dựng pháp luật hình sự kết hợp nghiên cứu thực tiễn khi 4
- áp dụng các quy định hiện hành để từ đó đưa ra được định hướng sửa đổi, hoàn thiện các quy định cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau đây: - Phân tích làm rõ hơn một số vấn đề lí luận và khái quát lịch sử lập pháp về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. - Phân tích làm rõ quy định của Bộ luật Hình sự 1999 về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong sự so sánh với Bộ luật Hình sự 2015. - Nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đưa ra được những kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu theo không gian chỉ xoay quanh vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự dưới góc độ pháp lý hình sự, theo thời gian từ xã hội Việt Nam thời kì phong kiến đến hiện nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề tội phạm và hình phạt, về đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, lý luận về luật hình sự và tố tụng hình sự. Luận văn sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: sử dụng kết hợp các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, nghiên cứu tài liệu, 5
- nghiên cứu bản án, phương pháp suy luận logic, phương pháp quy nạp diễn dịch và phương pháp phỏng vấn các chuyên gia để có được những quan điểm của họ về vấn đề tác giả quan tâm tất cả các phương đều được sử dụng kết hợp nhằm làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam. Luận văn cung cấp và đưa ra những vấn đề lý luận, tiến trình lập pháp, thực tiễn áp dụng để từ đó đóng góp những quan điểm hoàn thiện nhận thức cũng như quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Về mặt thực tiễn Trước hết, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo phục vụ trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập bộ môn luật Hình sự Việt Nam tại các cơ sở giáo dục đào tạo ngành Luật. Cùng với đó luận văn sẽ góp phần tích cực trong việc nâng cao nhận thức và hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung cũng như những quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, tài liệu tham khảo, đề tài được cấu trúc gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tuổi chịu trách nhiệm hình sự Chương 2: Quy định bộ luật hình sự năm 1999 về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng Chương 3: Hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 1.1. Những vấn đề lý luận chung 1.1.1. Khái niệm tuổi chịu trách nhiệm hình sự Trách nhiệm hình sự là một trong những vấn đề lý luận phức tạp, là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Từ trước đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về nội hàm của khái niệm trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, dưới góc độ khái quát và chung nhất, có thể định nghĩa: “Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm, được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật hình sự quy định đối với người phạm tội”. Là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh (xuất hiện) khi có sự việc phạm tội. Cho nên, trách nhiệm hình sự là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác. Nó chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất định – một bên là Nhà nước còn bên kia là người phạm tội. Con người không phải sinh ra đã có năng lực trách nhiệm hình sự mà phải thông qua qua quá trình hoạt động – lao động, giáo dục – học tập khả năng đó sẽ dần dần hình thành, hay có thể hiểu năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực của tự ý thức được hình thành trong quá trình phát triển của cá thể về mặt tự nhiên và xã hội. “Chỉ trong tự ý thức, con người (mới) tách mình và độc lập với thế giới xung quanh, xác định vị trí của mình trong những quan hệ tự nhiên và xã hội. Từ đó hình thành nên những cá nhân, những chủ thể có ý thức đầy đủ về hoạt động của mình chịu trách nhiệm về hành vi của mình”[38, tr.75]. Như vậy khi đã đạt độ tuổi nhất định, nhận thức và hiểu biết của con người toàn diện hơn, 7
- sâu sắc hơn, sẽ nhận biết được hành vi của mình là đúng hay sai, có vi phạm pháp luật hay không , để điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với các quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, pháp luật hình sự nước ta chỉ buộc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội quy định trong Bộ luật Hình sự chịu trách nhiệm hình sự khi đã đạt độ tuổi nhất định. Trên thực tế, pháp luật hình sự của các nước trên thế giới và của Việt Nam đều dựa trên cơ sở kết quả các công trình nghiên cứu, khảo sát về tâm lý cũng như căn cứ vào chính sách hình sự của nước mình để quy định vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự mặc dù không được ghi nhận chính thức dưới góc độ lập pháp là một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của tội phạm trong Điều 8 Bộ luật Hình sự hiện hành của nước ta, tuy nhiên, dấu hiệu này lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sáng tỏ trách nhiệm hình sự của người phạm tội, cũng như đây là dấu hiệu không thể tách rờitrong yếu tố chủ thể của tội phạm bên cạnh dấu hiệu “năng lực trách nhiệm hình sự”. Hiện nay, chưa có định nghĩa chính thức nào về nội dung này. Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ dừng lại ở việc quy định độ tuổi của một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải chịu trách nhiệm hình sự và các trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự. Đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu và có những quan điểm riêng về “tuổi chịu trách nhiệm hình sự”.Theo GS.TS. Lê Cảm:“Đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là đủ tuổi do pháp luật hình sự quy định tại thời điểm thực hiện tội phạm để có thể có khả năng nhận thức đầy đủ tính chất thực tế và tính chất pháp lý của hành vi do mình thực hiện cũng như có khả năng điều khiển được đầy đủ hành vi ấy”[6, tr.128]. Có thể thấy người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được hiểu là người mà tại thời điểm phạm tội đã đạt đến độ tuổi do luật hình sự quy định để có khả năng nhận thức được đầy đủ tính chất thực tế - tính nguy hiểm cho xã hội và tính chất pháp lý – trái pháp luật hình sự của hành vi do mình thực hiện, cũng như điều khiển được đầy đủ hành vi của mình. Bên cạnh 8
- việc xác định tuổi như ngưỡng chịu trách nhiệm hình sự, tuổi cũng là yếu tố để xác định hoặc loại bỏ mức trách nhiệm hình sự mà họ phải gánh chịu khi phạm tội. Theo logic, nếu đến một độ tuổi nhất định con người mới có khả năng nhận thức về điều khiển hành vi của mình thì theo thời gian đến độ tuổi nhất định sự già yếu và bệnh tật sẽ làm giảm đi khả năng nhận thức và điều khiển hành vi đó. Do đó, mặc dù chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành nhưng để xây dựng khái niệm có tính dự báo và khái quát nhất không thể bỏ qua căn cứ độ tuổi để xác định loại hoặc mứcchịu trách nhiệm hình sự. Như vậy có thể định nghĩa một cách khái quát nhất: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là độ tuổi mà pháp luật hình sự quy định người đạt độ tuổi đó phải chịu trách nhiệm hậu quả pháp lý bất lợi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự. 1.1.2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định Bộ luật Hình sự một số nước trên thế giới Việc quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự đều phải xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như căn cứ về mặt tâm sinh lý phát triển của con người. Vì vậy, luật hình sự các nước đều quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không phải nước nào cũng giống nhau, tùy thuộc vào đặc điểm riêng của từng nước. Mỗi quốc gia có truyền thống văn hóa lịch sử quan niệm về đạo đức, phong tục tập quán khác nhau, mặt khác còn do sự phát triển không đồng đều về kinh tế, chính trị, sự khác biệt về đặc điểm sinh học của từng chủng tộc do đó quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở mỗi nước có sự khác biệt. Bảng so sánh độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số nước trên thế giới dưới đây đã phản ánh rõ nội dung đó [40, tr243]: Bảng 1.2: So sánh độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số nước Tuổi chịu Tuổi chịu Tuổi chịu Quốc gia Quốc gia Quốc gia TNHS TNHS TNHS Hoa Kỳ 6+/N Honđuát 12 Nga 14 9
- Mêhico 6 Ailen 12 Nhật Bản 14 Bácbadot 7 Li băng 12 Xlovenia 14 Síp 7 Hà Lan 12 Tây Ban Nha 14 Ấn Độ 7 Xan Mario 12 Ucraina 14 Giamaica 7 Thổ Nhĩ Kì 12 Damnia 14 Kênya 7 Angieri 13 Cộng hòa Séc 15 Cooet 7 Pháp 13 Đan Mạch 15 Xingapo 7 Hi Lạp 13 Ai Cập 15 Thụy Sĩ 7 Iixraen 13 Phần Lan 15 Thái Lan 7 Ba Lan 13 Aixolen 15 Trinidast 7 Xenegan 13 Nauy 15 Đảo Xâyman 8 Ácmeenia 14 Xlovakia 15 Libi 8 Áo 14 Tandania 15 Xcotlem 8 Adecsbaidan 14 Tôgo 15 Irac 9 Bêlarut 14 Anđổa 16 Manta 9 Bôxia 14 Áchentina 16 Philipin 9 Bulgari 14 Bỉ 16 Anh - xứ Wales 10 Trung Quốc 14 Chile 16 Ôxtraylia 10 Đức 14 Cuba 16 Malaixia 10 Hungary 14 Extonia 16 Namibia 10 Italia 14 Hồng Kong 16 Niu Dilan 10 Kadacxtan 14 Latvia 16 Bắc Ailen 10 Hàn Quốc 14 Mônđôva 16 Nam Phi 10 Lihuanua 14 Bồ Đào Nha 16 Canada 12 Maxedonia 14 Rumani 16 Coxta Rica 12 Moritiut 14 Côlombia 18 Ecuado 12 Mông Cổ 14 Luychxambua 18 Tham chiếu vào bảng trên có thể thấy các nước quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở độ tuổi 14 chiếm tỷ lệ cao như: Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Áo Thực tế cho thấy quy định tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự ở Việt 10
- Nam là phù hợp với xu thế chung của một số nước trên thế giới. Tuy có sự tương đồng khi quy định độ tuổi tối thiểu phải chịu trách nhiệm hình sự là 14 tuổi nhưng nội dung quy định này giữa các nước có những điểm khác biệt. Trong số đó, phải kể đến Bộ luật Hình sự Liên Bang Nga năm 1996 sửa đổi năm 2000 có điểm khác biệt khi quy định những loại tội cụ thể mà những người 14 tuổi phải chịu. “Điều 20. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự 1.Người từ đủ 16 tuổi trước thời điểm thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự 2.Người từ đủ 14 tuổi trước thời điểm thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự do thực hiện các tội sau: tội giết người (Điều 105), tội cố ý gây thương tích rất nặng cho sức khỏe của người khác (Điều 111), tội cố ý gây thương tích nặng cho sức khỏe của người khác (Điều 112), tội bắt cóc (Điều 126), tội hiếp dâm (Điều 131), tội cưỡng dâm (Điều 132), tội trộm cắp (Điều 158), tội cướp (Điều 161), tội cướp giật (Điều 162), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 163), chiếm giữ trái phép ô tô hoặc các phương tiện giao thông khác không nằm mục đích chiếm đoạt (Điều 166), tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản trong các tình tiết tăng nặng (Khoản 2 Điều 167), tội khủng bố (Điều 205), tội bắt cóc con tin (Điều 206), tội thông tin sai sự thật về hành động khủng bố (Điều 207), tội gây rối trong các tình tiết tăng nặng (Khoản 2 Điều 213), tội phá hủy tài sản công cộng (Điều 214), tội chiếm đoạt hoặc cưỡng đoạt vũ khí, đạn dược, thiết bị và vật liệu nổ (Điều 226), tội chiếm đoạt hoặc cưỡng đoạt các chất ma túy và hướng thần (Điều 229), tội làm hư hại các phương tiện giao thông và đường dây thông tin liên lạc (Điều 267) 3.Nếu người chưa thành niên đạt độ tuổi được quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều này nhưng do thần kinh chậm phát triển nhưng không liên quan đến bệnh tâm thần vào đúng thời điểm thực hiện tội phạm không thể nhận thức đầy đủ tính chất thực tế và mức độ nguy hiểm do hành động (Không hành động) 11
- của mình gây ra hoặc không thể điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự” [2, tr36] Hay Bộ luật Hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1997, sửa đổi năm 2005 quy định cũng khá đơn giản và cách tiếp cận giống với Bộ luật Hình sự Liên bang Nga, đặc biệt là quy định phạm vi loại tội sẽ áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi những chưa đủ 16 tuổi (tội giết người hoặc cố ý gây thương tích dẫn đến thương tích nặng hoặc chết người, hiếp dâm, cướp giật, mua bán chất ma túy, đốt nhà, đặt bom, đầu độc) tại Điều 17 như sau: “Người từ đủ 16 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. Người đủ 14 tuổi những chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc cố ý gây thương tích dẫn đến thương tích nặng hoặc chết người, hiếp dâm, cướp giật, mua bán chất ma túy, đốt nhà, đặt bom, đầu độc. Người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi được hưởng hình phạt giảm nhẹ hoặc giảm khung hình phạt. Trường hợp không xử phạt hình sự đối với người chưa đủ 16 tuổi, thì phải yêu cầu chủ gia đình hoặc người giám hộ quản giáo. Trong trường hợp cần thiết có thể bị đưa vào trường giáo dưỡng”[3, tr43] Như vậy có thể thấy theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành ở nước ta và Trung Quốc có nhiều nét tương đồng hơn khi cùng xác định độ tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự là 14 tuổi, trường hợp năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ ở độ tuổi từ đủ 14 tuối đến dưới 16 tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ từ 16 tuổi trở lên. Tuy nhiên nếu pháp luật Việt Nam quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do cố ý, tội đặc biệt nghiêm trọng thì pháp luật Trung Quốc lại liệt kê các tội phạm cụ thể mà người phạm tội từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cách liệt kê này được Bộ luật Hình sự của nước ta năm 2015 đang áp dụng và có nhiều điểm tương đồng với Bộ luật Hình sự Liên bang Nga. Tuy nhiên phạm vi và các tội phạm cụ thể là khác nhau. 12
- Qua tìm hiểu quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định trong pháp luật hình sự nước ta và một số nước trên thế giới, có thể thấy mặc dù cách tiếp cận khác nhau về giới hạn độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, song đều giống nhau ở chỗ chỉ rõ giới hạn thấp nhất mà một người khi thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự. Các nước đều coi đây là cơ sở pháp lý quan trọng để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Tuy nhiên sự khác biệt về chính trị, kinh tế - xã hội, về đặc điểm tâm lý, tự nhiên mà các nước quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự là không giống nhau. Nhìn vào tổng quan có thể thấy nhóm nước quy định độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi trở lên chiếm tỉ lệ lớn và Việt Nam cũng là một trong số đó. Việt Nam quy định tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi trở lên là khoa học và phù hợp với xu hướng chung của nhiều nước trên thế giới. 1.1.3. Những quan điểm về tuổi chịu trách nhiệm hình sự Quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự không chỉ có ý nghĩa trước yêu cầu phòng chống tội phạm, mà còn thể hiện bản chất, chính sách hình sự của một quốc gia. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, vấn đề người chưa thành niên phạm tội đã gióng lên những hồi chuông báo động. Điều này đặt ra một vấn đề pháp lý đó là việc cân nhắc quy định lại độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Xung quanh vấn đề này đang có ba luồng quan điểm chủ đạo: * Quan điểm thứ nhất cho rằng nên giảm độ tuổi tối thiểu phải chịu trách nhiệm hình sự xuống là 13 tuổi tròn và độ tuổi người thành niên là thấp hơn 18 tuổi tròn như quy định hiện hành.Theo GS.TS Hồ Trọng Ngũ – Phó chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng – An ninh cho rằng [10, tr60]: mỗi năm trung bình có đến 16.000 – 18.000 trẻ em chưa thành niên phạm tội, chiếm 15-18% số tội phạm. Hơn 65% vụ phạm pháp của người chưa thành niên có sử dụng vũ khí nóng hoặc hung khí, nhiều vụ rất dã man và mất hết tính người. Nhưng việc xứ lý chỉ dừng lại ở mức độ như các tội ít nghiêm trọng. Hay khi được hỏi quan điểm, theo ThS. Nguyễn Văn Tùng – phó trưởng phòng Viện khoa học xét xử Tòa án 13
- nhân dân tối cao cho rằng: “Cần thiết phải giảm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật Hình sự 2015, bởi lẽ cùng với sự phát triển kinh tế xã hội và sự phát triển tâm sinh lý trưởng thành của thanh thiếu niên ở nước ta hiện nay là rất sớm, việc quy định như hiện tại sẽ không đáp ứng được yêu cầu phòng, chống tội phạm. Mặt khác, lợi dụng sự nhân đạo của Nhà nước, các tổ chức, băng nhóm tội phạm sẽ “nuôi dưỡng” những tội phạm chuyên nghiệp với độ tuổi chưa thành niên để thực hiện hành vi phạm tội, vì chúng biết chắc mức án cao nhất mà chúng phải chịu chỉ là 18 năm tù”, cùng với quan điểm cho rằng nên hạ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng bà Trương Thị Mai – Chủ nhiệm ủy ban các vấn đề xã hội cũng đề nghị cần có nghiên cứu kĩ lưỡng và đánh giá tác động cụ thể [49]. Có thể thấy với tinh thần nhân đạo, nhân văn sâu sắc, Bộ luật hình sự 1999 đã dành hẳn một chương riêng quy định về việc xử lý người chưa thành niên phạm tội.Tuy nhiên, trước thực trạng người chưa thành niên phạm tội gia tăng và diễn biến phức tạp như hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng cần phải hạ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và tăng mức hình phạt để trừng trị tội phạm, nâng cao tác dụng giáo dục phòng ngừa. Nhiều em khi được hỏi về động cơ và nhận thức về hành vi của mình đã trả lời: vì biết pháp luật không xử lý hình sự đối với người dưới 14 tuổi nên đã phạm tội. Như vậy các em có thể tự nhận thức hoặc vô cùng dễ dàng bị lôi kéo lợi dụng để thực hiện tội phạm hay thực hiện hành vi vào các mục đích phạm tội của người khác.Phía sau các bản án đã tuyên dành cho các bị cáo, dư luận cho rằng hình phạt dành cho các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là chưa tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội, chưa đủ sức trừng trị tội phạm cũng như giáo dục, phòng ngừa chung, gây hoang mang và mất niềm tin vào pháp luật. Ví dụ: vụ án trộm cắp tại sản tại tỉnh Yên Bái. Theo bản án số 14/2016/HSST ngày 30/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Lục Yên đã quyết định bị cáo Bế Thanh Sơn sinh ngày 17 tháng 10 năm 1998, phạm tội vào ngày 14
- 3/2/2016 tội trộm cắp tài sản với hình phạt 06 tháng tù, tuy nhiên trước đó ngày 28/10/2015 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Lục Yên đã ra bản án số 16/2015/HSST tuyên phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo cũng về tội “trộm cắp tài sản” nên tổng hợp hình phạt chung của 02 bản án là 01 năm 03 tháng tù. Điều đáng nói ở đây, bị cáo trong thời gian ngắn đã tái phạm với cùng một tội danh đã cho thấy khi phạm tội lần đầu với bản án và hình phạt dành cho bị cáo đã không có tác dụng răn đe, giáo dục, mặt khác có thể khiến cho bị cáo ý thức lợi dụng được sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội. Trong một vụ án khác, tại Nam Định:Theo bản án số 52/2016/HSST ngày 20/9/2016, Bị cáo Phạm Thị Chi sinh ngày 25/8/1998 bị Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng, Nam Định tuyên án phạm tội Trộm cắp tài sản với hình phạt 15 tháng tù giam, tuy nhiên trước đó bị cáo cũng bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, Hà Nam xử phạt 09 tháng tù tội trộm cắp tài sản nên tổng hợp hình phạt là 24 tháng tù giam. Những vụ án nêu trên chỉ là những vụ án xảy ra trong thời gian gần đây, chỉ trong thời gian ngắn các bị cáo đều là những người chưa thành niên, đều nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình nhưng vẫn tái phạm với cùng một tội danh gây hậu quả lớn cho xã hội nhưng hình phạt còn chưa đủ nghiêm khắc khiến cho họ còn bất chấp vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Từ những thực trạng đó, có nhiều quan điểm cho rằng quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 1999 là không còn phù hợp và cần thiết phải giảm mức tối thiểu chịu trách nhiệm hình sự và mức tuổi người thành niên là thấp hơn 18 tuổi tròn. Hơn nữa do điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển, trẻ em có điều kiện tiếp xúc thông tin đại chúng như internet, sách báo nên nhận thức về xã hội và pháp luật ngày càng cao nên việc hiểu biết cũng như nguy cơ lợi dụng những lỗ hổng hay chính sách nhân đạo của nhà nước để thực hiện hành vi phạm tội là ngày một lớn. Bên cạnh đó nếu quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự từ 14 tuổi tròn xuống còn 13 tuổi tròn sẽ thống nhất với quy định tuổi của người bị 15