Luận văn Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cận đại

pdf 112 trang vuhoa 25/08/2022 8500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cận đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_tu_tuong_nha_nuoc_phap_quyen_thoi_ky_can_dai.pdf

Nội dung text: Luận văn Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cận đại

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI MẠNH GIANG TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN THỜI KỲ CẬN ĐẠI Chuyên ngành : Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ HỒI Hà Nội - 2015
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Bùi Mạnh Giang
  3. LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành sau quả trình nỗ lực học tập bản thân cũng như nhờ sự giúp đỡ chỉ bảo tận tâm của các quý thầy cô tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhân dịp này cho phép em được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới: Ban Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Các thầy cô giáo, cán bộ phòng Sau đại học thuộc khoa Luật, tập thể lớp cao học lý luận khóa 18, bạn bè thân hữu. Đặc biệt, em rất biết ơn PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi đã tận tâm giúp đỡ, chỉ bảo để em có thể hoàn thành luận văn này. Hà Nôi, tháng 3 năm 2015 Bùi Mạnh Giang
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TỪ THỜI CỔ ĐẠI ĐẾN THỜI CẬN ĐẠI 6 1.1. Khái niệm tư tưởng nhà nước pháp quyền 6 1.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền trước thời kỳ cận đại 8 1.2.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Đông trước thời kỳ cận đại 8 1.2.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Tây trước thời kỳ cận đại 12 1.3. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cận đại ở một số nước trên thế giới 17 1.3.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Anh 18 1.3.2.Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Pháp 23 1.3.3. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Mỹ 30 1.3.4. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Đức 39 2.4. Những giá trị của tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cận đại. 48 CHƯƠNG 2: SỰ ÁP DỤNG TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở MỘT SỐ NƯỚC THỜI KỲ CẬN ĐẠI 57 2.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền 57 2.2. Sự áp dụng tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Anh 67 2.2. Sự áp dụng tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Mỹ 73 2.3. Sự áp dụng tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Pháp 82 2.4. Sự áp dụng tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Đức 86 2.5. Một số giải pháp đối với vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay 89
  5. 2.5.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền và đảm bảo vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống Nhà nước và đời sống xã hội 90 2.5.2. Đổi mới, hoàn thiện sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước 91 2.5.3. Chú trọng tới việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân 95 2.5.4. Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa 96 2.5.5. Xây dựng và củng cố xã hội công dân 97 2.5.6. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân 98 KẾT LUẬN 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật cùng với Hiến pháp, các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương đã được xây dựng và ban hành trên cơ sở các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946 ra đời . Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ và có nhiều giai đoạn phát triển với những nét riêng nhất định phù hợp với mỗi giai đoạn đó. Ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục ở một tầm phát triển mới với nhiều đòi hỏi và nhu cầu cải cách mới. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có đặc điểm trên, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan đó còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại và xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh 1
  7. tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách Nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có năng lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế. Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc tìm hiểu về tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử, và sự áp dụng tư tưởng đó vào việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở một số nước trên thế giới thời kỳ cận đại để trên cơ sở đó tìm ra những kinh nghiệm có thể tham khảo trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đó cũng là lý do của việc chọn và nghiên cứu đề tài “Tư tưởng Nhà nước pháp quyền thời kỳ cận đại”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề nhà nước pháp quyền đã và đang được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trên nhiều phương diện và góc độ tiếp cận khác nhau như: Tập trung vào các vấn đề lý luận chung về nhà nước pháp quyền gồm có các công trình như “Sự hạn chế quyền lực nhà nước” của GS.TS Nguyễn Đăng Dung (2004, Nxb. Đai học quốc gia), “Quốc hội Việt Nam trong Nhà nước pháp quyền” (2007, Nxb. ĐH Quốc gia Hà Nội” do GS.TS Nguyễn Đăng Dung Chủ biên, “Xây dựng nhà nước pháp quyền – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (1996, Nxb. Chính trị Quốc gia) của Nguyễn Văn Niên, “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2009, Nxb. Từ điển Bách Khoa) do GS.TS Đào Trí Úc Chủ biên, “Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước” (2005, Nxb. Tư pháp) của PGS.TS Nguyễn Thị Hồi, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong bối cảnh văn hóa Việt Nam” (2006, Nxb Tư pháp) của Bùi Ngọc Sơn, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng” (2006, Nxb Tư pháp) của Nguyễn Văn Thảo, “Nhà nước pháp quyền XNCN của dân, do dân, vì dân - lý luận và thực tiễn” (2008, Nxb. Chính trị Quốc gia) của 2
  8. Nguyễn Duy Quý - Nguyễn Tất Viễn, “Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” (2006, Nxb Chính trị Quốc gia), của Nguyễn Văn Yểu - Lê Hữu Nghĩa, “Trung Quốc với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN” do Đỗ Tiến Sâm Chủ biên (2008, Nxb Khoa học xã hội), “Nhà nước pháp quyền và thực tiễn của nó ở Liên bang Nga” của Lê Cảm (1997, Nxb Sáng tạo thuộc Hội Khoa học - kỹ thuật Việt Nam tại LB Nga, Matxcơva), “Triết học của Lão Tử” (2007, Nxb Tư pháp), “Triết lý chính trị Trung Hoa cổ đại và vấn đề nhà nước pháp quyền: suy ngẫm, tham chiếu và gợi mở” (2004, Nxb Tư pháp), “Góp phần nghiên cứu hiến pháp và nhà nước pháp quyền” (2005, Nxb. Tư pháp) của Bùi Ngọc Sơn, “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền” (2004, Nxb Tư pháp do GS.TS Nguyễn Đăng Dung Chủ biên, “Học thuyết về nhà nước pháp quyền: một số vấn đề trong lịch sử hình thành và phát triển” (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2002), “Về tư tưởng nhà nước pháp quyền và khái niệm nhà nước pháp quyền” (Tạp chí luật học số 2/2002) của GS.TS Lê Minh Tâm, GS. TS Hoàng Thị Kim Quế với các bài viết như:“Học thuyết về nhà nước pháp quyền: một số vấn đề trong lịch sử hình thành và phát triển” (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8, 2001), “Nhà nước pháp quyền: các nguyên tắc cơ bản” (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp 8/2001), “Góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền” (Tạp chí Khoa học: Kinh tế - Luật thuộc Đại học quốc gia Hà Nội, số 2/2002), “Một số đặc điểm cơ bản của pháp luật trong nhà nước pháp quyền” (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 4/2002) Các công trình nghiên cứu trên đã ít nhiều có giới thiệu về tư tưởng nhà nước pháp quyền để làm rõ những vấn đề liên quan đến nhà nước pháp quyền, cũng như những thành tựu và hạn chế của Việt Nam trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, đặc biệt là vấn đề đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và việc thực hiện thống nhất quyền lực nhà nước trên cơ sở phân công và phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên chưa 3
  9. có công trình nào nghiên cứu tư tưởng nhà nước pháp quyền trong một giai đoạn lịch sử như công trình này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Nghiên cứu tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cận đại, cũng như sự áp dụng tư tưởng đó trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước của một số nước thời kỳ này để tìm ra những kinh nghiệm có thể tham khảo trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Nhiệm vụ: - Làm sáng tỏ tư tưởng nhà nước pháp quyền được thể hiện qua các quan điểm của các nhà tư tưởng trong lịch sử mà chủ yếu trong là thời kỳ cận đại ở một số nước. - Xem xét sự áp dụng tư tưởng này trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở một số nước thời kỳ cận đại để tìm ra những kinh nghiệm có thể tham khảo trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng nhà nước pháp quyền từ thời cổ đại đến thời cận đại. Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng tiêu biểu về nhà nước pháp quyền trong quan điểm của các nhà tư tưởng tiêu biểu ở một số nước thời kỳ cận đại. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử 4
  10. dụng bao gồm: phương pháp lịch sử, thống kê, so sánh, tổng hợp, hệ thống để làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu. 6. Những đóng góp và ý nghĩa thực tiễn của luận văn - Làm sáng tỏ thêm tư tưởng nhà nước pháp quyền của các nhà tư tưởng tiêu biểu thời kỳ cận đại. - Trình bày cụ thể về sự áp dụng tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cận đại ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và hoạch định chính sách, pháp luật có liên quan đến vấn đề nhà nước pháp quyền nói chung và Việt Nam nói riêng. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung báo cáo khoa học của luận văn gồm 2 chương: Chương I: Tư tưởng nhà nước pháp quyền từ thời cổ đại đến thời cận đại. Chương II: Sự áp dụng tư tưởng nhà nước pháp quyền ở một số nước. 5
  11. CHƯƠNG 1 TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TỪ THỜI CỔ ĐẠI ĐẾN THỜI CẬN ĐẠI 1.1. Khái niệm tư tưởng nhà nước pháp quyền Theo Hán - Việt từ điển tư tưởng là “cái hiện tượng về ý thức, do kinh nghiệm và tư lự mà phát sinh ra” [1, tr. 323]. Sách Từ điển Tiếng Việt giải thích thuật ngữ “tư tưởng” theo hai nghĩa: “1/Sự suy nghĩ hoặc ý nghĩ; 2/ Những quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với hiện thực khách quan, tự nhiên và xã hội” [46, tr. 1757]. Marcel Preslot và Georges Lescuyer (Hai học giả người Pháp, tác giả của sách Lịch sử tư tưởng chính trị, năm 1975) cho rằng “khái niệm tư tưởng (idea) được xem như là một cơ sở tiên nghiệm cho việc khu biệt học thuyết và lý thuyết. Chúng ta dùng từ này trong nghĩa phổ biến nhất “sự diễn tả trong tinh thần con người về một hiện tượng xác định”, và ở đây “hiện tượng xác định” ấy được coi là “hiện tượng chính trị” ; về mặt khoa học, tư tưởng (idea), lý thuyết (theorie), học thuyết (doctrine) không phải là những từ ngang nhau” [17, tr. 2]. Là sản phẩm tinh thần tồn tại cùng với con người, tư tưởng xuất hiện một cách tự nhiên do nhu cầu nhận thức và phát triển. Đó là những quan niệm được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, phản ánh các hiện tượng của hiện thực khách quan, là ý thức về mục đích của quá trình nhận thức tiếp theo cũng như trong cải tạo thế giới. Tư tưởng không chỉ là sự tổng hợp những tri thức kinh nghiệm có trước trong các lĩnh vực mà còn là cơ sở tạo thành hệ thống tri thức khám phá những nguyên tắc để giải thích hiện thực khách quan trong quá trình tìm ra con đường giải quyết hợp lý các vấn đề đặt ra. Tư tưởng được liên tục lựa chọn bởi các cá nhân cụ thể và có vai trò định hướng hoạt động, là mắt khâu tích cực, gián tiếp trong sự phát triển của 6
  12. hiện thực, trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người, của việc sáng tạo ra cái mới. Là hình thức cao của nhận thức lý luận (V.I.Lenin), công cụ của nhận thức và chỉ đạo hành động, tư tưởng thể hiện thông qua các hành vi (cả hành vi của tư duy và hành vi bản năng) của con người. Tư tưởng phản ánh tồn tại xã hội, là đường hướng của đời sống xã hội đồng thời đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển xã hội “Lao động rót dầu vào cuộc sống, còn tư tưởng thắp sáng nó lên” (G.Blenlerse), “tư tưởng làm nên sự vĩ đại của con người” (Pascal), những tư tưởng vĩ đại là suối nguồn của dòng chảy lịch sử. Tính đặc thù của tư tưởng là thống nhất hữu cơ giữa sự phản ánh hiện thực khách quan với việc xác lập các mục tiêu cho hoạt động thực tiễn của con người, cho nên các tư tưởng có thể phản ánh đúng đắn sai lạc hiện thực. Tư tưởng phù hợp với hiện thực khách quan là những tri thức khách quan, cụ thể và toàn diện về hiện thực. Do tính độc lập tương đối, trong nhiều trường hợp tư tưởng có khả năng thoát ly sự ràng buộc trực tiếp của đời sống xã hội để phản ánh vượt trước hiện thực. Những tư tưởng mang tính khoa học giá trị phổ quát, tư duy chính trị có giá trị luôn tác động tích cực đến lịch sử và hoàn cảnh, có vai trò quan trọng trong sự tiến hóa của nhân loại và dân tộc. Những tư tưởng phản ánh đúng đắn, sâu sắc các quá trình thực tế, biểu hiện lợi ích của giai cấp tiến bộ sẽ đẩy nhanh các quá trình biến đổi; góp phần tổ chức, động viên quần chúng tiến lên phía trước, tạo lập cái mới, tiến bộ. Nhiều tư tưởng của các nhà khoa học (đặc biệt là các nhà triết học, chính trị học) đã ra đời và ảnh hưởng khá sâu sắc đến vận động và phát triển của xã hội. Từ sự phân tích có thể hiểu tư tưởng nhà nước pháp quyền là tổng thể các quan điểm của các nhà triết học, chính trị học trong các thời kỳ lịch sử khác nhau về các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước tiến bộ, đề cao vai trò của nhân dân, thừa nhận chủ quyền của nhân dân, về yêu cầu đối với hệ thống pháp luật dân chủ, về vị trí, vai trò của pháp luật đối với nhà nước, đối 7
  13. với xã hội và các biện pháp nhằm bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội. 1.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền trước thời kỳ cận đại Theo quan điểm mác - xít, từ buổi đầu bình minh cho tới nay, lịch sử loài người đã trải qua năm thời kì lớn, các thời kỳ này có thời gian tồn tại khác nhau vậy nên mỗi thời kỳ lại mang trong mình những bản chất hay đặc điểm mà ở thời kỳ khác lại không có được. Thời kỳ xã hội nguyên thủy kéo dài hàng triệu năm, là thời kỳ dài nhất trong lịch sử xã hội loài người, là thời kỳ mà tất cả các quốc gia đều phải trải qua. Thời kỳ cổ đại là thời đại xã hội chiếm hữu nô lệ khoảng 3000 năm trước công nguyên. Thời kỳ trung đại là thời đại của xã hội phong kiến, bắt đầu từ thế kỷ V sau công nguyên đến năm 1640 cách mạng tư sản Anh. Thời kỳ cận đại, từ năm 1640 cho đến 1917, là thời đại của chủ nghĩa tư bản. Cách mạng tư sản Anh cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga. Thời kỳ hiện đại là thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bắt đầu từ cuộc cách mạng tháng Mười Nga cho đến nay. Tư tưởng nhà nước pháp quyền xuất hiện từ thời cổ đại và liên tục phát triển cho tới hiện nay. 1.2.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Đông trước thời kỳ cận đại Trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp luật ở phương Đông trước thời kỳ cổ và trung đại đã xuất hiện tư tưởng nhà nước pháp quyền tập trung chủ 8
  14. yếu ở Trung Quốc thời kỳ cổ đại, được thể hiện trong các quan điểm của một số nhà tư tưởng lớn trong thời kỳ này. 1.2.1.1. Mạnh Tử (372 – 289 TCN). Mạnh Tử cho rằng, vua vâng mệnh trời để trị dân, nhưng mệnh trời phải hợp với lòng dân, vai trò chủ chốt là của dân và sự phụ thuộc của nhà cầm quyền vào nhân dân. Nhà cầm quyền nếu có đạo đức sẽ cảm hóa được người dân. Giải pháp chính trị của Mạnh Tử có thể gọi là một nhà nước nhân nghĩa. Nền chính trị nhân nghĩa yêu cầu nhà cầm quyền phải coi trọng dân. Coi trọng dân là phải được lòng dân. Một nhà nước theo chủ thuyết nhân chính là một nhà nước được lòng dân bằng đạo đức của nhà cầm quyền. Và do được lòng dân như vậy, nhà nước nhân trị phải coi trọng dân, dựa vào sức mạnh của dân. Nhà nước mà sử dụng tài sản của dân lãng phí gây nghèo đói trong nhân dân thì nhân dân sẽ oán trách chính quyền. Khi đã làm cho dân no đủ, nhà cầm quyền phải giáo hóa dân. Về tương quan giữa dưỡng dân và giáo dân, Mạnh Tử cho rằng khi dân chưa được yên ổn về đời sống vật chất thì chưa thể dạy dân được. Khi dân đã hằng sản rồi thì phải làm cho họ hằng tâm. Nếu nhà cầm quyền không dạy dân để dân phạm tội rồi nhà cầm quyền chém giết dân thì đó là lỗi của nhà cầm quyền. Chủ thuyết nhân trị như vậy hướng đến một nhà nước do dân. Chủ thuyết nhân nghĩa của Mạnh Tử cũng đề nghị chính quyền phải quan tâm đến đời sống nhân dân. Chủ thuyết này đã nảy sinh tư tưởng về một chính quyền vì dân.“Nhà nước cầm quyền phải thực thi điều nghĩa đối với người dân: phải coi dân làm trọng, lấy dân làm gốc, làm cho dân đủ ăn đủ mặc, có đời sống vật chất đầy đủ sung túc, giáo hóa đạo đức cho dân. Một nhà nước nhân nghĩa đã gợi mở những tư tưởng về một nhà nước do dân và vì dân” [3, tr. 101]. 1.2.1.2. Mặc Tử (479 - 381 TCN). Tư tưởng chính trị của Mặc gia mang tính nhân bản cao, và đã tiềm ẩn những quan điểm về bình đẳng và dân chủ. Kiêm ái là vì hạnh phúc chung 9
  15. của mọi ngươi. Thuyêt kiêm ái muốn hướng tới một trật tự xã hội công bằng, mọi người yêu thương nhau không phân biệt đẳng cấp hay bất cứ một lí do gì và cùng nhau xây dựng cuộc sống tốt đẹp, và xã hội đó không có những cuộc chinh chiến giữa các nước với nhau. Mục đích của chính sách kiêm ái là vì người dân, có ý nghĩa xác định trách nhiệm của nhà nước trong việc phục vụ những lợi ích cho nhân dân. Nhân dân được đặt vào trung tâm của những chính sách của nhà nước. Có thể nói rằng đó chính là những tư tưởng dân chủ sơ khai. 1.2.1.2. Lão Tử (nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống vào thế kỉ IV TCN) Ông nổi tiếng với thuyết vô vi về nhà nước và pháp luật. Những quan điểm của Lão Tử về nhà nước vô vi có một mức độ trừu tượng hóa rất cao, không đơn thuần chỉ là những tư tưởng chính trị - pháp lý mà đã được nâng lên tầm triết học. Đây có thể là dấu hiệu của triết học pháp quyền phương Đông. Lý thuyết vô vi của ông thực chất là muốn đặt vấn đề rằng nhà nước và pháp luật phải tôn trọng bản tính tự nhiên của con người, tự do của con người. Đây là một tư tưởng rất gần với lý thuyết tự nhiên của triết học phương Tây. Học thuyết pháp lý tự nhiên chủ trương cũng giống như lý thuyết vô vi của Lão Tử rằng các đạo luật do nhà nước ban hành phải phù hợp với sự tự nhiên vốn có của con người, tôn trọng tự do của con người. Lý thuyết vô vi, cũng như lý thuyết pháp lí tự nhiên có ý chống lại sự chuyên chế của nhà nước, nó vạch ra những giới hạn là những sự tự nhiên của con người, tự do của con người mà nhà nước và pháp luật của nhà nước phải tôn trọng, không được vi phạm, và có những tác động phù hợp. Chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý phương Tây có nội dung nhằm giới hạn sự lộng quyền của nhà nước, sự can thiệp quá mức của quyền lực công vào khu vực tư nhân. Nhà nước pháp quyền được chỉ ra nhiều dấu hiệu đặc trưng. Nhưng suy cho cùng, thì những dấu hiệu đặc trưng của nhà nước pháp quyền đều hướng đến mục 10
  16. đích hạn chế sự lạm quyền của nhà nước, chống lại sự can thiệp quá mức của quyền lực nhà nước và xã hội dân sự, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của con người. Nhà nước pháp quyền là một nhà nước thừa nhận và có nghĩa vụ bảo đảm tự do của con người, không được can thiệp vào đời sống cá nhân của con người. Tư tưởng này rất gần với tư tưởng vô vi của Lão Tử. Lý thuyêt vô vi của Lão Tử có sự gặp gỡ với học thuyết nhà nước pháp quyền. Nếu như có tư tưởng về nhà nước pháp quyền ở phương Đông thì có lẽ đầu tiên phải kể đến tư tưởng của Lão Tử [3, tr. 144 - 145]. Đối lập với thuyết đức trị của Khổng Tử là thuyết pháp trị của các học giả phái pháp gia, sản sinh cùng thời với đạo Khổng Tử do Quản Trọng, Tử Sản, Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Thận Đáo đề xướng. Sau này Hàn Phi Tử phát triển và hoàn chỉnh. Nội dung cơ bản và quan điểm cai trị của phái này là: pháp trị là phương pháp duy nhất dùng để cai trị. Vì vậy, học thuyết này không thừa nhận Nho giáo. Theo thuyết pháp trị thì Vua trị nước phải có ba yếu tố: pháp, thế, thuật. Nghĩa là: pháp luật, mệnh lệnh, chiếu chỉ của Vua là khuôn mẫu của thiên hạ; nhằm trừng trị, răn đe, dân phải sợ, phải tuân thủ. Vua phải có thế, phải tạo ra uy quyền tuyệt đối của mình. Vua phải có thuật dùng người và chế độ thưởng phạt. Một khi Vua đã có đủ ba yếu tố pháp, thế, thuật thì vua phải chuyên quyền, độc đoán, thẳng tay dùng nghiêm hình phạt để cai trị. Quản Trọng và Tử Sản chủ trương dùng pháp luật làm công cụ cơ bản để cai trị đất nước và đề ra nguyên tắc “pháp bất vị thân” [39, tr. 25], bất cứ ai đều phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật ban ra phải cẩn trọng và ít thay đổi, pháp luật của Vua phải rành mạch về luật - hình - chính. Đây là luận điểm của phái pháp trị chống lại phái đức trị là phái chủ trương “hình phạt chỉ dành cho hạng thứ dân mà bậc trương phu không phải chịu hình phạt” [2, tr.17]. Đến Hàn Phi Tử (280 - 233TCN) là người phát triển tư tưởng pháp trị lên đỉnh cao, nội dung chủ yếu của tư tưởng này là lấy pháp luật thay cho lễ làm công cụ trị nước, an dân. Theo Hàn Phi Tử, hình phạt không trừ bậc đại phu “pháp luật không thể a dua người sang cũng như dây 11
  17. mực không thể uốn theo gỗ cong (cho nên) trị tội thì không chừa các quan lớn, thưởng công thì không bỏ sót dân thường” [3, tr. 165]. Mô hình pháp luật Trung Quốc đã ảnh hưởng lớn đến các quốc gia phương Đông thời cổ đại, trung đại, cận đại và cả đến ngày nay. 1.2.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Tây trước thời kỳ cận đại 1.2.2.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ cổ đại Những tư tưởng đề cập đến nhà nước mang tính chất nhà nước pháp quyền trong thời kì cổ đại ở châu Âu thể hiện rõ nét trong các quan điểm của các nhà tư tưởng tiêu biểu ở Hy Lạp và Lã Mã cổ đại. Tiêu biểu là các nhà tư tưởng Solon, Pitagore, Heraclit, Socrate, Platon, Aristote, Ciceron. - Solon (638 – 559 TCN) Có thể coi ông là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên nêu lên ý tưởng về nhà nước pháp quyền. Ông mong muốn xây dựng một nhà nước trên cơ sở một nền dân chủ thông qua tuyển cử và sự hòa nhập giữa quyền lực nhà nước với luật pháp. Các pháp lệnh do Solon vận động ban hành trong thời kỳ ông cầm quyền đã hạn chế một phần quyền lợi của quý tộc, đem lại nhiều quyền lợi cho nhân dân, chấm dứt việc biến nông dân thành nô lệ, thúc đẩy sự phát triển của công thương nghiệp và làm cho tính chất dân chủ của Nhà nước Althens được hoàn thiện thêm một bước. Lý tưởng chính trị của ông là nền dân chủ tuyển cử ôn hòa, một chế độ mà lãnh đạo xã hội là những quý tộc và những người giàu có, còn nhân dân thì chỉ có quyền chọn lựa và giám sát các quan chức. Tuy nhiên cải cách của Solon vẫn thể hiện sự tiến bộ nhất định, thể hiện mong muốn muốn xóa bỏ dần chế độ nô lệ, mở đầu cho việc xây dựng một nền dân chủ với tư cách là một hình thức nhà nước và mong muốn mang lại quyền lực cho nhân dân [3, tr. 202 - 203]. - Socrate (469 - 399 TCN) 12
  18. Ông là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử tư tưởng nhân loại. Ông được Hêghen sau này coi là “bước ngoặt lịch sử vĩ đại” trong triết học Hy Lạp cổ đại. Ông không để lại tác phẩm nào vì ông chỉ thể hiện tư tưởng của mình qua đối thoại, diễn thuyết. Tuy nhiên, những gì mà ông để lại cho nhân loại là rất lớn lao, trong đó có tư tưởng về đạo đức, về nhà nước và pháp luật. Bản thân không trực tiếp tham gia vào công việc nhà nước, nhưng ông được đánh giá là “người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng chính trị châu Âu đã hình thành quan điểm về quan hệ khế ước giữa nhà nước và công dân của mình” [15, tr. 120]. Trước tình trạng nền dân chủ Athens cuối thế kỉ V (TCN) lâm vào khủng hoảng, ông đã lên tiếng phản đối nền dân chủ Athens. Ông khẳng định “quyền lực căn cứ không phải trên pháp luật, mà trên thói chuyên quyền của người cầm quyền, quyền lực như vậy chống lại nhân dân” [41, tr. 175]. Tuy nhiên sự phản đối đó không phải là ông muốn dùng bạo lực để thay thế nó bằng một hình thái chính trị khác, mà là ông muốn nhấn mạnh sự cần thiết phải hoàn thiện nền dân chủ, ở đó có người cầm quyền xứng đáng, mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Ngoài ra, ông còn thể hiện quan điểm lên án kịch liệt đối với nền bạo chính độc đoán, dã man, phản tiến bộ. Ông ủng hộ triệt để tư tưởng pháp chế khi cho rằng, việc tổ chức đời sống nhà nước có đạo đức không thể thiếu luật pháp, cũng như không thể có thứ luật pháp nào đứng bên ngoài nhà nước. Ủng hộ nguyên tắc tuân thủ pháp luật, ông cho rằng: công lí nằm ở trong sự tuân thủ pháp luật hiện hành; sự công minh và sự hợp pháp đều là một. Mỗi một công dân mới của nhà nước đều phải tôn trọng các trật tự, quy định của nhà nước, đó là sự tuân thủ pháp luật, và nếu công dân của nhà nước nào tuân thủ pháp luật thì nhà nước đó sẽ vững mạnh. Vì thế, ông kêu gọi mỗi công dân hãy thể hiện sự trung thành tuyệt đối của mình với nhà nước và luật pháp. - Platon ( 427 – 347 TCN) Ông là học trò của Socrate, một trong những nhà tư tưởng vĩ đại của 13
  19. thời cổ đại. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền của ông được trình bày chủ yếu trong hai tác phẩm Nhà nước và Các luật. Ông cho rằng, phân công lao động trong bộ máy nhà nước là cần thiết, trong đó hoạt động xét xử của toà án là nhằm bảo vệ pháp luật và nêu luận điểm nổi tiếng: ở đâu mà luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền lực của một ai đó thì ở đó, nhà nước sẽ sụp đổ mau chóng. Còn ở dâu mà luật đứng trên nhà cầm quyền, họ chỉ là nô lệ của luật thì ở đó có sự cứu thoái của nhà nước và tất cả các lợi ích mà chỉ có thượng đế mới có thể ban phát cho các nhà nước. Theo đuổi mô hình nhà nước lí tưởng, nhà nước của sự công bằng, ông cho rằng nhà nước xuất hiện một cách tự nhiên, từ những nhu cầu của con người, trên cơ sở cùng hợp tác giữa họ cùng hướng đến lợi ích cộng đồng. Nhà nước công bằng theo ông phải được dựa trên chức phận xã hội, năng lực khác nhau của mỗi người. - Aristote (384 - 322 TCN) Ông là học trò của Platon và được C.Mác đánh giá là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại. Ông cho rằng, có tồn tại pháp luật chung, tự nhiên, khác với pháp luật riêng, cao hơn pháp luật riêng do nhà nước ban hành; đạo đức phải phục vụ pháp luật; hành động công bằng là hành động theo pháp luật. Ông cực lực lên án người cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên pháp luật, mưu toan thống trị bằng bạo lực và cần phải phân quyền trong tổ chức nhà nước. Những quan điểm nêu trên được ông trình bày trong tác phẩm Đạo đức học và Thuật hùng biện. - Ciceron (106 - 43 TCN) Nhà hoạt động nhà nước, nhà luật học và nhà hùng biện thời kì La Mã cổ đại, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như Về nhà nước, Về những đạo luật và Về các nghĩa vụ, v.v Ông dã có những tư tưởng tiến bộ như nhà nước là công việc chung của nhân dân; phân biệt ba hình thức nhà nước: dân chủ, quý tộc và quân chủ; người điều hành công việc nhà nước phải sáng suốt, 14
  20. công minh, có khả năng hùng biện và hiểu biết những nguyên lí cơ bản của pháp luật, v.v Đặc biệt, ông đưa ra quan điểm nổi tiếng: tất cả mọi người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật và nhân dân phải coi pháp luật như chốn nương thân của mình. 1.2.2.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kỳ trung cổ đến thời kỳ cận đại Thời kì trung cổ kéo dài hàng ngàn năm dưới ách thống trị của các chế độ chuyên chế vương quyền và thần quyền đầy bạo lực và cuồng tín tôn giáo. Sự tồn tại nhiều năm của các nhà nước phong kiến phương Tây đã không hoặc ít biết đến pháp quyền; là một trong những nguyên nhân của tình trạng kém phát triển kéo dài. Tuy nhiên, thời kỳ này ở phương Tây đã có không ít những quan điểm, tư tưởng tiến bộ của các nhà tư tưởng, các nhà thần học góp phần bảo tồn, làm phong phú thêm những ý tưởng về nhà nước pháp quyền thời cổ đại. Có thể thấy rõ điều này khi xem xét các quan điểm liên quan đến vấn đề nhà nước pháp quyền của một số học giả thời kỳ này. - Niccolo Machiavelli (1469 – 1527) Nhà ngoại giao và nhà chính trị, tư tưởng của Italia thời kỳ Phục hưng. Ông đã viết nên một cuốn sách danh tiếng với tựa đề “Le Prince” (Quân vương). Đây là một cuốn sách bao hàm hết những tư tưởng của ông về nhà nước và pháp luật. Giống như các nhà tư tưởng thế kỉ XVI, ông đã tách việc nghiên cứu lý luận chính trị khỏi các giáo điều và luân lý tôn giáo. Theo nhận xét của F.Ăngghen thì trí tuệ và kinh nghiệm, việc xem xét nhà nước bằng cách nhìn nhận nhân bản đã đưa Machiavelli đến việc chứng minh sức mạnh là cơ sở của quyền và “sức mạnh” lại dựa trên nền tảng của pháp quyền. [3, tr. 345]. Qua tác phẩm “Quân vương” của mình, ông ủng hộ hình thức nhà nước cộng hòa chủ yếu xuất phát từ cách nhìn nhận ưu ái của ông đối với những giá trị tự do và bình đẳng. Ông nói “ở đâu sự bình đẳng ngự trị thì ở đó không thể xuất hiện nền quân chủ”, và “nhân dân bao giờ cũng cao hơn vị quân vương”. Dưới con mắt của ông, nền cộng hòa bền vững hơn nền quân 15