Luận văn Tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly và ý nghĩa lịch sử của nó

pdf 104 trang vuhoa 25/08/2022 9060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly và ý nghĩa lịch sử của nó", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_tu_tuong_cai_cach_ho_quy_ly_va_y_nghia_lich_su_cua.pdf

Nội dung text: Luận văn Tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly và ý nghĩa lịch sử của nó

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ TRANG TƢ TƢỞNG CẢI CÁCH HỒ QUÝ LY VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ LUẬN VĂN THẠC SỸ Hà Nội – 2015 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ TRANG TƢ TƢỞNG CẢI CÁCH HỒ QUÝ LY VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 03 01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bình Yên Hà Nội – 2015 2
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh giành, giữ, xây dựng và bảo vệ độc lập dân tộc. Tư tưởng chủ đạo của dân tộc Việt Nam là tư tưởng yêu nước. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng yêu nước Việt Nam đi đôi với sự hình thành và phát triển của quốc gia dân tộc. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không chỉ là tình cảm đơn thuần đối với non sông, đất nước mà còn là hệ thống tiêu chuẩn để nhận định đúng - sai, tốt - xấu; là kim chỉ nam cho hành động của mọi thành viên, gia đình, dòng tộc và dân tộc trong mọi giai đoạn lịch sử. Lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng gắn với hành động vì đất nước, vì sự phát triển và phồn vinh của dân tộc; không chỉ thể hiện trong các cuộc chống quân xâm lược, mà còn thể hiện trong lao động sản xuất xây dựng quê hương; trong việc tìm ra những phương hướng, những bước đi mới làm cho đất nước phát triển mà đỉnh cao là những tư tưởng, hành động canh tân, cải cách. Tư tưởng canh tân, cải cách tìm đường phát triển đất nước có một vị trí hết sức đặc biệt và đó cũng là một biểu hiện đặc biệt của tinh thần yêu nước Việt Nam. Trên đường phát triển của dân tộc, mỗi thời kỳ lịch sử đều có những tư tưởng, những cuộc cải cách do Nhà nước chủ trương hoặc cá nhân đề xướng như cải cách của Khúc Hạo ở thế kỷ thứ X, của Hồ Quý Ly cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, của Lê Thánh Tông vào nửa cuối thế kỷ XV, của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đặc biệt là công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo diễn ra từ những năm 80 của thế kỷ XX cho đến nay đã tạo ra bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Trong số những tư tưởng cải cách trước đây, tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly có vị trí đặc biệt trong lịch sử Việt Nam thời kỳ 3
  4. trung đại, mở đầu cho bước phát triển mới của Nhà nước trung ương tập quyền và sau đó được hoàn thiện dưới triều Lê Thánh Tông. Tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly xuất hiện vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đúng vào lúc lịch sử nước ta đứng trước ba đòi hỏi lớn: Một là phải loại bỏ vai trò của quý tộc Trần đã suy thoái trên vũ đài chính trị và tư tưởng; hai là, mở đường cho đất nước tiến lên theo một hướng mới hơn, tiến bộ hơn; ba là, xây dựng lực lượng chống lại âm mưu xâm lược của nhà Minh. Tư tưởng và công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly đã tấn công mạnh mẽ vào toàn bộ cở sở chính trị, kinh tế, xã hội đang trong khủng hoảng của nhà Trần. Song, chừng ấy là chưa đủ đáp ứng yêu cầu của lịch sử, cải cách thất bại. Nguyên nhân là ở chỗ: Tư tưởng, cách thức tiến hành cải cách của Hồ Quý Ly có những điểm chưa hợp lý; công cuộc cải cách mới diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn thì đất nước phải chịu cuộc chiến tranh xâm lược do nhà Minh phát động nên chưa có được những thành tựu cần thiết minh chứng cho sự tiến bộ của mình; những hạn chế của cải cách là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc triều Hồ đã không thể tập hợp, huy động được sức mạnh, trí tuệ của toàn dân vào sự nghiệp chống giặc Minh xâm lược. Mặc dù tư tưởng cải cách của ông có những hạn chế, sai lầm, công cuộc cải cách do ông lãnh đạo không thành công nhưng chúng có vai trò đặc biệt, mở đầu cho một giai đoạn mới trong đó dân tộc ta không ngừng tìm tòi đổi mới để phát triển. Nhiều tư tưởng cải cách do Hồ Quý Ly nêu ra nhưng chưa được thực hiện trong thời đại của mình thì đã được nhà Lê sơ cơ bản hoàn thành trong thời gian sau đó không lâu. Những bài học lịch sử quý báu đúc kết từ chính sự thành bại trong cải cách của Hồ Quý Ly ít nhiều còn giúp cho các thế hệ người Việt Nam hiện nay có thêm những điều kiện để nhận thức, đẩy nhanh công cuộc đổi mới đất nước đồng thời tránh được những vấp váp, sai lầm mà tiền nhân mắc phải. Do vậy, 4
  5. việc quay lại nghiên cứu tư tưởng Hồ Quý Ly có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, không chỉ nâng cao hiểu biết về tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly cùng như lịch sử tư tưởng Việt Nam mà còn góp phần nâng cao nhận thức về đường lối đổi mới đất nước của Đảng ta hiện nay, gợi mở cho chúng ta con đường phát triển để đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu. Từ những lý do đó, tôi chọn đề tài “Tƣ tƣởng cải cách của Hồ Quý Ly và ý nghĩa lịch sử của nó” làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly cùng thân thế, sự nghiệp của ông đã và đang là đề tài được nhiều người quan tâm nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau; vấn đề này được chú trọng hơn trong quá trình đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Tính từ năm 1945 đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này, tiêu biểu là những công trình sau đây: “Chính trị Hồ Quý Ly” của Chu Thiên, NXB Đại La, Hà Nội, 1945. Điểm nổi bật của công trình này là sau khi phân tích tư tưởng và hoạt động chính trị của Hồ Quý Ly, Chu Thiên đã đi đến kết luận rằng công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly là không hiệu quả, không có ảnh hưởng trực tiếp và lớn lao gì trong quần chúng; Hồ Quý Ly là nhà cải cách chính trị không tròn phận sự. Trong chuyên khảo “Hồ Quý Ly – Mạc Đăng Dung” của Lê Văn Hòe, do Quốc học thư xã Hà Nội xuất bản vào năm 1952, đã khảo cứu những nguyên nhân đi đến thất bại của Hồ Quý Ly trong cải cách và trong kháng chiến chống quân xâm lược Minh. Tác giả nhận định: “Hồ Quý Ly là một nhà chính trị quá ư cấp tiến, nên hóa vô chính trị. Thật vậy, bắt dân phải nộp vàng, bạc thật vào kho nhà vua, phát hành giấy bạc buộc dân tiêu, buộc dân khai tên vào sổ hộ tịch, buộc dân nêu tên họ và diện tích từng thửa ruộng, những việc đó đều là những việc mới mẻ, 5
  6. văn minh thật đấy, nhưng xét theo tình trạng nước nhà thời bấy giờ thì những việc đó sao khỏi quá trớn, không sát với tình trạng xã hội” [12, tr.135]. Trong cuốn “Việt Nam sử lược”, Quyển 1, Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1971, ở chương XI: Nhà Hồ, tác giả Trần Trọng Kim cho rằng: “Công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người có tài kinh tế như thế, mà giả sử cứ giúp cho nhà Trần cho có thủy có chung thì dẫu giặc Minh có thế mạnh đến đâu đi nữa, cũng chưa hầu dễ cướp được nước Nam, mà mình lại được tiếng thơm đề lại nghìn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến hễ đã có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền cướp nước. Bởi thế làm sự thoán đoạt và nhà Minh mới có cớ sang đánh lấy nước An Nam, cái tội làm mất nước ai gánh vác cho Quý Ly” [14, tr.197]. Nhìn chung, các công trình trên do hạn chế lịch sử và lập trường giai cấp nên cách nhìn nhận, đánh giá Hồ Quý Ly còn phiến diện, không thấy được hoặc không đánh giá được một cách đầy đủ giá trị tư tưởng cải cách cũng như vai trò tích cực của ông đối với đất nước trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Khác với các công trình đã nêu trên, tác giả Quốc Ấn (1974) trong cuốn “Hồ Quý Ly, nhân vật lỗi lạc nhất thời đại từ Đông sang Tây, tác giả xuất bản, in tại Tân Sanh ấn quán, Sài Gòn đã có cách tiếp cận khác: Tác giả đánh giá rất cao những tư tưởng và nội dung cải cách của Hồ Quý Ly; xem ông là một nhà chính trị có tư tưởng cải cách tiến bộ, táo bạo; đặc biệt tác giả đánh giá Hồ Quý Ly là nhân vật lỗi lạc nhất thời đại. Sang thập niên 90 của thế kỷ XX xuất hiện thêm một số sách chuyên khảo về Hồ Quý Ly như: “Cải cách Hồ Quý Ly” của Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hoà (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996). Các tác giả đã chỉ ra vị trí nổi bật của nhà Hồ trong dòng lịch sử văn học Việt Nam “Nhà Hồ chỉ tồn tại được có hơn 7 năm nhưng đã tích tụ và hình thành được bao nhiêu kinh nghiệm trị nước trọng 6
  7. đại, cải cách Hồ Quý Ly đã mở ra một bước phát triển mới trong lịch sử chính trị Việt Nam, có thề đó là tiền đề của công cuộc kháng chiến và cải cách thành công của Bình Định vương Lê Lợi và nhà Lê cuối thế kỷ XV” [35, tr.214]. “Hồ Quý Ly” của Nguyễn Danh Phiệt (1997) (Viện sử học và Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội) đã đánh giá rằng, bên cạnh những mặt hạn chế của con người Hồ Quý Ly, thì ông là “một nhân vật lịch sử có tầm cỡ”, “một nhân cách đặc biệt”, “một gương mặt cải cách lớn” song cũng là một chiếc “âu vàng bị khuyết mẻ”. Các công trình nêu trên đã đề cao nội dung tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly, khẳng định mặt tích cực, tiến bộ trong những cải cách đồng thời cũng nêu lên những hạn chế của nó. Đáng chú là: Mối quan hệ giữa công cuộc cải cách nhằm giải quyết những yêu cầu phát triển của xã hội và cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, bảo vệ đất nước được các tác giả quan tâm nhiều hơn. Với tinh thần khách quan, khoa học, các tác giả trên đã cho rằng, không thể đơn thuần quy nguyên nhân thất bại của cuộc kháng chiến chống quân Minh do Hồ Quý Ly lãnh đạo vào những sai lầm trong cải cách của ông để rồi từ đó phủ nhận mặt tích cực, tiến bộ của cải cách. Bên cạnh những sách chuyên khảo, những bài viết vừa kể trên, trong các bộ giáo khoa, giáo trình lịch sử đã có những chương bàn về vấn đề Hồ Quý Ly: Năm 1976, cuốn “Lịch sử Việt Nam” quyển 1, tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, của Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức Nghinh [30, tr.337] đã có một chương nói về chính sách cải cách, hạn điền, hạn nô của Hồ Quý Ly. Các cuốn: “Lịch sử Việt Nam” của Đào Duy Anh (1958), (NXB Văn Hoá, Hà Nội), [1]; các giáo trình về lịch sử Việt Nam thời phong kiến được viết bởi các nhà sử học như: Phan Huy Lê và Phan Đại Doãn (1997) với cuốn “Khởi nghĩa Lam Sơn”, (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội); Trương Hữu Quýnh (1982) với cuốn “Chế độ sở hữu ruộng đất ở 7
  8. Việt Nam thế kỷ XI – XVIII”, tập 1, (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội); Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng (1968) với “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam”, tập 1 (Nxb. Giáo dục, Hà Nội); Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn (1993) với cuốn “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến 1858”, tập 1 (Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh), trong chương III có đánh giá về Hồ Quý Ly và công cuộc cải cách của ông: “Hồ Quý Ly là một nhân vật đặc biệt trong lịch sử, với nhiều tài trí và có khả năng làm những việc táo bạo. Một số chính sách cải cách cũng như thái độ chống giặc đến cùng chứng tỏ Hồ Quý Ly có tinh thần thực tiễn và có ý thức dân tộc. Tuy nhiên, trước sau Quý Ly vẫn là người của tầng lớp quý tộc và đã thực hiện những chính sách mà mục tiêu của chúng trước hết vì quyền lợi của tầng lớp này. Do đó nếu như một số chủ trương cải cách về văn hóa, giáo dục của Hồ Quý Ly có những yếu tố tích cực, thì một số chính sách kinh tế lại chủ yếu quyết định quyền lợi kinh tế của một tầng lớp này hay tầng lớp khác Quý Ly chưa đáp ứng được yêu cầu xã hội lúc bấy giờ. Dẫu có nhiều mưu trí và mạnh bạo trong cải cách, kiên quyết chống giặc ngoại xâm, Hồ Quý Ly vẫn bị cô lập trước nhân dân, cuối cùng thất bại thảm hại trong cuộc kháng chiến chống quân Minh” [25, tr.152]. Hồ Quý Ly và tư tưởng cải cách của ông cũng đã được một số học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu: John K.Whitmore (1985) với “Viet Nam, Ho Quy Ly and the Ming (1371–1421)”, (Yale Southeast Asia Studies) đã đề cập đến tư tưởng cải cách của ông. Nhà sử học Nga A, B. Pôliacốp với “Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỷ X đến thế kỷ XIV”, đã nhận xét rằng: “Mặc dù về nguyên tắc, sự phát triển của tư hữu ruộng đất mà Hồ Quý Ly đã chống lại là một biểu hiện tiến bộ, kích thích các quan hệ hàng hóa, tiền tệ mở rộng, nhưng ở giai đoạn đầu điều đó có thể dẫn đến tình trạng cát cứ phong kiến trên lãnh thổ quốc gia nhỏ bé này. Trong điều kiện phải tồn tại bên cạnh một đế quốc hùng mạnh ở phía Bắc 8
  9. và các quốc gia láng giềng hiếu chiến (Chămpa, Ăngkor ), tình trạnh cát cứ phong kiến có thể là nguyên nhân đưa đất nước này vào ách nô dịch mới, trong một thời gian dài” [3, tr.279]. Tuy cách tiếp cận khác nhau, nhưng cả 3 tác giả trên đều muốn vạch ra mối quan hệ giữa cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối triều Trần với những cố gắng giải quyết bằng những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly và khuynh hướng phát triển của triều Lê sau đó. Tóm lại, về Hồ Quý Ly và tư tưởng cải cách của ông đã và đang được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, song chủ yếu là bình diện sử học, luật học, văn học, chính trị học; chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào được thực hiện dưới góc độ triết học. Các công trình trên đã đưa lại không chỉ nhiều tri thức quý báu mà còn cả phương pháp tiếp cận về Hồ Quý Ly đồng thời tiếp tục gợi mở những suy nghĩ, hướng tiếp cận mới về vấn đề phức tạp này. Do vậy, có thể khẳng định rằng, việc nghiên cứu để làm rõ thêm về tư tưởng và hoạt động cải cách của Hồ Quý Ly để từ đó rút ra những giá trị lịch sử, những bài học kinh nghiệm cần thiết cho ngày nay trên bình diện triết học vẫn là nhiệm vụ khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục tiêu Làm rõ những nội dung tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly; xác định những giá trị, ý nghĩa lịch sử, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm có thể tham khảo trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, làm rõ những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề tư tưởng của tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly. Thứ hai, làm rõ nội dung tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly. 9
  10. Thứ ba, đánh giá ý nghĩa lịch sử của cải cách Hồ Quý Ly và rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly trong khoảng từ cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, khi mà xã hội lúc bấy giờ Nhà Trần lâm vào khủng hoảng cả về kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng một cách sâu sắc. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trên bình diện triết học, luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly trong 30 năm tham chính của ông, bắt đầu từ năm 1370 -1400. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam về nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, văn hóa đồng thời kế thừa những kết quả đã đạt được của các công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến đề tài này. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; vận dụng tổng hợp các nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nhận thức như: lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh 10
  11. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung, giá trị và hạn chế trong tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly, ý nghĩa lịch sử của các tư tưởng đó. - Luận văn góp phần làm phong phú thêm những tư liệu có ích phục vụ cho công tác nghiên cứu về tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly, đồng thời trên cơ sở rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Trên bình diện triết học, luận văn góp phần hệ thống hóa, làm sáng tỏ nội dung, giá trị lịch sử của tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly, rút ra những bài học kinh nghiệm và ý nghĩa của chúng đối với công cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập một số chuyên đề về lịch sử tư tưởng Việt Nam, lịch sử Việt Nam, về Hồ Quý Ly - Luận văn còn đi đến khẳng định: để đất nước phát triển, trở nên cường thịnh thì vấn đề cải cách, đổi mới luôn là yêu cầu khách quan, nhiều khi có tính chất sống còn của mỗi quốc gia, dân tộc hay rộng hơn là mỗi thời đại. Mỗi thời kỳ do điều kiện lịch sử khác nhau mà nội dung, phương pháp, tính chất và yêu cầu cải cách khác nhau. Song sự thắng lợi của cách mạng hôm nay bao giờ cũng là kết quả của quá trình đúc kết kinh nghiệm và phát huy, phát triển những giá trị lịch sử trước đó. Nghiên cứu tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly tạo cơ sở khoa học cho việc “gạn đục khơi trong” những mặt tích cực và hạn chế của nó sẽ ít nhiều góp thêm nguồn tư liệu để đánh giá đúng được vị trí, giá trị của tư tưởng này đồng thời cũng là cơ sở cho việc tổng kết thực tiễn để tiến hành đưa công cuộc đổi mới ở nước ta đi vào chiều sâu. 11
  12. 8. Kết cấu của luận văn Phù hợp với mục đích và nhiệm vụ đã nêu, luận văn được kết cấu gồm: Phần mở đầu, 2 chương, 5 tiết, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. 12
  13. NỘI DUNG CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN XUẤT HIỆN VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG CẢI CÁCH CỦA HỒ QUÝ LY 1.1. Điều kiện xuất hiện tƣ tƣởng cải cách của Hồ Quý Ly 1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa – tư tưởng cho sự xuất hiện tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly Về kinh tế Sau kháng chiến chống Nguyên, quý tộc địa chủ triều Trần đã chiếm lại ruộng đất, đẩy nông dân gia nô vào chỗ phụ thuộc và bị bóc lột nặng nề. Dân nghèo phải bán ruộng, bán con làm nô tỳ. Nạn cướp ruộng đất phát triển. Kiện tụng về ruộng đất ngày càng nhiều. Số địa chủ tăng lên trong lúc nông dân nghèo đói lang thang khắp nơi. Đời sống sa đọa của giai cấp thống trị mà đại biểu là tập đoàn quý tộc Trần làm cho tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội cuối thế kỷ XIV thêm sâu sắc. Trong các làng xã, số địa chủ tư hữu ngày càng tăng do việc mua, cướp ruộng của dân, trở thành một lực lượng có thế lực kinh tế trong xã hội. Ruộng đất tập trung vào tay quý tộc, địa chủ làm cho sản xuất của nông dân tự do bị đe dọa, một số lớn nông dân bị nô lệ hóa, một số khác bị đẩy ra khỏi quê hương, sống cuộc đời lưu vong. Do bị áp bức bóc lột, sản xuất nông nghiệp bị đình đốn lại bị hạn hán nên nạn mất mùa đói kém gần như xảy ra thường xuyên trong suốt thế kỷ XIV, nhất là những năm 1290, 1321, 1344, 1357, 1392. Vào thời điểm này ngoại thương cũng phát triển một bước: thông qua đường biển, thương nhân nước ngoài vào nước ta mua chủ yếu sản vật là ngọc trai. Điều này càng bộc lộ rõ mâu thuẫn giữa một bên là nhu cầu phát triển của kinh tế 13
  14. hàng hóa đang diễn ra theo quy luật của nó với một bên phong kiến nhà Trần quan liêu, trì trệ, ăn chơi sa đọa. Kinh tế luôn là nền móng cho sự tồn tại, phát triển của xã hội vì vậy khi nền kinh tế bị khủng hoảng, khi mâu thuẫn trong kinh tế gay gắt thì tất yếu dẫn đến những khủng hoảng, mâu thuẫn trong đời sống chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng. Cơ cấu kinh tế - xã hội phong kiến Việt Nam được xây dựng và củng cố từ Lý sang Trần nhưng đến cuối Trần đã bộc lộ những mâu thuẫn nội tại đòi hỏi phải nhận thức và giải quyết. Đó là: - Bao trùm là mâu thuẫn giữa kinh tế hàng hóa – tiền tệ đã phát triển đến chừng mực nhất định trong thời “thịnh Trần” với tình trạng nền kinh tế còn bảo lưu phương thức sản xuất châu Á có tính đặc thù Việt Nam là chế độ nô lệ gia đình (gia nô, nô tì), chế độ điền trang thái ấp của quý tộc và bảo tồn ruộng đất công hữu. - Mâu thuẫn giữa yêu cầu tư hữu hóa ruộng đất đã được Nhà nước triều Trần thừa nhận từ đầu thế kỷ XIII (khi nhà Trần cho phép bán ruộng công thành ruộng tư) với chế độ công hữu về đất đai vẫn được bảo tồn nghiêm ngặt. - Mâu thuẫn giữa sự chiếm hữu lớn về đất đai và sức lao động nô lệ gia đình (gia nô, nô tì của phong kiến quý tộc nhà Trần) với sở hữu vừa và nhỏ của địa chủ bình dân và địa chủ quan liêu mới phát triển. Các mâu thuẫn nói trên bộc lộ qua nhiều hình thức, phương diện của đời sống xã hội cụ thể. Để có thể nhận thức được các mâu thuẫn đó một cách đầy đủ cần có sự phân tích toàn diện các mặt khác của đời sống xã hội lúc bấy giờ. Về chính trị - xã hội Sự phát triển của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất tất yếu dẫn đến những biến động về kết cấu giai cấp trong xã hội. Trước hết trong nội bộ của giai cấp 14
  15. thống trị đã phân hóa thành hai tầng lớp. Tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần và tầng lớp địa chủ quan liêu. Hai tầng lớp này có sự khác nhau về kinh tế và địa vị xã hội. Nếu như trước đây, giai cấp thống trị quản lý Nhà nước bao gồm các tầng lớp quý tộc, công thần, quan liêu, cao tăng và giữa các tầng lớp này chưa có sự phân biệt rõ ràng, những chức vụ cao trong bộ máy Nhà nước không chỉ có quý tộc, công thần nắm giữ, mà nhiều trọng trách khác còn do cao tăng đảm nhiệm. Sử cũ cho biết, năm 971 “Mới định ra giai phẩm cho các quan văn võ và tăng đạo cho Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, cho tăng thống Ngô Chân Lưu làm Khuông Việt Đại Sư, cho Trương Ma Ni làm Tăng lục Đạo sĩ, Đặng Quyền Quang làm Sùng chân uy nghi” [9, tr.155]. Song, sang cuối thế kỷ XIII, kết cấu nội bộ giai cấp thống trị đã có sự phân chia rõ ràng. Tầng lớp quý tộc tôn thất nắm giữ chức vụ cao nhất trong triều đình, có ruộng, có điền trang, có số nô tỳ lên tới hàng nghìn người. Trong khi đó tầng lớp địa chủ quan liêu đóng vai trò thừa hành trong bộ máy quản lý Nhà nước, tầng lớp này bao gồm các nho sĩ và quan lại không thuộc dòng họ nhà Trần, họ không được phong cấp đất đai, không có nô tỳ. Do vậy, trong xã hội lúc này xuất hiện những mâu thuẫn cơ bản: Thứ nhất, mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần có đặc quyền đặc lợi, chủ nhân của các đại điền trang và tầng lớp địa chủ quan liêu nắm công việc quản lý hành chính Nhà nước, nhưng không có điền trang, nô tỳ. Thứ hai, mâu thuẫn giữa giai cấp quý tộc địa chủ với giai cấp nông dân, nô tỳ. Trong hai mâu thuẫn trên, thì mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn chủ yếu. Vào nửa cuối đời nhà Trần, mâu thuẫn này càng trở nên gay gắt hơn khi bọn vương hầu, quý tộc tìm đủ mánh khóe để áp bức, bóc lột nhân dân. Trong nội bộ triều 15
  16. đình nhà Trần lúc bấy giờ, các vua Trần bắt đầu chỉ lo sống xa hoa, hưởng lạc mà ít quan tâm đến công tác đê điều, chống thiên tai, địch họa. Đến đời Trần Dụ Tông, tính chất xa hoa, trụy lạc của giai cấp thống trị nhà Trần đã đạt tới mức cao độ. Bọn quý tộc ăn chơi phóng đãng, ngày đêm yến tiệc, ca xướng. Trong triều, bọn gian thần hoành hành. Chu Văn An, một nhà Nho cương trực đã dâng sớ xin chém bảy tên gian thần mà đương thời gọi là thất trảm sớ. Đề nghị của ông không được chấp thuận, ông liền từ quan về quê dạy học. Bên cạnh đó tình trạng mất mùa, đói kém xảy ra liên miên do lụt lớn, vỡ đê, hạn hán càng làm cho sản xuất bị đình trệ. Lại thêm ruộng đất ngày càng tập trung vào tay vương hầu, quý tộc nhà Trần làm cho nông dân không còn đất sản xuất. Cuộc sống của người nông dân bị đe dọa, tình trạng nông dân bị nông nô hóa ngày càng mạnh, một số trở thành lưu vong chạy vào các điền trang “làm nô cho các thế gia” khiến cho số lượng nông nô, nô tỳ vào cuối đời nhà Trần tăng lên đáng kể. Để bảo vệ quyền sống của mình, quần chúng nhân dân với đông đảo nông nô, nô tỳ đã đứng dậy chống lại giai cấp địa chủ quý tộc phong kiến. Hành động đầu tiên là họ bỏ trốn khỏi điền trang thái ấp. Nhưng dù thoát khỏi điền trang thái ấp, họ cũng không được giải phóng mà còn bị chính quyền lùng bắt và trừng phạt nặng nề bằng hình thức thích chữ lên trán. Từ đó, họ tiến hành hình thức đấu tranh cao hơn là bạo động. Những người nông dân, nông nô, nô tỳ nghèo khổ đã tự vũ trang thành các đội quân khởi nghĩa. Từ giữa thế kỷ XIV, phong trào bạo động của nô tỳ và nông dân bắt đầu bùng nổ khắp nơi, những cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ (ở Kim Thành, Kinh Môn, Hải Dương ngày nay), của Tề (cháu ngoại của Hưng Đạo Đại vương) ở vùng Lạng Giang, và Nam Sách (Hải Dương), của nhà sư Phạm Sư Ôn liên tục nổ ra vào các năm 1343, 1351, 1378, 1389, 1399 Phong trào đấu tranh của nông dân, nông nô, nô tỳ cuối đời nhà Trần kéo dài hơn nửa thế kỷ nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa đó đều thất bại. Những cuộc 16
  17. nổi dậy này đều có tính chất tự phát, không đươc tổ chức một cách chặt chẽ. Tuy vậy, những cuộc nổi dậy đó đã giáng những đòn chí mạng vào chế độ đại điền trang thái ấp, chế độ nông nô, nô tỳ đồng thời là minh chứng cho tình trạng nguy biến của Nhà nước và chế độ phong kiến nhà Trần. Từ giữa thế kỷ XIV, nhà Trần đã lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện. Chính quyền nhà Trần suy yếu trầm trọng, không còn khả năng kiểm soát đối với đất nước. Đặc biệt là từ cuối thế kỷ XIV, nhà Minh sau khi giành được quyền, thiết lập một nền độc lập và thống nhất trên toàn lãnh thổ Trung Hoa thì cũng bắt đầu xúc tiến việc xâm lược Việt Nam. Những thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài đất nước càng tăng lên đối với triều Trần và truyền thống chính trị của nó. Mô hình Nhà nước quân chủ quý tộc - với hệ thống chính trị tương đối lỏng lẻo mà quyền lực thuộc về các thân vuơng quý tộc, tôn thất dựa trên cơ sở kinh tế đại điền trang không còn phù hợp nữa, trái lại đang là vật cản của sự phát triển xã hội. Như vậy có thể thấy rằng, từ kinh tế cho đến chế độ chính trị, xã hội nhà Trần lúc này đã lâm vào khủng hoảng hết sức gay gắt; lịch sử đòi hỏi phải nhận thức và giải quyết thực trạng đó để đất nước có thể tiếp tục phát triển nhưng lịch sử đồng thời cũng đã tạo ra những điều kiện khách quan để tầng lớp sỹ phu, quan lại triều Trần, trong đó tiêu biểu là Hồ Quý Ly, có thể nhận thức, đưa ra đường hướng cải biến, khắc phục tình trạng khủng hoảng nói trên. Về văn hóa – tư tưởng Bên cạnh những điều kiện về kinh tế - xã hội, tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly còn chịu những ảnh hưởng nhất định từ hệ tư tưởng phong kiến và truyền thống văn hóa vốn có của dân tộc. Tư tưởng phong kiến Việt Nam là kết quả của 17
  18. sự kết hợp giữa tư tưởng truyền thống bản địa của người Việt với các hệ tư tưởng, tôn giáo lớn từ bên ngoài vào mà chủ yếu là Nho, Phật, Lão [44, tr.34]. Phật giáo du nhập vào phía nam nước ta chủ yếu là đi theo các thương buôn người Ấn Độ và du nhập vào phía bắc chủ yếu theo đội quân xâm lược, thống trị phương Bắc. Trải qua hơn chục thế kỷ, Phật giáo đã có những đóng góp lớn vào việc thống nhất nhân tâm, tạo điều kiện cho Nhà nước quân chủ phát triển, có ảnh hưởng sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống dân tộc. Nhưng giáo lý Phật giáo là duy tâm chủ quan, thần bí, không hướng con người vào việc nhận thức, đấu tranh giải quyết những mâu thuẫn của cuộc sống hiện thực mà chủ yếu hướng con người vào cuộc sống ở thế giới bên kia theo luân hồi, quả báo. Đến giữa thế kỷ XIV trở đi Phật giáo càng trở nên kém hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề chính trị, xã hội cuối thời Trần. Từ đây đạo Phật sa sút để nhường địa vị thống trị ý thức hệ cho Nho giáo. Nho giáo là một học thuyết triết học chính trị xã hội, xuất hiện vào thế kỷ VI đến V trước công nguyên ở Trung Quốc. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng của nhiều đại phong kiến Trung Quốc và một số nước khác, trong đó có Việt Nam. Nho giáo vào nước ta theo dấu chân quân xâm lược phương Bắc. Trong suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc và gần một thế kỷ sau ngày nước ta giành được độc lập tự chủ, Nho giáo vẫn chưa có vai trò gì đáng kể trong xã hội Việt Nam. Thời Lý - Trần, nhất cuối thời Trần, Nho giáo phát triển mạnh mẽ và ngày càng có vị thế tốt hơn trong xã hội. Do nước Đại Nam lúc này chế độ phong kiến phát triển đòi hỏi không ngừng củng cố chế độ quân chủ tập quyền cho nên các triều đại đã có chủ trương đưa ra các chính sách cụ thể, nhằm phát triển Nho giáo, đề cao Khổng Tử và tổ chức học tập, thi cử, tuyển dụng nhân tài, quan lại từ tầng lớp nho sĩ. Lúc này trong xã hội đã tồn tại một bộ phận quan lại có học vấn cao chủ yếu qua thi cử bằng Nho giáo. Lý Thánh Tông (1054 - 18
  19. 1072) cho thành lập Văn Miếu ở kinh đô Thăng Long vào năm 1070 để thờ Chu Công - Khổng Tử và 72 người hiền. Trong khi Nho giáo đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam thì Phật giáo lại luôn bị các nhà nho chỉ trích. Tầng lớp địa chủ quan liêu – nho sĩ bắt đầu lên tiếng phê phán, bài bác một cách công khai hệ tư tưởng của tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần - hệ tư tưởng Phật giáo. Trong đó, Lê Văn Hưu, một sử gia đời Trần đã phê phán vua Thần Tông về việc vào năm 1128, sau khi Lý Công Bình dẹp được quân Chân Lạp đến cướp phá châu Nghệ An, nhà vua ngự đến các các chùa quán trong thành Thăng Long để tạ ơn Phật đã giúp ngầm cho Công Bình đánh được người Chân Lạp. Lê Văn Hưu bàn rằng: “Kể ra sự trù tính ở trong màn trướng, quyết định được sự thắng ở ngoài nghìn dặm, đó là công của người tướng giỏi cầm quân chiến thắng. Thái phó Lý Công Bình phá được quân Chân Lạp cướp châu Nghệ An, sai người báo tin thắng trận, Thần Tông đáng lẽ phải cáo thắng trận ở Thái Miếu, bàn công ở triều đường để thưởng cho bọn Công Bình về công đánh giặc mới là phải; nay lại quy công cho đạo Phật, đến các chùa quán mà lễ tạ, như thế không phải là ủy lạo kẻ có công, cổ lệ khí quân lính” [9, tr.262] . Trương Hán Siêu, một học giả uyên thâm Nho giáo đời nhà Trần đã phê phán gay gắt Phật giáo ngay cả khi viết văn bia cho chùa Khai Nghiêm ở Bắc Giang như sau: “Chùa bỏ rồi lại dựng, đã chẳng phải ý muốn của ta. Dựng bia rồi khắc chữ, ta biết nói gì? Hiện nay thánh triều muốn truyền phong hóa nhà vua, để chữa phong tục đồi bại, dị đoan đáng truất bỏ, thánh đạo nên phục hưng. Làm kẻ sĩ đại phu, không phải đạo Nghiêu Thuấn không bày tỏ, không phải đạo Khổng Mạnh không trước thuật, thế mà cứ bo bo lải nhải chuyện Phật, ta định lừa ai?” [9, tr.156]. 19
  20. Bên cạnh Lê Văn Hưu, Trương Hán Siêu, nho thần Lê Quát đã lên tiếng công kích gay gắt: “Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người, sao mà được người tin theo sâu bền như thế! Trên từ Vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật, dù đến hết tiền của cũng không xẻn tiếc. Ví ngày nay gửi gắm vào tháp chùa thì trong lòng sung sướng như nắm được khoán ước để lấy sự báo ứng ngày sau. Cho nên trong tự kinh thành, ngoài đến châu phủ, cho đến thôn cùng ngõ hẻm, không phải ra lệnh mà tuân theo, không phải bắt thề mà giữ đúng. Chỗ nào có người ở, tất có chùa Phật, bỏ đi rồi lại dựng lên, nát đi rồi sửa lại, lâu đài chuông trống chiếm đến nửa phần so với dân cư. Đạo Phật thịnh rất dễ mà được rất mực tôn sùng” [9, tr.178]. Sự bài bác, phê phán Phật giáo của các Nho thần không chỉ đơn thuần trên phương diện tôn giáo mà sâu xa hơn là bác bỏ hệ tư tưởng và thể chế tổ chức xã hội của tập đoàn quý tộc nhà Trần. Mục đích của phê phán này là đánh vào chỗ dựa tư tưởng của tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần. Nhà Trần cũng đã phản ứng quyết liệt trước sự lấn lướt của Nho giáo cùng đội ngũ nho sỹ lúc bấy giờ. Vua Nghệ Tông từng nói: “Triều trước dựng nước có luật pháp, chế độ riêng, không theo quy chế của nhà Tống, là vì Nam Bắc nước nào làm chủ nước đó, không phải bắt chước nhau. Khoảng năm Đại Trị, bọn học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý nghĩa sâu xa của việc lập pháp, đem phép cũ của tổ tông thay đổi theo tục phương Bắc cả, như về y phục, âm nhạc thật không kể xiết” [9, tr.151]. Cuộc đấu tranh giữa quý tộc Trần và tầng lớp quan liêu - nho sĩ trong đường lối trị nước đã diễn ra thành cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng bảo thủ vả cải cách. Xu hướng cải cách muốn dựa vào mô hình Đường, Tống để thay đổi thể chế chính trị Nhà nước Trần theo hướng quân chủ quan liêu nho giáo, điều mà các nho sĩ tâm đắc qua kinh điển nho giáo. Còn xu hướng bảo thủ của tầng lớp quý tộc Trần chống lại cải cách nhưng lại được ngụy trang bởi ý thức truyền thống và tinh 20