Luận văn Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_tro_giup_phap_ly_cho_nguoi_ngheo_va_cac_doi_tuong_c.pdf
Nội dung text: Luận văn Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN PHƢƠNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO VÀ CÁC ĐỐI TƢỢNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI KHÁC TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2016
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN PHƢƠNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO VÀ CÁC ĐỐI TƢỢNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI KHÁC TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Hành chính Mã số : 60 38 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS VŨ CÔNG GIAO. HÀ NỘI, 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Xuân Phƣơng
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TRỢ GIÚPPHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO VÀ CÁC ĐỐI TƢỢNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI KHÁC Ở VIỆT NAM 7 1.1. Các khái niệm cơ bản 7 1.2. Đặc điểm, vai trò và các yếu tố tác động đến trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác 18 1.3. Khung pháp luật hiện hành về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác ở Việt Nam 24 1.4. Trợ giúp pháp lý ở một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam 29 Kết luận Chương 1 34 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO VÀ CÁC ĐỐI TƢỢNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI KHÁC Ở TỈNH QUẢNG NGÃI 37 2.1. Một số nét về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ở tỉnh Quảng Ngãi ảnh hưởng đến hoạt động trợ giúp pháp lý 37 2.2. Cơ chế tổ chức hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Quảng Ngãi 39 2.3. Thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác ở tỉnh Quảng Ngãi trong 5 năm gần đây 43 2.4. Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế và những bài học kinh nghiệm rút ra trong hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Quảng Ngãi trong 5 năm gần đây 51 Kết luận Chương 2 53
- CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO VÀ CÁC ĐỐI TƢỢNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI KHÁC TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI 55 3.1. Quan điểm về việc nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội ở tỉnh Quảng Ngãi 55 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi 60 Kết luận Chương 3 69 KẾT LUẬN 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn ba mươi năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng trên mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Trong quá trình đó, chủ trương phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội, giảm chênh lệch giàu, nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền đã tạo cơ sở hình thành tương đối đồng bộ các chính sách xã hội với mục tiêu vì người nghèo. Cùng với việc đẩy mạnh cải cách kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Nhà nước Việt Nam đã thông qua Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, trong đó có chính sách trợ giúp pháp lý (sau đây gọi tắt là TGPL) cho người nghèo và đối tượng chính sách. Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Từ đó đến nay, trên cơ sở Luật TGPL năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành, công tác TGPL đã phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đạt được những kết quả quan trọng. Hệ thống tổ chức TGPL đã được hình thành từ trung ương đến địa phương, bao gồm Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp và Trung tâm TGPL ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với đội ngũ trợ giúp viên pháp lý, chuyên viên và cộng tác viên. Các tổ chức TGPL đã đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu giúp đỡ pháp lý của người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời, trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống pháp luật của xã hội. Là một tỉnh nghèo ở miền Trung, trong những năm qua, hoạt động TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội khác đã được cấp ủy 1
- và chính quyền tỉnh Quảng Ngãi quan tâm triển khai, góp phần thực hiện chủ trương xoá đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương giải quyết các vụ việc một cách khách quan, chính xác, đúng pháp luật, giải toả những vướng mắc pháp luật của nhân dân, góp phần ổn định tình hình chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; tạo lập cơ chế bảo đảm công bằng xã hội; góp phần giữ vững và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Mặt dù vậy, thực tế cho thấy ở tỉnh Quảng Ngãi, tỷ lệ các đối tượng nghèo và đối tượng chính sách xã hội khác chưa nhận được TGPL vẫn còn cao, chất lượng dịch vụ TGPL còn hạn chế. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng này trong đó có những hạn chế, yếu kém trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật về TGPL của tỉnh. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu tìm ra những giải pháp khắc phục nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL cho các đối tượng chính sách ở tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới. Là một cán bộ đang công tác tại địa phương, trước tình hình trên, học viên quyết định chọn, đề tài: “Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” để thực hiện luận văn thạc sĩ luật học, với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL ở tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và ở nước ta nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề TGPL đã được một số tác giả ở nước ta nghiên cứu và công bố kết quả trong nhiều công trình khoa học, trong đó đáng chú ý là các công trình sau: - "Phương hướng xây dựng luật TGPL" của TS. Đinh Trung Tụng, đăng trên Tập san TGPL, 2006. - "Khái niệm TGPL một số vấn đề cần bàn thêm" của TS. Tạ Minh Lý, đăng trên Đặc san TGPL, 2006. 2
- - "Một số vấn đề về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách" của TS. Trần Huy Liệu, đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học pháp lý, 2005. - "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động TGPL ở Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Văn Tùng, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2007. - "Thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huỳnh Huyện, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006. Những công trình nghiên cứu kể trên đã cung cấp một lượng kiến thức, thông tin lớn về hoạt động TGPL ở nước ta. Đây là những tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong việc thực hiện luận văn. Tuy nhiên, hầu hết các công trình đó đều chưa được cập nhật Nghị định số 14/2013/NĐ-CP ngày 05 tháng 02 năm 2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL. Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào về hoạt động này ở tỉnh Quảng Ngãi. Vì vậy, luận văn này vẫn cần thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác ở tỉnh Quảng Ngãi, thông qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này ở tỉnh Quảng Ngãi và ở các địa phương khác của nước ta trong những năm tới. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây: - Xác định khái niệm, nội dung, các hình thức và vai trò của TGPL cho 3
- người nghèo và đối tượng chính sách xã hội. - Phân tích những yếu tố tác động đến việc thực hiện TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội. - Đánh giá thực trạng TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Quảng Ngãi, chỉ ra những kết quả và những tồn tại, hạn chế và phân tích nguyên nhân. - Nêu ra các quan điểm và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách xã hội khác ở tỉnh Quảng Ngãi. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng hoạt động TGPL ở tỉnh Quảng Ngãi cùng các yếu tố pháp lý, xã hội có liên quan. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về mặt nội dung, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn của hoạt động TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội. Việc đề cập đến hoạt động TGPL nói chung và TGPL cho các đối tượng khác nói riêng chỉ để làm nền tảng cho việc phân tích hoạt động TGPL cho hai nhóm đối tượng mà luận văn tập trung nghiên cứu. Về mặt không gian, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn của hoạt động TGPL ở tỉnh Quảng Ngãi. Những phân tích về hoạt động TGPL ở các địa phương khác của nước ta chỉ mang tính khái quát, nhằm mục đích so sánh. Về mặt thời gian, luận văn chỉ khảo sát, đánh giá hoạt động TGPL ở tỉnh Quảng Ngãi trong khoảng 5 năm gần đây (2011-2015). 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận 4
- duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về TGPL. 5. Phương pháp nghiên cứu Tác giả luận văn đã kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Cụ thể: - Các phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu hiện có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và khuôn khổ pháp luật hiện hành của nước ta về hoạt động TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác (ở chương 1). - Các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu, báo cáo chuyên môn của các đơn vị chức năng, phương pháp quan sát thực tế để đánh giá thực trạng TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác ở tỉnh Quảng Ngãi trong những năm gần đây, từ đó đưa ra nguyên nhân và đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác ở tỉnh Quảng Ngãi và ở các địa phương khác của nước ta trong thời gian tới (ở Chương II và III). 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa khoa học Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên khảo sát, đánh giá toàn diện thực trạng TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác ở tỉnh Quảng Ngãi. Vì vậy, luận văn cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất mới có giá trị tham khảo cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và ở các địa phương khác ở nước ta nói chung trong việc cải tiến tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác trong thời gian tới. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng là nguồn tài liệu tham khảo 5
- cho việc giảng dạy, nghiên cứu chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luật hiến pháp, luật hành chính ở Học viện KHXH thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và các cở sở đạo tạo khác ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung gồm ba chương như sau: Chương 1. Các vấn đề lý luận và pháp lý về TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác ở Việt Nam. Chương 2. Thực trạng hoạt động TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác ở tỉnh Quảng Ngãi. Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi. 6
- CHƢƠNG 1 CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO VÀ CÁC ĐỐI TƢỢNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI KHÁC Ở VIỆT NAM 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý Trước hết, để có cơ sở lý luận xác định rõ nội hàm của khái niệm “trợ giúp pháp lý”, cần phải hiểu khái niệm “trợ giúp”. Theo Đại Từ điển tiếng Việt [Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb. Văn hóa – Thông tin, 1999] thì “trợ giúp” là “sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến”. Theo từ điển Từ và ngữ Việt Nam [Nguyễn Lân, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh] thì trợ giúp là góp sức hoặc góp tiền cho một người hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công. Với từ điển tiếng Việt của Nxb. Khoa học xã hội, 1994 thì thuật ngữ “trợ giúp” được hiểu là “giúp đỡ”. Thuật ngữ “giúp đỡ” lại được giải thích theo nghĩa tích cực là giúp để làm giảm bớt khó khăn, nghĩa là làm cho ai một việc gì đó hoặc cho ai cái gì đó mà người ấy đang cần. Cái đang cần ở đây là “pháp lý” theo nghĩa rộng của từ này. Thuật ngữ “pháp lý” được hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật. Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng phổ biến từ giữa thế kỷ 20, xuất phát từ tiếng Anh là “legal aid”. Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997 thì “legal aid” có nghĩa là “trợ 7cấp pháp lý”. Trong Từ điển pháp luật Anh - Việt, Nhà xuất bản Thế giới do Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì “legal aid” trong cụm từ “legal aid scheme” có nghĩa là “bảo trợ tư pháp”. Ngoài ra, trong một số tài liệu khác còn gọi là “hỗ trợ pháp luật”, “hỗ trợ 7
- pháp lý” hoặc “hỗ trợ tư pháp”. Như vậy, có nhiều cách gọi khác nhau về thuật ngữ này nhưng cụm từ “trợ giúp” có nghĩa chung nhất, bao hàm nội dung sự “giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ” và thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” đang được sử dụng chính thức trong các văn bản pháp luật như hiện nay có tính khái quát hơn cả, thể hiện rõ được bản chất của TGPL. TGPL là một loại hoạt động phúc lợi xã hội đã có lịch sử trên 500 năm nay và được bắt nguồn tại Anh từ thế kỷ XV – XVI, Đức và Hà Lan vào những thập niên giữa thế kỷ XIX, sau đó đến Pháp, Mỹ và xuất hiện muộn hơn vào đầu thế kỷ XX ở Úc và một số nước trong khu vực như: Singapore, Malaysia, Campuchia, Trung Quốc Cùng với xu hướng phát triển của nhiều quốc gia châu Âu, tư duy về quyền được TGPL trở thành trào lưu chung, TGPL gắn với khái niệm “luật cho người nghèo”. Với mỗi quốc gia, quan niệm về TGPL cũng có sự khác nhau, phụ thuộc vào chế độ chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước. Nhìn chung, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” ở các nước trên thế giới được thể hiện qua 3 tính chất: kinh tế, pháp lý và nhân đạo. Tính kinh tế và tính nhân đạo thể hiện ở chỗ hoạt động này nhằm giúp đỡ cho những đối tượng không có khả năng tài chính hoặc khó khăn về tài chính để chi trả cho các chi phí khi tiếp cận với các dịch vụ pháp lý. Tính pháp lý thể hiện thông qua sự giúp đỡ, hỗ trợ về các vấn đề có liên quan đến pháp luật như tư vấn pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích được pháp luật quy định. Ở Việt Nam, các hoạt động mang tính chất TGPL xuất phát từ bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo tư tưởng của Hồ Chí Minh nhằm bảo vệ quyền công dân, quyền con người, đặc biệt cho nhóm người yếu thế trong xã hội. Tham khảo các nghiên cứu trong nước và tài liệu nước ngoài, có thể thấy bản chất của hoạt động TGPL được nhận diện ở những đặc điểm sau đây: 8
- - TGPL là một loại hình dịch vụ pháp lý, do những người có trình độ am hiểu pháp luật thực hiện trên cơ sở pháp luật nhằm để thoả mãn nhu cầu giúp đỡ pháp luật của người nghèo và đối tượng chính sách, thông qua việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, giúp đỡ thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính, giải quyết khiếu nại - TGPL mang tính pháp lý rõ nét bởi chính phương thức hoạt động và mục đích hướng tới của nó. TGPL là sự giúp đỡ, hỗ trợ về các vấn đề có liên quan đến pháp luật như tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích cho các đối tượng TGPL theo quy định, góp phần tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và tạo cơ hội tiếp cận pháp luật thuận lợi cho các đối tượng này. - TGPL thể hiện tính chính trị - xã hội: TGPL là nhiệm vụ trước hết của Nhà nước, thuộc chức năng xã hội của Nhà nước nhằm góp phần khắc phục sự bất bình đẳng trong tiếp cận với pháp luật và xóa nghèo về pháp luật. Từ đó, góp phần thiết lập sự ổn định chính trị, bảo vệ chế độ chính trị và các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước, làm tăng niềm tin của người dân vào chế độ. Thuật ngữ “TGPL” lần đầu tiên được sử dụng trong các tài liệu ở nước ta từ năm 1995, khi bắt đầu nghiên cứu xây dựng Đề án về hoạt động TGPL ở Việt Nam. Đến năm 1996, thuật ngữ này được sử dụng trong Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp: “Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay”. Sau đó, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” đã được sử dụng chính thức trong Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Từ văn bản pháp luật này, đã có hệ thống văn bản pháp luật khác đề cập đến khái niệm “trợ giúp pháp lý” như Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư ban hành kèm theo Quyết định số 356b/2002/QĐ-BT 9
- ngày 05/8/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Tuy nhiên, chỉ đến khi Luật TGPL được ban hành năm 2006 mới quy định rõ về khái niệm TGPL, theo đó: “TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL theo quy định của Luật này, giúp người được TGPL bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật” [42, tr.2]. Định nghĩa trên đã khái quát hoá được bản chất, đặc thù của hoạt động TGPL ở Việt Nam nhằm phân biệt với các hoạt động nghiệp vụ pháp lý khác. Cụ thể: - "TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL theo quy định của Luật này": Điều này có nghĩa là dịch vụ pháp lý miễn phí có chủ thể cung cấp (tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL) và đối tượng cung cấp (người được TGPL, hiện bao gồm: người nghèo, người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số và những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác). Dịch vụ được cung cấp là tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, hoà giải và thực hiện những công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. Đây là dịch vụ pháp lý miễn phí, đối tượng thụ hưởng dịch vụ không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí nào, kể cả lệ phí giấy tờ khi yêu cầu trợ giúp và việc thuê luật sư. Các chi phí sẽ do ngân sách Nhà nước bảo đảm hoặc được huy động trong cộng đồng, hay từ sự hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài và quốc tế. TGPL miễn phí đã trở thành nguyên tắc hoạt động được quy định trong Luật TGPL. Đây là điểm đặc thù nổi bật của TGPL ở Việt Nam và là sự nỗ lực lớn của Nhà nước ta trong điều kiện đất nước còn khó khăn 10
- - TGPL có mục đích giúp người được TGPL bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Khái niệm TGPL nêu trên của Luật TGPL cũng phù hợp với tính chất của hoạt động này trong lịch sử thế giới. Đó là giúp đỡ cho những đối tượng có khó khăn (chủ yếu về kinh tế) tiếp cận với các dịch vụ pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Từ việc nghiên cứu các khái niệm về TGPL của các nước trên thế giới và ở Việt Nam, trong phạm vi luận văn này, khái niệm TGPL được hiểu là “hoạt động của các chủ thể thực hiện TGPL theo quy định nhằm cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL, giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật”. 1.1.2. Khái niệm người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác 1.1.2.1. Người nghèo Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội, tổ chức tại Côpenhaghen – Đan Mạch (1995) đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về nghèo đói như sau: Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập dưới 1 USD/ngày, là số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại. Theo đó, Ngân hàng Thế giới đã từng đưa ra chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu nghèo của các nước, dựa vào GDP hằng năm quy ra USD. Tuy nhiên, cách đánh giá này chỉ mang tính tương đối và có hạn chế nhất định, bởi vì không phải bất cứ nước nào có GDP cao là hết nghèo đói. Vì vậy, ngày nay các nước trên thế giới nhất trí cho rằng, việc đánh giá mức sống của con người, việc bình xét các quốc gia thuộc loại nước giàu hay nghèo, phát triển 11
- hay đang phát triển là dựa vào chỉ số về phát triển con người (HDI) – một tiêu chí tổng hợp gồm ba chỉ tiêu cơ bản là GDP bình quân đầu người trong năm, thành tựu y tế xã hội và trình độ văn hoá giáo dục. Dù có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tựu chung lại, khái niệm về đói nghèo phản ánh những khía cạnh cơ bản sau đây: - Không được hoặc ít được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người. - Mức sống của người nghèo, hộ nghèo thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư tại địa bàn sinh sống. - Thiếu hoặc không có cơ hội lựa chọn để tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng. Người nghèo luôn là đối tượng được quan tâm của mỗi quốc gia, vì đó là nhóm đối tượng yếu thế của xã hội, chịu ảnh hưởng trực tiếp và đầu tiên từ quá trình phát triển kinh tế, xã hội, quá trình biến đổi khí hậu Người nghèo luôn mang tâm lý tự ti, dè dặt và là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, luôn sống trong tâm trạng bị gạt ra bên lề và không thuộc về xã hội. Họ nghĩ rằng mình ở vị trí thấp kém trong thang bậc xã hội, chẳng có quyền lực hay tiếng nói gì trong xã hội mà họ đang sống. Do quá vất vả với cuộc sống mưu sinh, người nghèo không có cái nhìn dài hạn mà luôn chọn thái độ sống vì cái hiện tại, cái trước mắt, cái ăn cái mặc hàng ngày Vì vậy, tìm hiểu cuộc sống, đánh giá đúng về số lượng, mức độ nghèo sẽ giúp cho mỗi nước có những chủ trương, chính sách phù hợp để hỗ trợ người nghèo tự ổn định cuộc sống, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Ở Việt Nam, do chiến tranh kéo dài nên sau khi giành độc lập dân tộc và khôi phục kinh tế, cho nên mặc dù đã thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế - xã hội nhưng vào những năm cuối của thế kỷ 20, Việt Nam vẫn được xếp vào nhóm các nước nghèo trên thế giới. Có một thực trạng 12
- là đa số người nghèo (90%) lại sinh sống ở vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, nơi có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, điều kiện cơ sở hạ tầng và sinh hoạt văn hoá tinh thần thấp kém, giao thông đi lại khó khăn. Mức thu nhập của họ rất thấp, chủ yếu từ lao động thô sơ và nông nghiệp, kết quả khai thác nguồn lực (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón ) hạn chế, trình độ tay nghề thấp, việc làm thiếu hoặc không ổn định. Nhiều vùng người dân còn không có cơ hội và năng lực để tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ sản xuất của Nhà nước như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động, thực vật; phần lớn hộ nghèo lại đông con nên cuộc sống bấp bênh và dễ bị tổn thương bởi bệnh tật, thiên tai (bão, lũ, lụt ). Từ chỗ nghèo đói về vật chất dẫn đến sự thua kém về địa vị xã hội, bất bình đẳng, thiệt thòi trong việc tiếp cận và hưởng lợi từ các nguồn lực xã hội. Người nghèo cũng không có điều kiện tiếp cận với pháp luật, các dịch vụ pháp lý có thu phí của luật sư để giải quyết những vướng mắc, tranh chấp pháp luật nên họ thường phải “hứng chịu” những thua thiệt trong kiện tụng, đã nghèo lại càng nghèo hơn. Đứng trước thực trạng đói nghèo trên, xác định tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội (trong đó có đói nghèo), Đảng đã kịp thời đề ra các chủ trương, chính sách và được Nhà nước ta thể chế hoá thành pháp luật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo tiền đề xoá đói giảm nghèo và trực tiếp triển khai công cuộc xoá đói giảm nghèo. Việc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam được thực hiện toàn diện trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội từ kinh tế, y tế, văn hoá, giáo dục, pháp luật Người nghèo ở Việt Nam được xác định dựa trên các tính toán của các cơ quan chức năng như Tổng Cục Thống kê hay Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Theo Tổng Cục Thống kê, chuẩn nghèo được xác định dựa trên cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới, gồm hai mức: nghèo lương thực thực phẩm và nghèo chung. Để đưa ra chuẩn nghèo hợp lý, các mức chuẩn nghèo 13
- được hiệu chỉnh lại theo chỉ số giá tiêu dùng tại các thời điểm. Chuẩn nghèo theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được xác định một cách tương đối dựa trên các yếu tố thu nhập, tình trạng làm việc bằng cách làm tròn số và áp dụng theo từng khu vực khác nhau (nông thôn, thành thị) tại các thời điểm khác nhau. Luật TGPL quy định người nghèo là người thuộc hộ nghèo, được xác định theo chuẩn nghèo do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng giai đoạn. Theo Khoản 1 Điều 2 Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020 là những hộ đối với khu vực nông thôn có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống hoặc có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên. Đối với khu vực thành thị là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống hoặc có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên. Hộ nghèo được cơ quan nhà nước có thẩm cấp giấy chứng nhận hộ nghèo, tức là sổ hộ nghèo, để họ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước nói chung và hưởng chính sách TGPL nói riêng. 1.1.2.2. Các đối tượng chính sách xã hội khác Cùng với đối tượng người nghèo, Nhà nước luôn dành những ưu ái đặc biệt trên nhiều lĩnh vực (y tế, giáo dục, nhà ở, việc làm ) cho một số nhóm đối tượng thuộc diện chính sách xã hội khác. Chính sách xã hội được hiểu là sự tổng hợp các phương thức, biện pháp của Đảng, Nhà nước nhằm thỏa mãn những nhu cầu về vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính sách xã hội phải phù hợp với trình độ kinh tế, văn hóa, 14
- chính trị, xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Đó là sự cụ thể hóa, thể chế hóa bằng pháp luật những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, của các tổ chức chính trị khác dựa trên những quan điểm tư tưởng của chủ thể chính sách xã hội phù hợp với bản chất chế độ chính trị xã hội nhất định. Tùy vào hoàn cảnh, điều kiện kinh tế, chính trị mà mỗi quốc gia có những chính sách xã hội khác nhau, quy định những đối tượng được hưởng thụ và hướng đến những mục đích khác nhau. Ở Việt Nam, Nghị quyết IV (12-1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ “Chính sách xã hội bao trùm lên mọi mặt của đời sống con người, điều kiện lao động sinh hoạt giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc. Coi nhẹ chính sách xã hội tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua tại Văn kiện Đại hội Đảng VII (1991) nhấn mạnh “Phương hướng của chính sách xã hội là phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng bình đẳng về quyền lợi nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”. Những quan điểm trên chính là tư tưởng cơ bản, có tính chất quyết định đối với mọi chính sách xã hội được hoạch định trong thời gian trước mắt cũng như trong chiến lược lâu dài của Việt Nam. Đối tượng chính sách xã hội được hiểu theo nghĩa chung nhất là tất cả những người thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh do pháp luật quy định, được hưởng những ưu đãi nhất định từ phía nhà nước nhằm tạo điều kiện cho họ khắc phục khó khăn, đáp ứng được nhu cầu cơ bản của cuộc sống và thúc đẩy khả năng hòa nhập cộng đồng, xã hội cho nhóm đối tượng này. Theo nghĩa trên, đối tượng chính sách xã hội khác là một khái niệm rộng, bao gồm tất cả những người được hưởng chính sách ưu đãi của nhà nước trên nhiều phương 15
- diện. Đó có thể là người nghèo, người có công với cách mạng; người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa; người nhiễm HIV/AIDS Với mục đích giúp cho những người thuộc nhóm yếu thế này được bình đẳng và có thể đóng góp và hòa nhập cao nhất với gia đình, cộng đồng và xã hội, giúp họ được tiếp cận với các kênh thông tin, với các hoạt động hòa giải, các vấn đề xã hội và tạo cơ hội được lựa chọn tốt hơn. Hiện nay, theo quy định tại Điều 10, Luật TGPL năm 2006; Điều 2, Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL (sau đây gọi tắt là Nghị định 07/2007/NĐ-CP) và Điều 1, Nghị định 14/2013/NĐ-CP ngày 05 tháng 02 năm 2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL (sau đây gọi tắt là Nghị định 14/2013/NĐ-CP) thì người thuộc diện được TGPL bao gồm người nghèo và một số các đối tượng chính sách xã hội khác như: - Người có công với cách mạng: Theo quy định tại khoản 2, Điều 2, Nghị định số 07/2007/NĐ-CP và Điều 1, Nghị định số 14/2013/NĐ-CP là người hoạt động cách mạng trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động; Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh; Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học; Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; Người có công giúp đỡ cách mạng; Cha, mẹ, vợ, chồng của liệt sĩ; con của liệt sĩ chưa đủ 18 tuổi; người có công nuôi dưỡng liệt sĩ; Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng của liệt sĩ; con của liệt sĩ; người có công nuôi dưỡng liệt sĩ. Đây là những người đã có nhiều cống hiến về sức lực, tài năng, trí tuệ và cả tính 16