Luận văn Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay

pdf 94 trang vuhoa 25/08/2022 10681
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_trinh_tu_thu_tuc_thanh_ly_tai_san_pha_san_theo_phap.pdf

Nội dung text: Luận văn Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ HUỆ TRÌNH TỰ THỦ TỤC THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ HUỆ TRÌNH TỰ THỦ TỤC THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH HÀ NỘI, 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả những số liệu và kết quả nghiên cứu đó. Luận văn này chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày 22 tháng 3 năm 2017 Phạm Thị Huệ
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được luận văn này, trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Học viện Khoa học xã hội, Khoa Luật và quý thầy, cô trong Học viện Khoa học xã hội đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, truyền đạt những kiến thức mới về chuyên ngành Luật học và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu khoa học tại Học viện. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Thầy giáo PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh, một người thầy chân thành, trách nhiệm đã hướng dẫn tôi với tất cả lòng nhiệt tình của người thầy giáo trong suốt quá trình nghiên cứu và viết luận văn. Xin chân thành cảm ơn cơ quan nơi tôi công tác, đồng nghiệp, bạn bè, người thân và gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Hà Nội, ngày 22 tháng 3 năm 2017 Phạm Thị Huệ
  5. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁ SẢN VÀ THỦ TỤC THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN 9 1.1. Khái niệm phá sản, mất khả năng thanh toán, thủ tục phá sản 9 1.2. Sơ lược sự hình thành và phát triển của quy định về thủ tục thanh lý tài sản phá sản ở Việt Nam 18 1.3. Mối quan hệ giữa thủ tục thanh lý tài sản với các thủ tục khác trong giải quyết phá sản 22 CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN 27 2.1. Thực trạng các quy định của pháp luật về thanh lý tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã 27 2.2. Thực trạng các quy định của pháp luật về thanh lý tài sản phá sản đối với các tổ chức tín dụng 40 2.3. Quản tài viên, Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản 43 2.4. Thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về thanh lý tài sản phá sản 56 2.5. Hạn chế, bất cập liên quan đến thanh lý tài sản phá sản 62 CHƢƠNG 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN 70 3.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về thanh lý tài sản phá sản 70 3.2. Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về thanh lý tài sản phá sản 72 KẾT LUẬN 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DNQLTLTS : Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản Đ. : Điều(dùng trong trích dẫn tài liệu) HTX : Hợp tác xã k. : Khoản (dùng trong trích dẫn tài liệu) LPS : Luật phá sản LTHADS : Luật thi hành án dân sự NĐ : Nghị định NQ : Nghị quyết OECD : Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế TCTD : Tổ chức tín dụng
  7. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phá sản là hiện tượng phổ biến, là hệ quả tất yếu của quá trình cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Nó là sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên của nền kinh tế thị trường, bất kể đó là nền kinh tế thị trường phát triển ở các nước trên thế giới hay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Khi không thể cạnh tranh, các chủ thể kinh doanh sẽ chấm dứt hoạt động thông qua thủ tục giải thể hoặc phá sản, kéo theo đó là những hậu quả kinh tế - xã hội nhất định, ảnh hưởng không chỉ đến bản thân doanh nghiệp, những người lao động trong doanh nghiệp mà còn tác động lớn đến các chủ thể khác là chủ nợ, đối tác, các thành viên khác trong nền kinh tế tùy vào mô hình của doanh nghiệp đó. Việc giải quyết hậu quả của tình trạng đó là nhiệm vụ của bất kỳ quốc gia nào. Nhà nước can thiệp bằng các chế định pháp luật phù hợp nhằm đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể tham gia kinh doanh, tạo điều kiện cho những doanh nghiệp thua lỗ, không có khả năng thanh toán phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc rút khỏi thị trường một cách hợp pháp, tối đa hóa cho việc thu hồi tài sản cho chủ nợ, đồng thời tạo ra những cơ hội thực tiễn cho việc duy trì hoặc tổ chức lại hoạt động của doanh nghiệp. Luật Phá sản năm 2004 ra đời đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà nước, doanh nghiệp. Trong đó các quy định về quản lý và xử lý tài sản phá sản đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản nhằm khắc phục những hạn chế của Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 và tiếp thu có chọn lọc pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, theo tổng kết thi hành Luật Phá sản 2004 thấy rằng Luật đã bộc lộ những hạn chế, tác động tiêu cực đến việc thúc đẩy sự phát triển kinh doanh 1
  8. của DN, HTX. Có những quy định của Luật Phá sản 2004 chưa tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật khác, có những quy định không còn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội dẫn đến hiệu quả áp dụng quy định của Luật phá sản vào thực tiễn không cao, gây ra khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp khi muốn rút lui khỏi thị trường một cách có trật tự và hợp pháp. Mặt khác, sau khi LPS 2004 ra đời, ngày 24/5/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, trong đó có các nội dụng về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh. Thực hiện tinh thần Nghị quyết 48/NQ-TW và xuất phát từ những hạn chết, bất cập của LPS 2004, ngày 19/6/2014 Quốc hội đã thông qua Luật Phá sản 2014. Luật này có hiệu lực từ ngày 1/1/2015 thay thế cho Luật phá sản 2004. Theo đó, Luật Phá sản 2014 gồm 14 chương, 133 điều, so với Luật Phá sản 2004 thì Luật phá sản 2014 có nhiều nội dung trong đó liên quan đến thanh lý tài sản phá sản có 02 điểm mới quan trọng sau: Một là, Luật Phá sản 2014 đã bỏ chế định Tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản mà thay vào đó Luật đã bổ sung quy định về hoạt động của Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Như vậy, Luật Phá sản 2014 đã mở ra một nghề mới đó là nghề quản lý, thanh lý tài sản phá sản của Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Hai là, trình tự thủ tục phá sản theo Luật Phá sản 2014 đã có sự thay đổi so với Luật Phá sản 2004, theo đó việc tuyên bố phá sản của Tòa án được thực hiện trước thủ tục thanh lý tài sản. Tức là sau khi Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản thì cơ quan thi hành án dân sự mới ban hành Quyết định thi hành án và Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản. 2
  9. Với các quy định mới của Luật Phá sản 2014 đã khắc phục những bất cập cập hạn chế về thủ tục giải quyết các vụ việc phá sản của Luật Phá sản 2004 đồng thời tạo hành lang pháp lý để Tòa án giải quyết nhanh việc phá sản của các doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Trong giới hạn luận văn này, tác giả lựa chọn đề tài “Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu sâu hơn các vấn đề lý luận pháp lý và thực tiễn thực thi pháp luật phá sản, trong đó đặc biệt là các quy định về thủ tục thanh lý tài sản phá sản. Qua đó phần nào làm rõ những hạn chế bất cập và có những giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thủ tục thanh lý tài sản phá sản trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề phá sản nói chung và quản lý, thanh lý tài sản phá sản nói riêng. Các nghiên cứu đó đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của nền khoa học pháp lý và có những đóng góp to lớn trong việc hoàn thiện pháp luật phá sản ở Việt Nam. Có thể kể đến các công trình quan trọng như: - “Luật Phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn thiện”, luận án tiến sĩ luật học của tác giả Trương Hồng Hải bảo vệ năm 2004 tại Trường Đại học Luật Hà Nội; - “Thực trạng phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam”, đề tài khoa học cấp Bộ năm 2004 của tác giả Nguyễn Kim Anh, chuyên viên Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương; - “ Xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản 2004”, luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Kim Chi bảo vệ năm 2005; 3
  10. - “Quản lý phân chia tài sản phá sản theo pháp luật phá sản Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Văn Hùng bảo vệ năm 2011 tại Học viện Khoa học Xã hội; - “Nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo pháp luật phá sản ở Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Huy Trung bảo vệ năm 2014 tại Học viện Khoa học Xã hội; - “Pháp luật phá sản tại Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, đặc san tuyên truyền pháp luật của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trung ương. Mặc dù các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên đã nêu khái quát được về pháp luật phá sản hoặc nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền lợi cho chủ nợ. Tuy nhiên, từ khi LPS 2014 ra đời đến nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về vấn đề thanh lý tài sản phá sản, một trong những điểm mới cơ bản của LPS 2014. Trong một giới hạn nhất định, các công trình nêu trên đã đưa ra những vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp cho tác giả học hỏi, kế thừa những nghiên cứu khoa học đó để góp phần xây dựng và hoàn thiện luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về trình tự, thủ tục thanh lý tài sản theo pháp luật; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về trình tự, thủ tục thanh lý tài sản phá sản ở Việt Nam hiện nay và qua đó đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về pháp luật về trình tự, thủ tục thanh lý tài sản phá sản ở Việt Nam trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được các mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn đó là: 4
  11. - Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về phá sản và thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo pháp luật; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về trình tự, thủ tục thanh lý tài sản phá sản ở Việt Nam hiện nay; - Phân tích, đánh giá những thành công và hạn chế, tính tương thích và mức độ phù hợp của các quy định trong pháp luật Việt Nam về thủ tục thanh lý tài sản phá sản; - Làm rõ những kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về thủ tục thanh lý tài sản ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam trong việc thanh lý tài sản phá sản; - Đề xuất những phương hướng và giải pháp hoàn thiện về xây dựng pháp luật về thanh lý tài sản phá sản tại Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong phạm vi đề tài này nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật phá sản của Việt Nam và hệ thống các quy định của pháp luật về chế định này bao gồm Luật phá sản, Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật thi hành án dân sự, Luật các tổ chức tính dụng và các văn bản qui phạm pháp luật hướng dẫn thi hành. Trong đó đặc biệt chú trọng nghiên cứu đến các quy định của pháp luật về vấn đề trình tự, thủ tục thanh lý tài sản phá sản, thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về vấn đề này trên thực tế kể từ khi LPS 2014 có hiệu lực. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thanh lý tài sản phá sản của doanh nghiệp phá sản (bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã và các tổ chức tín dụng); các vấn đề cơ bản về Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản; những khó khăn vướng mắc khi 5
  12. áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề này trên thực tế, từ đó chỉ ra một số các định hướng hoàn thiện pháp luật. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả không đi sâu vào việc nghiên cứu toàn bộ các nội dung về pháp luật phá sản nói chung, mà chỉ tập trung nghiên cứu các về đề về thanh lý tài sản phá sản và các quy định pháp luật về Luật phá sản, và các văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến vấn đề này. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được tác giả thực hiện trên cơ sở nền tảng lý luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, các quan điểm của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, tác giả cũng đặc biệt sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học pháp lý như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp đối chiếu, chứng minh, diễn giải để làm sáng tỏ các nội dung lý luận và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật, chỉ ra những mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau để giải quyết những vấn đề cơ bản của đề tài. Đồng thời, tác giả còn tham khảo những tài liệu pháp luật về phá sản của một số quốc gia khác, từ đó có sự so sánh, đối chiếu và rút ra được những kinh nghiệm, những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục thanh lý tài sản phá sản. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu một cách cụ thể, có hệ thống những vấn đề quan trọng trong quá trình thanh lý tài sản phá sản dưới góc độ quy định pháp luật về phá sản ở Việt Nam. Trong khi LPS 2014 đang được thực thi một cách có hiệu quả trên thực tế nhưng cũng cần có những 6
  13. nghiên cứu, phân tích nhằm hoàn thiện và phát huy hơn nữa để đảm bảo tính khả thi của LPS. Luận án đã nghiên cứu sâu, bổ sung vào hệ thống lý luận của khoa học luật phá sản bao gồm: khái niệm thủ tục phá sản, khái niệm mất khả năng thanh toán và thủ tục phá sản. Đồng thời chỉ ra được lịch sử phát triển của pháp luật phá sản nói chung và các quy định về thủ tục thanh lý tài sản phá sản nói riêng. Qua đó nêu lên được vai trò, tầm quan trọng của thủ tục thanh lý tài sản trong giải quyết một vụ việc phá sản. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả đã đi sâu phân tích và làm rõ bản chất pháp lý của việc áp dụng thủ tục thanh lý tài sản phá sản trong quá trình xử lý phá sản của doanh nghiệp, xác định các nghĩa vụ tài sản phát sinh sau khi tòa án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản trên cơ sở áp dụng các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan đến vấn đề này. Từ đó lý giải cách thức xử lý các nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp phá sản, các hậu quả pháp lý phát sinh. Qua đó góp phần giải quyết đúng đắn và giảm thiểu các tranh chấp phát sinh có liên quan đến việc xử lý tài sản phá sản. Đồng thời cũng khẳng định được phá sản là hoạt động bình thường đối với một doanh nghiệp khi hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở phân tích những nội dung của pháp luật về trình tự, thủ tục thanh lý tài sản phá sản, tác giả cũng chỉ ra được tính khả thi của các quy định , một số bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật phá sản trên thực tiễn, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị, phương hướng và giải pháp sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Những kiến nghị cụ thể của tác giả Luận văn sẽ là cơ sở khoa học cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phá sản, thanh lý tài sản phá sản, góp phần tăng cường hiệu quả điều chỉnh của pháp luật phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam, góp phần vào sự ổn định của nền kinh tế nói chung. 7
  14. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của Luận văn chỉ ra những hạn chế trong thủ tục thanh lý tài sản ở Việt Nam, từ đó kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Về mặt khoa học, tác giả hy vọng những nghiên cứu trong luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo ý nghĩa cho những người nghiên cứu, học tập và đặc biệt là những người làm công tác thực tiễn liên quan đến vấn đề phá sản doanh nghiệp. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục thành 03 Chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về phá sản và thủ tục thanh lý tài sản phá sản Chương 2: Thực trạng pháp luật về trình tự, thủ tục thanh lý tài sản phá sản ở Việt Nam hiện nay Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trình tự, thủ tục thanh lý tài sản phá sản. 8
  15. CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁ SẢN VÀ THỦ TỤC THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN 1.1. Khái niệm phá sản, mất khả năng thanh toán, thủ tục phá sản 1.1.1. Khái niệm phá sản Hiện tượng phá sản đã có từ xa xưa. Khi con người biết mua bán, vay mượn, trao đổi hàng hóa thì cũng xuất hiện tình trạng không trả được nợ, phương cách giải quyết tình trạng này bởi vậy cũng đã rất cổ xưa như chính lịch sử sinh hoạt kinh tế của các tộc người [45, tr.444]. Và khi xã hội chuyển sang thời kì tư bản chủ nghĩa, sản xuất công nghiệp phát triển, hàng hóa phong phú, dồi dào thì các hoạt động kinh doanh thương mại cũng trở nên sôi động hơn, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn, kéo theo đó là hiện tượng “vỡ nợ” hay “ phá sản” cũng ngày càng xuất hiện phổ biến hơn. Pháp luật của các nước quy định về đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản rất khác nhau, ở một số nước, thủ tục tuyên bố phá sản có thể được áp dụng đối với tất cả những người mắc nợ mà không phân biệt cá nhân hay pháp nhân và cũng không phân biệt thương nhân hay không là thương nhân, không phân biệt là nợ dân sự hay là nợ thương mại (chẳng hạn Hoa Kì, Nhật, ). Một số nước lại chỉ xem thương nhân với các khoản nợ thương mại mới là đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản (chẳng hạn là pháp luật của Nga trước khi ban hành Luật mất khả năng thanh toán năm 2002). Một số nước lại quy định chỉ doanh nghiệp mới là đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản.[59, tr.598]. Đối với các nước trên thế giới, phá sản là hiện tượng bình thường của nền kinh tế. Theo Viện nghiên cứu về phá sản Hoa Kỳ, mỗi năm có hơn nửa triệu công dân, doanh nghiệp Hoa Kỳ nộp đơn phá sản. Dù không phải cách lựa chọn tốt nhất, nhưng đây có thể là cách thức lý tưởng để doanh nghiệp thoát khỏi những khoản nợ nần đang vây chặt. Điều nay cho thấy pháp luật 9
  16. phá sản của Hoa Kỳ đã phục vụ cho sự phát triển kinh tế, đáp ứng được nhu cầu của doanh nhân khi họ thanh gia thị trường. Không giống như ở nhiều quốc gia khác, thất bại trong kinh doanh ở Hoa Kỳ không bị coi là xấu, trên thực tế luật phá sản Hoa Kỳ được xây dựng để sao cho những người thất bại trong kinh doanh lại được khuyến khích tiếp tục theo đuổi công việc kinh doanh của mình. Thuật ngữ “ phá sản” được sử dụng phổ biến trong ngôn ngữ hàng ngày và trong khoa học pháp lý. Nhưng trước khi LPS 2014 ra đời thì trong các văn bản pháp luật về phá sản chưa có giải thích ý nghĩa của thuật ngữ này mà lại dùng thuật ngữ “tình trạng phá sản” để giải thích trường hợp một doanh nghiệp không trả được các món nợ đến hạn hoặc không còn khả năng vốn để tiếp tục duy trì hoạt động. Theo Luật phá sản doanh nghiệp 1993 thì doanh nghiệp bị coi là đang lâm vào “tình trạng phá sản” là doanh nghiệp gặp khó khăn tài chính hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên khái niệm này vẫn mang tính chất khái quát, chưa sát với bản chất của hiện tượng phá sản trên thực tế. Đến khi Luật phá sản 2004 ra đời thì khái niệm phá sản đã được sửa đổi rỗ nghĩa hơn. Theo đó doanh nghiệp bị coi lâm vào tình trạng phá sản khi không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Theo đó doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi có ba dấu hiệu: Có khoản nợ đến hạn, chủ nợ đã yêu cầu và doanh nghiệp mắc nợ không có khả năng thanh toán[57, tr. 20]. Từ điển Luật học định nghĩa phá sản là tình trạng một chủ thể (cá nhân, pháp nhân) mất khả năng thanh toán nợ đến hạn [59, tr. 597-599]. Như vậy, theo quan điểm này thì khái niệm phá sản chỉ mới xác định được một tình trạng có thể xảy ra đối với các chủ thể bị lâm vào tình trạng mất khả năng 10
  17. thanh toán. Nói cách khác, “phá sản” được hiểu tương đương với “mất khả năng thanh toán”. Hiện nay thuật ngữ phá sản đã được sử dụng rộng rãi trong cả khoa học pháp lý và cả trong đời sống thực tế. LPS 2014 ra đời đã giải thích đầy đủ và rõ nghĩa thuật ngữ này. Tại khoản 2 Điều 4 LPS 2014 quy định “ Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”. Theo đó phá sản được xem xét dưới hai góc độ: - Dưới góc độ kinh tế: Thuật ngữ “phá sản” bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng La tinh, có nghĩa là “sự khánh tận”. Khái niệm này dùng để chỉ sự mất cân đối giữa thu và chi của chủ thể kinh doanh mà biểu hiện trực tiếp của sự mất cân đối ấy là tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Như vậy, khi nói đến một chủ thể kinh doanh bị phá sản, xem xét dưới góc độ kinh tế, có thể hiểu rằng chủ thể kinh doanh đó đã làm ăn thua lỗ, tạo ra những khoản nợ mà không thể chi trả được. Chủ thể đó đã lâm vào tình trạng tài chính không thể giải quyết được để có thể tiếp tục đứng vững trên thương trường. Đối với một cá nhân, tình trạng này còn gọi là “vỡ nợ”, tức là cá nhân đó không thể trả được các khoản nợ mà mình đã tạo ra. Tuy nhiên, sự tác động của phá sản không phải bao giờ cũng mang ý nghĩa tiêu cực. Xét về mặt kinh tế, bản thân phá sản là một giải pháp hữu hiệu trong việc “cơ cấu” lại nền kinh tế, góp phần duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng nghiệt ngã. - Dưới góc độ pháp lý: Phá sản dược nhìn nhận là một trình tự, thủ tục tố tụng. Đó là toàn bộ các giai đoạn của việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối với chủ thể 11
  18. mắc nợ. Hay nói cách khác, trình tự, thủ tục giải quyết phá sản tương tự như trình tự, thủ tục khởi kiện tại Tòa án, vì phải tuân thủ đầy đủ, chặt chẽ các bước, các giai đoạn để giải quyết một vụ việc. Ở đây, chủ thể kinh doanh sẽ có thể được phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc chấm dứt hoạt động kinh doanh, tùy thuộc vào tình trạng tài chính và yêu cầu của chủ nợ [13, tr.279]. Như vậy, khái niệm phá sản theo LPS 2014 được hiểu dưới cả hai góc độ kinh tế (mất khả năng thanh toán) và pháp lý( được thực hiện thông qua thủ tục phá sản và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản). Một DN, HTX mất khả năng thanh toán các khoản nợ không bảo đảm và đã đến hạn thì DN, HTX đó chưa chắc đã bị phá sản và cũng chưa gọi là DN, HTX phá sản. Chỉ khi trải qua thủ tục giải quyết vụ việc phá sản và bị Tòa án nhân dân ra quyết định phá sản, DN, HTX đó mới chính thức bị phá sản. Về bản chất, phá sản xuất phát từ tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn phải trả của con nợ có liên quan. Do đó, nó tạo nên nghĩa vụ của con nợ và quyền truy đòi nợ của các chủ nợ. Để giải quyết tình trạng này, giữa chủ nợ và con nợ đã cùng nhau tìm ra những phương thức giải quyết khác nhau: hoặc là tự giải quyết thông qua thương lượng, đàm phán, hoặc là với sự giúp đỡ của một cá nhân hoặc tập thể nào đó, đôi khi là chính quyền địa phương nơi con nợ cư trú hay nơi con nợ tiến hành các hoạt động kinh doanh. Quá trình giải quyết “phá sản”, đảm bảo nghĩa vụ của chủ nợ và “giải thoát” trách nhiệm cho con nợ yêu cầu phải có sự can thiệp của pháp luật để hài hòa lợi ích của cả hai. Phá sản có một số đặc điểm nhất định: Một là, phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể. Theo đó tất cả các chủ nợ liên kết với nhau để giải quyết vấn đề công nợ của những con nợ, vốn là các chủ thể rơi vào trạng thái phá sản, thất bại trong việc hoàn lại các khoản vay. Các chủ thể này có thể vẫn còn tài sản để thanh lý bù đắp cho các khoản vay nhưng cá biết có những chủ thể không còn tài sản gì để bù đắp. Sở dĩ nói phá 12
  19. sản là một thủ tục đòi nợ tập thể vì các chủ nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, không tự xé lẻ ra để đòi nợ riêng. Họ cùng tham gia vào một thiết chế chung để tiến hành đòi nợ hay đảm bảo quyền lợi của mình, gọi là hội nghị chủ nợ . Ngoài ra, khi giải quyết vấn đề phá sản của doanh nghiệp, thì toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đó được bán thanh lý, đưa vào quỹ chung và trả cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu tiên nhất định mà luật phá sản quy định. Do vậy, trong bất cứ trường hợp nào, phá sản cũng là một thủ tục mang tính tập thể cao. Hai là, phá sản không chỉ nhắm đến mục đích đòi nợ mà còn chú trọng đến việc giúp đỡ để con nợ có thể phục hồi hoạt động kinh doanh. Xu hướng chung của pháp luật phá sản trên thế giới là chú trọng giải quyết hai vấn đề cơ bản: phục hồi hoạt động kinh doanh của DN mất khả năng thanh toán và thanh lý tài sản của DN phá sản để bù đắp các khoản nợ. Phục hồi hoạt động kinh doanh của DN mất khả năng thanh toán là thủ tục rất quan trọng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hết sức để giúp DN đó thoát khỏi tình trạng khó khăn, cải thiện được tình trạng nợ nần và từng bước thoát khỏi thảm cảnh phá sản. Thực tế thì bất kỳ nhà nước nào cũng quan tâm đến việc phục hồi hoạt động DN bởi suy cho cùng DN thoát khỏi tình trạng phá sản thì quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ mới không bị đe dọa, môi trường đầu tư, kinh doanh của nhà nước vì thế mà cũng được cải thiện. Ba là, kết thúc thủ tục phá sản thường là sự chấm dứt tồn tại của một chủ thể kinh doanh. Phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt, theo đó các chủ nợ và người có quyền, nghĩa vụ liên quan tiến hành thủ tục tống tụng tư pháp để yêu cầu tòa án can thiệp nhằm thu hồi các khoản nợ của mình. Có những trường hợp DN phục hồi các hoạt động kinh doanh một cách thành công nhưng nhìn chung hậu quả pháp lý của phá sản là các DN liên quan bị chấm 13
  20. dứt tồn tại, toàn bộ tài sản của DN đó bị thanh lý để trả cho các chủ nợ. Trong trường hợp này, phá sản có ý nghĩa khá tiêu cực. Bốn là, thủ tục phá sản là một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp và khá phức tạp. Điều này thể hiện ở việc tòa án phải tham gia vào hầu hết các thủ tục giải quyết phá sản, từ ra quyết định mở thủ tục phá sản đến giám sát hoạt động của các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, rà soát, xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, xử lý tài sản của doanh nghiệp có tranh chấp. LPS năm 2014 ra đời đánh dấu bước phát triển quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam, đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. 1.1.2. Mất khả năng thanh toán Về mặt pháp lý, một doanh nghiệp sau khi được đăng ký kinh doanh là có tư cách của một chủ thể kinh doanh để thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị trường. Khi doanh nghiệp đó mất khả năng thanh toán sẽ là căn cứ để Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản. Quyết định này của Tòa án phát sinh hậu quả về nhiều mặt đến con nợ, vai trò của doanh nghiệp trên thương trường, đồng thời hạn chế quyền quản lý tài sản và quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đó. Chính vì vậy, xác định “mất khả năng thanh toán” có ý nghĩa quan trọng bởi nếu không đưa ra căn cứ xác định hợp lý sẽ gây ra những thiệt hại cho không chỉ doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến các chủ nợ và nền kinh tế nói chung. Theo khoản 1 điều 4 Luật phá sản 2014 “ Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”. 14
  21. Như vậy, dấu hiệu xác định DN, HTX mất khả năng thanh toán là DN, HTX không thanh toán được các khoản nợ đến hạn. Theo đó: Một là: Khoản nợ đến hạn mà DN, HTX không thanh toán được là khoản nợ không có bảo đảm. Theo Luật phá sản 2014, DN, HTX có 02 loại nợ là nợ có bảo đảm và nợ không có bảo đảm. Và có 03 chủ nợ là: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, và chủ nợ không có bảo đảm. Nhưng chỉ khi DN, HTX không thanh toán được các khoản nợ không có bảo đảm và bị chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần đòi, thì mới xác định DN, HTX mất khả năng thanh toán. Hai là: DN, HTX mất khả năng thanh toán không có nghĩa là DN, HTX không còn tài sản để trả nợ. DN, HTX có thể còn nhiều tài sản, nhưng tài sản đó không thể bán đi để trả nợ, vì nếu bán đi cũng đồng nghĩa với việc DN, HTX bị phá sản vì không thể hoạt động được nữa. Ba là: DN, HTX mất khả năng thanh toán một khoản nợ là bao nhiêu thì bị coi là lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Luật phá sản 2014 không đưa ra dấu hiệu khoản nợ đó là ít hay nhiều, mà chỉ căn cứ vào khả năng trả nợ của DN, HTX vào thời điểm chủ nợ yêu cầu. Bốn là: DN, HTX mất khả năng thanh toán nợ nào thì coi là mất khả năng thanh toán. Đối với các DN, HTX là pháp nhân như công ty hợp danh, công ty cổ phần , các khoản nợ mà DN, HTX tạo ra đều là các khoản nợ trong kinh doanh, và khi DN, HTX mất khả năng thanh toán các khoản nợ đó thì coi là mất khả năng thanh toán. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân, khoản nợ mà chủ DN tạo ra bao gồm cả nợ phát sinh trong hoạt động kinh doanh và nợ không phát sinh từ hoạt động kinh doanh (nợ dân sự). Tuy nhiên, khi xác định DN tư nhân mất khả năng thanh toán cũng chỉ căn cứ vào việc DN không thanh toán được các khoản nợ trong kinh doanh mà thôi. 15
  22. Năm là: DN, HTX mất khả năng thanh toán nợ trong thời gian là 03 tháng thì bị coi là mất khả năng thanh toán. Mất khả năng thanh toán là tình trạng có thể xảy ra đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán thì thủ tục phá sản có thể sẽ được tiến hành. 1.1.3. Thủ tục phá sản Thủ tục phá sản được hiểu là trình tự từng bước tiến hành giải quyết việc phá sản theo quy định của pháp luật. Thủ tục phá sản không nhất thiết buộc phải giao cho tòa án phụ trách. Bởi vậy, ngoài nguyên tắc chung phá sản là một thủ tục tư pháp, trong nhiều trường hợp đặc biệt, ví dụ đối với ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm việc giải quyết phá sản có thể bao gồm nhiều thủ tục hành chính. Việc lựa chọn giải quyết phá sản theo thủ tục nào tùy thuộc vào điều kiện và truyền thống của mỗi quốc gia. Bản chất của thủ tục phá sản : Tiếp cận dưới góc độ chủ nợ, thủ tục phá sản có bản chất là một thủ tục đòi nợ tập thể. Tiếp cận dưới góc độ thanh toán nợ, thủ tục phá sản là một thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán. Một là, thủ tục phá sản có bản chất là một thủ tục đòi nợ đặc biệt: Trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đã xuất hiện các hình thức mua chậm, trả dần hoặc vay mượn với những cam kết sẽ hoàn trả theo thời gian. Các khoản vay mượn này có thể được đảm bảo hoặc không được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ. Những rủi ro trong kinh doanh có thể đưa đến doanh nghiệp không thanh toán được các khoản nợ. Trong tình huống này, đối với các khoản nợ có bảo đảm thì chủ nợ có quyền yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Trường hợp khoản nợ không có bảo đảm, chủ nợ có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền (tòa án, cơ quan thi hành án) ban hành các quyết định cưỡng chế bán tài sản 16