Luận văn Triết lý nhân sinh trong “Ngư tiều y thuật vấn đáp” của Nguyễn Đình Chiểu và ý nghĩa hiện thời của nó

pdf 80 trang vuhoa 25/08/2022 8660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Triết lý nhân sinh trong “Ngư tiều y thuật vấn đáp” của Nguyễn Đình Chiểu và ý nghĩa hiện thời của nó", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_triet_ly_nhan_sinh_trong_ngu_tieu_y_thuat_van_dap_c.pdf

Nội dung text: Luận văn Triết lý nhân sinh trong “Ngư tiều y thuật vấn đáp” của Nguyễn Đình Chiểu và ý nghĩa hiện thời của nó

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ THỊ LOAN TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG “NGƯ TIỀU Y THUẬT VẤN ĐÁP” CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHAN THỊ THU HẰNG HÀ NỘI, 2018
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi. Tác giả luận văn Ngô Thị Loan
  3. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ THỊ LOAN TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG “NGƯ TIỀU Y THUẬT VẤN ĐÁP” CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHAN THỊ THU HẰNG HÀ NỘI, 2018
  4. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới TS. Phan Thị Thu Hằng - người hướng dẫn khoa học đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thành luận văn! Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Quý thầy cô trong Khoa Triết học - Học viện khoa học xã hội! Đồng thời tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong cơ quan đã động viên, ủng hộ, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài! Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 28 tháng 3 năm 2018 Tác giả luận văn Ngô Thị Loan
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ TƢ TƢỞNG LÝ LUẬN CHO SỰ HÌNH THÀNH TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG “NGƯ TIỀU Y THUẬT VẤN ĐÁP” 10 1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội nửa cuối thế kỷ XIX 10 1.2. Những tiền đề tư tưởng lý luận cho sự hình thành triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu trong “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” 16 1.3. Cuộc đời, sự nghiệp và các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu 28 Chƣơng 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG TÁC PHẨM “NGƯ TIỀU Y THUẬT VẤN ĐÁP” 35 2.1. Đạo sống của con người trước biến cố của lịch sử 35 2.2. Quan niệm về Y đạo 47 2.3. Ý nghĩa hiện thời triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu trong “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” 60 KẾT LUẬN 667 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản có sự chuyển mình mạnh mẽ, gắn liền với trào lưu thực dân phương Tây bắt đầu trỗi dậy và xuất hiện những âm mưu xâm chiếm các quốc gia phương Đông làm thuộc địa. Nước Pháp cũng không đứng ngoài vòng xoáy đó. Là một nhà Nho yêu nước, sống trọn đạo nghĩa với dân, với nước, Nguyễn Đình Chiểu luôn đau đáu một nỗi niềm thương dân vô hạn. Phải làm gì đây để cứu dân, đặc biệt là mạng sống của dân? Sống trong bối cảnh đất nước có biến cố lớn, Nho giáo đang mất dần chỗ đứng, Công giáo đang xâm nhập, nhiều nhà Nho đã chọn cách hoặc là hợp tác với giặc, số khác tìm cách sống ẩn dật giúp an nhàn bản thân, lánh đời. Người người biết đến Nguyễn Đình Chiểu với tư cách nhà Nho, thầy Đồ chuyên dạy học; nhà thơ với phương châm “Dĩ văn tải đạo”. Ngoài ra, Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc, lặn lội nhiều nơi chữa bệnh cho nhân dân. Ông không chỉ đơn thuần là thầy thuốc chữa bệnh về thể chất cho nhân dân, chăm lo cho sinh mệnh, sức khỏe của nhân dân mà còn là người tìm ra phương thuốc chữa căn bệnh u mê về tinh thần cho người dân, thức tỉnh họ trước nạn ngoại xâm của đất nước. Ông chính là một tấm gương sáng ngời về tinh thần yêu nước thương dân, chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Ngày nay, đất nước đang trong quá trình hội nhập, toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Nền kinh tế thị trường phát huy những tác dụng tích cực giúp cho các nhân có điều kiện làm chủ bản thân để phát triển. Bên cạnh đó, thực tế cũng cho thấy, trong xã hội hiện nay, kinh tế thị trường đã có nhiều tác động tiêu cực tới mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều giá trị sống, chuẩn mực đạo đức bị thay đổi. Con người sống thực dụng, thậm chí vô đạo đức, sẵn sàng lừa dối, thanh toán lẫn nhau, tước đi cả mạng sống con người một cách không thương tiếc. Vì thế, trên cơ sở nghiên cứu những nội dung triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu 1
  7. được thể hiện qua tác phẩm “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”, chúng ta có thể chắt lọc được những giá trị, tinh hoa trong các chuẩn mực đạo đức truyền thống còn phù hợp với xã hội Việt Nam hiện nay. Với mong muốn tìm hiểu về triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu, đồng thời qua đó góp phần phổ biến hơn ý nghĩa của truyện thơ “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” trong công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước hiện nay, người viết đã chọn tìm hiểu ''Triết lý nhân sinh trong “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” của Nguyễn Đình Chiểu và ý nghĩa hiện thời của nó'' làm đề tài cho luận văn thạc sỹ triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng Việt Nam, có nhiều nhà tư tưởng góp mặt với nhiều diện mạo khác nhau, tạo nên những dấu ấn riêng của từng tác giả. Từ nét truyền thống đặc thù văn - sử - triết - tôn giáo bất phân ở nhiều quốc gia phương Đông cũng như ở Việt Nam, khi nghiên cứu đến tên tuổi của một tác giả nào đó, chúng ta không thể không đi vào tìm hiểu các sáng tác của họ, qua đó làm nổi bật tư tưởng của họ. Với trường hợp Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta thấy, về cuộc đời và sự nghiệp của ông nói chung và tư tưởng của ông nói riêng, từ lúc ông qua đời đến nay đã được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu trên nhiều phương diện khác nhau như về: cuộc đời và sự nghiệp, thơ văn, văn hóa, y học, tư tưởng, Nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp, có thể kể đến các tác phẩm nổi bật như: Tiểu sử cụ Đồ Chiểu (Tân Văn, số 27, ngày 16 tháng 2 năm 1935, Sài Gòn) của tác giả Mai Huỳnh Hoa, đã trình bày hệ thống các sự kiện nổi bật về nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Ngoài ra trong Thư mục và tư liệu về Nguyễn Đình Chiểu in trong tập Mấy vấn đề về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (Viện Văn học, Nxb Khoa học xã hội, in lần thứ hai, 1969), tác phẩm đã tập hợp và hệ 2
  8. thống hóa các bài nghiên cứu về sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu với một tình cảm chân thành, nồng hậu và kính trọng. Tiếp theo các công trình trên, các tác giả sau này đã nghiên cứu thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu có hệ thống và đầy đủ hơn. Trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu - Tác phẩm và lời bình (Nxb Văn học, 2005) hai tác giả Tuấn Thành và Anh Vũ đã phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau về cuộc đời và tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu. Hai tác giả đã khai thác tư tưởng nhất quán của ông như yêu nước, thương dân, nhân nghĩa đạo đức, Nghiên cứu về lĩnh vực văn học của Nguyễn Đình Chiểu, có nhiều công trình tiêu biểu như: Cuốn Nguyễn Đình Chiểu thơ và đời (do Nhóm Trí thức Việt tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Văn học, 2012). Trong tác phẩm này, nhóm tác giả đã liệt kê toàn bộ các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu (Phần 1), sau đó đi đến trích dẫn 8 bài viết của 8 tác giả viết về Nguyễn Đình Chiểu ở nhiều góc độ khác nhau. Song tựu chung lại đều nhằm làm nổi bật “Cụ thật là Văn Thiên Tường của Việt Nam, đáng được tán tụng bằng những lời thơ chính khí. Cụ thật là người quân tử chân chính của đạo Nho” [56, tr. 241]. Cuốn Nguyễn Ngọc Thiện tuyển chọn và giới thiệu đã tập hợp được rất nhiều bài nghiên cứu và đánh giá Nguyễn Đình Chiểu về cuộc đời, thân thế, sự nghiệp, trong đó có bài viết “Nguyễn Đình Chiểu - thân thế và sự nghiệp” [69, tr. 31]. Tác giả cho rằng nội dung tư tưởng trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu là luôn đặt vấn đề nhân nghĩa lên hàng đầu và nêu lên một chân lý sáng ngời đó là mọi người “phải biết tiếp thu những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ; Tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (gồm hai tập, Nxb Văn học, 1997) do tác giả Ca Văn Thỉnh chủ biên. Công trình này khá đồ sộ và công phu trong việc sưu tầm, chú giải một cách tỉ mỉ về các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu; Tác phẩm Tuyển tập Nguyễn Đình Chiểu do nhóm tác giả Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sỹ Lâm, Nguyễn Thạch Giang biên soạn. Trong đó tác giả Ca Văn Thỉnh nhận xét: “Giá 3
  9. trị lớn lao ông để lại cho con cháu chính là những ánh hào quang tư tưởng chiếu tỏa từ những tác phẩm ưu tú của ông đã được kết tụ lại như những viên ngọc quý: đó là đạo đức nhân nghĩa yêu nước của ông kết tinh của nguyện vọng và ý chí của người lao động đã từng hy sinh xương máu để dựng nước và giữ nước, ước mơ vươn tới một xã hội công bằng và nhân đạo” [72, tr. 41]. Tác giả Trần Thanh Mại, với bài viết: “Nguyễn Đình Chiểu, lá cờ trong nền văn thơ yêu nước thời kỳ cận đại” đã khẳng định: “Tật mù đã đến với ông giữa tuổi thanh xuân cường tráng, đầy mộng đẹp, và ông phải sống bốn mươi năm trời trong cảnh tối tăm mờ mịt ấy. Nhưng chính trong đêm dài ảm đạm đó, đã bùng lên, rực rỡ ánh rạng đông của nền văn chương mới, nền văn chương yêu nước chống ngoại xâm thời kỳ cận đại mà bản thân ông là người dựng lá cờ đầu” [74, tr. 363]. Ngoài ra còn một số tác phẩm tiêu biểu khác như: Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX (Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1990) của tác giả Bảo Định Giang [22]; Nguyễn Đình Chiểu tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình, bình luận của các nhà văn, nhà nghiên cứu Việt Nam và thế giới (Nxb Tổng hợp Khánh Hòa, 1991) của tác giả Vũ Tiến Quỳnh [62]; Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (Nxb Trẻ, 2001) của Đoàn Lê Giang [20]. Qua các tác phẩm trên, các tác giả đều khẳng định, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là đỉnh cao, và là ngọn cờ của văn học yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Các công trình nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu, có thể kể đến các bài viết như: cuốn Nguyễn Đình Chiểu với Ngư Tiều y thuật vấn đáp của tác giả Lê Trần Đức (Nxb Y học phát hành năm 1983) [18], tác giả đã khẳng định đây không chỉ là một tác phẩm nêu cao lòng yêu nước, căm thù giặc mà còn là một tác phẩm chuyên môn nhằm phổ biến y học, với tinh thần nhân nghĩa hết mình vì lòng đạo cứu người; Tác phẩm Đạo làm người từ Lý Thường Kiệt đến 4
  10. Hồ Chí Minh (Nxb Quân đội nhân dân, 2006), tác giả Trần Văn Giàu đã khẳng định: “Bất kỳ tác phẩm nào của Nguyễn Đình Chiểu cũng đều nói tới đạo làm người và trong bất kỳ giai đoạn nào của cuộc đời cụ, người ta cũng đều rút ra được những bài học lớn về đạo làm người, trước nay, chưa có một bậc phụ huynh nào phản đối hay ngần ngại việc cho thanh niên, cho con em đọc tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu ” [24, tr. 252]. Công trình Nguyễn Đình Chiểu Thơ và đời [56] là một sưu tập chọn lọc những bài nghiên cứu, đánh giá tiêu biểu do các tác giả trong nước viết về tác phẩm và cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu. Trong đó, đáng quan tâm là bài “Đọc lại thơ văn Nguyễn Đình Chiểu” - nhà thơ Xuân Diệu có viết: “Giữ vững tinh thần bất khuất! Ngư Tiều y thuật vấn đáp là một quyển sách thuốc, cũng là một quyển sách chính trị; ở đây cụ Đồ Chiểu ngang nhiên tự tin, tin ở sức mạnh của chính nghĩa” [56, tr. 128]. “ , nhưng đọc Ngư Tiều y thuật vấn đáp cũng thấy sự tìm học, sự uyên bác của cụ Đồ Chiểu”; “Đây là sách dạy truyền về thuốc, nên phải kể, dạy cặn kẽ; không biết cụ Đồ Chiểu học từ bao giờ, chẳng lẽ mù rồi, vẫn nhờ người đọc cho mình nghe những sách chuyên môn?” [56, tr. 130]. Từ những nhận định, Xuân Diệu đi đến thán phục nghị lực của Nguyễn Đình Chiểu: “Cụ Đồ Chiểu chắc phải tâm đắc lắm về thuốc, phải quan niệm một cách thật sâu sắc rằng “Y” cũng là “Đạo”, và phải tổ chức sự học hỏi một cách chu đáo, kiên trì lắm, lại phải tin tưởng ở sức hiểu thuốc, sự biết thuốc của mình, thì mới dám viết Ngư Tiều y thuật. Mà đã tạo ra sách ấy, thì tạo trước lúc 27 tuổi, mù, hay chăng? Khó làm được sớm như thế. Thì là sau khi mù. Vậy thì thật kỳ lạ! Một sự học hỏi ôm trùm về chuyên môn như thế, đối với một người mù thì thật là đáng cho ta sửng sốt” [56, tr. 131] Công trình Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và dư luận [82] đã tập hợp những bài viết của một số tác giả tiêu biểu: Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Phạm Xuân Chi, Lê Trần Đức, kể cả những cây bút mới nghiên cứu lần đầu. 5
  11. Nhưng nhìn chung họ đều có đóng góp ý kiến và quan điểm của mình về hầu hết các sáng tác của Đồ Chiểu. Đáng quan tâm hơn cả là bài “Hiện tượng văn y kết hợp và giá trị văn học của tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp” - tác giả Phạm Xuân Chi [68, tr. 382]. Bài viết này đã phản ánh những đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật của truyện thơ Ngư Tiều y thuật vấn đáp như hiện tượng văn y kết hợp, sự xen kẽ nhiều thể thơ, ngôn ngữ, nhân vật, nhưng vì dung lượng nhỏ nên mỗi vấn đề chỉ điểm qua khá sơ lược: “Chúng ta thấy sự kết hợp giữa văn và y diễn ra trong toàn bộ kết cấu cốt truyện và ngay trong từng phần một cách có dụng ý Tất cả những kiến thức về y học đều được trình bày dưới một hình thức văn học. Và chủ đề văn học của tác phẩm thì lại ẩn kín dưới một câu chuyện có hình thức của y học” [68, tr. 383]. Nhà thơ Vũ Đình Liên trong bài viết “Từ nhân sinh quan đến thẩm mỹ quan của Nguyễn Đình Chiểu” đã viết: “Ba tác phẩm dài của Nguyễn Đình Chiểu: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu và Ngư Tiều y thuật vấn đáp có thể xếp vào loại các tiểu thuyết luận đề nhằm chứng minh, khẳng định, một tư tưởng, một lý tưởng chủ đạo: trung hiếu, tiết nghĩa, yêu nước, thương dân. Có thể nói, đạo đức là thức ăn tinh thần, là môi trường sống, là không khí của Nguyễn Đình Chiểu hít thở. Đạo đức nhân nghĩa là máu huyết, là thịt da con người Nguyễn Đình Chiểu. Cái nhu cầu đạo đức nhân nghĩa ấy lại càng mạnh hơn đối với Nguyễn Đình Chiểu cái lý tưởng của Nguyễn Đình Chiểu càng mãnh liệt, càng sâu sắc hơn, khi cái thực tế xã hội mà Nguyễn Đình Chiểu trông thấy càng thối nát, càng nhơ bẩn” [37]. Tác giả Vũ Đức Phúc khi nghiên cứu về “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” đã kết luận: “ nhấn mạnh vào đạo đức của người thầy thuốc, tư tưởng nhân đạo của ông được thể hiện kỹ lưỡng và đó là tư tưởng quý giá, cho nên ngay các bác sĩ bây giờ cũng có thể tiếp thu những tư tưởng ấy của Nguyễn Đình Chiểu, Ngư 6
  12. Tiều là một cuốn sách khó đọc, nhưng có rất nhiều trang độc đáo và lý thú” [11]. Tác giả Trần Văn Giàu với bài viết: “Nguyễn Đình Chiểu đạo làm người”, ông đã nhận xét rằng: “Nguyễn Đình Chiểu không triết luận dông dài về mệnh, nhưng cuộc đời của cụ nói lên rằng cụ đã có ý thức phấn đấu kiên trì chống vận mệnh đen tối nhất để được làm người có ích cho đời, cái ý nghĩ xem chừng như bình thường đó, thật ra không phải ai cũng dễ có, không phải ai cũng biết đặt ra câu hỏi để kiểm tra cho bản thân ta đã làm được gì có ích cho đời?” [24, tr. 63]. Nhìn chung các công trình đã ít nhiều làm rõ được những nội dung cơ bản về cuộc đời, sự nghiệp văn chương và tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về triết lý nhân sinh của ông trong tác phẩm truyện thơ “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” cùng ý nghĩa hiện thời của nó. Căn cứ từ những tài liệu của các tác giả đi trước sẽ là những nguồn kinh nghiệm quý giá để người viết thực hiện luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Làm rõ một số nội dung triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu trong tác phẩm truyện thơ “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”. Qua đó vạch ra ý nghĩa hiện thời của triết lý nhân sinh ấy. 3.2. Nhiệm vụ Một là, phân tích, làm rõ những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu trong bối cảnh lịch sử Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX. Hai là, phân tích, hệ thống hóa một số nội dung trong triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu trong tác phẩm truyện thơ “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”. Ba là, rút ra ý nghĩa hiện thời của triết lý nhân sinh Nguyễn Đình Chiểu trong tác phẩm truyện thơ “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 7
  13. 4.1. Đối tượng nghiên cứu Triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu trong tác phẩm truyện thơ “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu hai nội dung cơ bản trong triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện trong tác phẩm “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”, bao gồm: đạo sống của con người trước biến cố lịch sử và quan niệm về y đạo. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; lịch sử tư tưởng Việt Nam; tham khảo có chọn lọc các công trình của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin như: - Phương pháp phân tích - tổng hợp. - Phương pháp lôgic - lịch sử. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành, 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu trong tác phẩm truyện thơ “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” qua đó khẳng định vị trí, vai trò của Nguyễn Đình Chiểu trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài liên quan đến triết lý nhân sinh trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Đặc biệt dùng làm tài liệu tham khảo trong dạy - học về y đức người Thầy thuốc tại trường Cao đẳng Y tế Bắc Ninh. 8
  14. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 2 chương, 6 tiết. Chương 1: Bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề tư tưởng cho sự hình thành triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu. Chương 2: Một số nội dung cơ bản và ý nghĩa hiện thời của triết lý nhân sinh Nguyễn Đình Chiểu thể hiện qua tác phẩm “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”. 9
  15. Chƣơng 1 BỐI CẢNH LỊCH SỬ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ TƢ TƢỞNG LÝ LUẬN CHO SỰ HÌNH THÀNH TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG “NGƯ TIỀU Y THUẬT VẤN ĐÁP” 1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội nửa cuối thế kỷ XIX 1.1.1. Tình hình thế giới nửa cuối thế kỷ XIX Trước khi đi vào nghiên cứu triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu trong tác phẩm truyện thơ “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”, chúng ta cần tìm hiểu những nét đặc thù trong điều kiện kinh tế - xã hội ở thời kỳ lịch sử mà Nguyễn Đình Chiểu sống. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, ở các nước Châu Âu, giai cấp tư sản lần lượt nắm chính quyền. Những năm 60 -70 của thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh bắt đầu. Chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ thành công, chế độ thống trị của giai cấp tư sản thiết lập ở Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Hàng hóa, tư bản của các nước tư bản Âu Mỹ ùn ùn đổ ra nước ngoài và cũng tới tấp mang về vàng bạc, sản vật địa phương và nguyên liệu. Chủ nghĩa tư bản Phương Tây đua nhau tràn sang Phương Đông kiếm tìm thị trường và khai thác nguyên liệu cho công nghiệp chính quốc. Vận mệnh của tất cả các dân tộc ở Châu Á bị chủ nghĩa thực dân Phương Tây đe dọa. Lúc đó, trật tự phong kiến ở các nước châu Á đang lung lay trước mâu thuẫn không thể điều hòa được của giai cấp phong kiến cầm quyền và nông dân trong nước. Ở Trung Quốc, trước nguy cơ mất nước bởi chủ nghĩa tư bản Phương Tây, nhà Thanh vẫn khư khư coi Trung Quốc là trung tâm của nền văn minh thế giới. Đối nội, triều đình củng cố chế độ chuyên chế, đối ngoại thì thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng. Từ sau cuộc “chiến tranh thuốc phiện”, nhà Thanh đã buộc phải nhượng bộ tư bản Âu Mỹ, ký kết hiệp ước bất bình đẳng này đến hiệp ước bất bình đẳng khác. Hơn nữa, còn 10
  16. liên kết với tư bản thực dân đàn áp phong trào quần chúng. Người dân Trung Hoa phải cam chịu thân phận người dân của một nước nửa thuộc địa. Ở Nhật Bản, từ khi trục xuất những giáo sĩ Phương Tây (1639), nước Nhật cũng hầu như tách biệt với thế giới bên ngoài suốt gần hai thế kỷ. Đến giữa thế kỷ XIX, các nước Âu Mỹ cũng buộc Nhật Bản phải ký những hiệp ước bất bình đẳng. Nhưng từ những năm 60, chính phủ Minh Trị đã đề ra những cải cách kinh tế và xã hội quan trọng. Cải cách duy tân của Nhật được thực hiện trong hoàn cảnh Mỹ có nội chiến, Nga phải đối phó với khởi nghĩa ở Ba Lan, Anh và Pháp bị thu hút vào cuộc đàn áp Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Quốc; Pháp sa lầy vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Do đó nước Nhật thoát khỏi sự cai trị của Âu Mỹ, hơn nữa còn trở thành một đồng minh Phương Đông của các nước tư bản chủ nghĩa Phương Tây. Như vậy, rõ ràng không phải tất cả các quốc gia phương Đông vào thế kỷ XIX đều chịu số phận mất nước trước sự xâm lược của chủ nghĩa tư bản từ Phương Tây. Song sự biến đổi khá sâu sắc và phức tạp của tình hình kinh tế thế giới vào nửa cuối thế kỷ XIX đã tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi về kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam. 1.1.2. Tình hình Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX Vào thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn ở trong tình trạng trì trệ, nghèo nàn, kém phát triển. Chế độ phong kiến Việt Nam đã lâm vào tình trạng khủng hoảng nặng nề trên tất cả các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Về kinh tế, có thể thấy, nhà Nguyễn chính là triều đại cuối của chế độ phong kiến chuyên chế không còn khả năng mở mang kinh tế và phát huy được tiềm lực nhân dân trong xây dựng đất nước. Chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân nhất là của giai cấp địa chủ phong kiến ngày càng lấn vào ruộng đất công của thôn xã và của nhà nước. Công việc khai hoang tuy có kết quả, nhưng thành quả khai hoang trước hết lọt vào tay giai cấp địa chủ phong kiến. Ở Lục tỉnh, nhà 11
  17. giàu mộ dân khai hoang và bao chiếm cả ruộng đất đồn điền. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cho biết: Số nhà giàu, có vùng có 40, 50 nhà, vùng có 20, 30 nhà, mỗi nhà có 50, 60 điền tốt, trâu bò có đến 200 con [10, tr. 140]. Năm 1840, các tỉnh thần Gia Định báo cáo cho Minh Mệnh: “Trong hạt không có ruộng công, các nhà giàu đã bao chiếm ruộng tư đến ngàn trăm mẫu, dân nghèo không được nhờ cậy” [62, tr. 93-94]. Có thể thấy, dưới triều Nguyễn ruộng công không còn được phân nửa. Chính quyền trung ương không có ruộng công để phong cấp cho hệ thống quan lại như các triều đại thời xưa nữa mà phải thu tô thuế để phát lương cho họ và chi dùng vào các khoản khác của nhà nước, nhất là chi phí về quân sự. Quan lại, hào lý thi nhau lạm bổ, bóp nặn dân nghèo, vơ vét cho đầy túi tham. Do vậy, chính sách nông nghiệp của triều Nguyễn chỉ mưu lợi cho giai cấp địa chủ phong kiến thống trị và buộc người nông dân càng ngày càng phải đóng nhiều tô thuế, tạp dịch. Tình trạng bế tắc của công, thương nghiệp cũng tương tự như nông nghiệp. Nhà nước độc quyền ngoại thương và thi hành chính sách bế quan tỏa cảng, khước từ quan hệ buôn bán với các nước tư bản Phương Tây. Triều đình nắm những công xưởng lớn như đúc súng, đúc tiền, đóng tàu, xây dinh thự. Nguyên liệu bị nhà nước thâu tóm. Chế độ công tượng vẫn được thi hành: các thợ giỏi bị nhà nước trưng tập, các thợ thủ công ở địa phương bị nhà nước kiểm soát rất chặt chẽ. Trong khi đất nước đang lâm vào khủng hoảng thì thực dân phương Tây lại đang nhăm nhe xâm lược nước ta. Chiều ngày 31/8/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha dàn trận ở cửa biển Đà Nẵng. Lực lượng Pháp gồm 2.500 quân, 13 chiến thuyền, trang bị vũ khí hiện đại, trong đó có tàu chở 50 đại bác. Tây Ban Nha góp thêm vào đội quân xâm lược 450 tên và 01 chiến thuyền. Sáng 12
  18. 01/9/1858, Pháp gửi tối hậu thư hạn trong hai giờ phải trả lời. Chưa hết giờ hẹn, giặc bắn hàng trăm phát đại bác lên đất liền, rồi đổ bộ chiếm bán đảo Sơn Trà. Với lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân miền Nam luôn tìm cách đánh giặc thích hợp, tiêu biểu nhất là cách đánh phá pháo thuyền - một phương tiện chiến tranh lợi hại thời bấy giờ. Tình hình đó đã làm địch rất hoang mang, lo sợ. Nhưng chính lúc này, triều đình Huế lại ký hiệp ước ngày 5/6/1862 “Hiệp ước hòa bình và hữu nghị”, cắt 3 tỉnh miền Đông Lục tỉnh (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn Lôn cho Pháp, bồi thường chiến phí cho Pháp 4.000.000 đô la, cùng với những nhượng bộ nặng nề khác, mục đích của triều đình Huế là sớm triển khai kế hoạch đối phó với phong trào nông dân miền Bắc đang trên đà phát triển. Đây bị coi như một hiệp ước bán nước cho Pháp. Sau hiệp ước năm 1862, chiếm được 3 tỉnh miền Đông và đảo Côn Lôn, thực dân Pháp thực hiện tiếp âm mưu chiếm 3 tỉnh miền Tây. Chỉ trong vòng 5 ngày (từ 20-24/6/1867), quan quân triều đình Huế để mất cả ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, thực dân Pháp đã không gặp phải một sự kháng cự đáng kể nào. Trước thái độ nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn, năm 1873, thực dân Pháp đã chuyển hướng tấn công ra Hà Nội, chúng liên tiếp gây ra những vụ khiêu khích thậm chí cướp phá ở Hà Nội; bắt thuyền bè của nhân dân, đánh đồn canh của quân đội triều đình ở ven sông Hồng. Đối sách của triều đình Huế chỉ là hòa nghị. Nhân dân Hà Nội đã đứng lên tự huy động võ trang, bao vây tiến đánh địch, đốt kho thuốc súng của giặc và giành được nhiều thắng lợi to lớn. Nhưng triều đình Huế hèn nhát, bỏ lỡ thời cơ, đã không dám hiệu triệu quan quân thừa thắng tiến lên, mà ra lệnh cho lui binh, rút quân. Hãm mình trong thế bị động, thương thuyết, triều đình Huế lại ký một hiệp ước ngày 15/3/1874 tại Sài Gòn “Hiệp ước Hòa bình và Liên minh” với những điều khoản nặng nề có hại cho nước ta. Với hòa ước này, phong kiến triều Nguyễn chính thức dâng toàn bộ đất đai Nam Kỳ cho thực dân Pháp, công nhận quyền đi lại, buôn bán, kiểm 13
  19. soát, và điều tra tình hình của chúng ở Việt Nam. Hiệp ước 1874 đã làm cho nhân dân cả nước vô cùng phẫn nộ, đánh dấu sự đầu hàng của triều Nguyễn. Nhân dân vạch mặt chỉ tên kẻ phá hoại công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, đó chính là triều Nguyễn. Tháng 7 năm 1883, bọn chỉ huy Pháp tại Hải Phòng bàn kế hoạch thâu tóm toàn bộ Việt Nam. Vào thời điểm đó, vua Tự Đức mất, triều đình Huế rơi vào tình trạng chia rẽ, lục đục trong vấn đề suy tôn người kế nghiệp, do vua Tự Đức không có con. Chớp thời cơ thuận lợi, ngày 20/8/1883, hạm đội Pháp, do đô đốc Cuôcbê chỉ huy, đã tiến vào chiếm đánh cửa Thuận An. Ngày 25/08/1883, triều đình Huế phải ký ngay “Hiệp ước Hòa bình” theo những điều kiện của chúng. Với bản hiệp ước mới, Việt Nam đã mất quyền tự chủ trên phạm vi toàn quốc, triều đình Huế đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của nước Pháp. Mọi công việc về chính trị, kinh tế, ngoại giao của Việt Nam đều do Pháp quản lý. Đây là sự phản bội nặng nề nhất của triều đình Huế đối với nhân dân, nên bị nhân dân cả nước chống đối quyết liệt. Trên đà thắng thế, chính phủ Pháp đã ép triều đình Huế ký kết điều ước ngày 6/6/1884 (Điều ước Patơnốt). Điều ước Patơnốt gồm 19 khoản đã xác lập quyền đô hộ lâu dài và chủ yếu của thực dân Pháp ở Việt Nam. Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, dân tộc Việt Nam bị tước đi quyền độc lập, tự do; nhân dân Việt Nam bị mất quyền làm chủ đất nước và bị mất đi các quyền cơ bản của con người. Sau khi thực dân Pháp căn bản hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân sự, chúng đã thực hiện khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng, cũng như Đông Dương nói chung, với quy mô ngày càng lớn. Bên cạnh việc tổ chức bộ máy khai thác thuộc địa, chính quyền thực dân Pháp còn dùng thủ đoạn độc quyền về kinh tế như: độc quyền kinh doanh một số ngành công nghiệp khai thác than, quặng, thương mại, nắm phương tiện giao thông vận tải, khai thác những mỏ khoáng sản có trữ lượng lớn, chiếm đất lập đồn 14
  20. điền kinh doanh cây công nghiệp, độc quyền xuất nhập khẩu, Ngoài ra, thực dân Pháp còn thiết lập hệ thống ngân hàng, độc quyền phát hành giấy bạc và cho vay nặng lãi. Ngân hàng Đông Dương là một tập đoàn tư bản tài chính có thế lực nhất làm chúa tể, và chi phối mọi ngành kinh tế ở Đông Dương. Chính quyền thực dân không từ bỏ bất kỳ chính sách bóc lột nào kể cả những hình thức bóc lột kinh tế thời Trung cổ. Chẳng hạn như thực dân Pháp áp đặt nhiều loại thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế đò, thuế vỉa hè, thuế môn bài, thuế xe, thuế lưu trú, thuế rượu, thuế muối, thuế thuốc phiện chúng độc quyền sản xuất rượu, độc quyền mua bán thuốc phiện; chúng dùng rượu cồn, thuốc phiện để đầu độc nhân dân, làm suy yếu giống nòi Việt Nam. Cùng với sự bóc lột nặng nề về mặt kinh tế, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách cai trị trên lĩnh vực chính trị, văn hoá vô cùng khắc nghiệt. Chúng ban hành sắc lệnh 17/10/1887, theo đó, thực dân Pháp thành lập liên bang Đông Dương, lúc đó mới bao gồm có Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ và Campuchia, trực thuộc bộ Hải quân và thuộc địa Pháp, đứng đầu là toàn quyền. Ngày 20/03/1894, Pháp thành lập Bộ thuộc địa và Đông Dương trực thuộc Bộ này. Ngày 19/04/1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập Lào vào Liên bang Đông Dương. Để đảm bảo thu được lợi nhuận thuộc địa tối đa, thực dân Pháp thực hiện chính sách chuyên chế về chính trị. Thực dân Pháp thực hiện chính sách chia để trị nhằm làm suy yếu lực lượng dân tộc Việt Nam. Chúng chia nước ta ra làm ba kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau. Nam Kỳ là đất thuộc địa do Pháp trực tiếp đặt ách cai trị. Trung Kỳ là xứ bảo hộ, vẫn giữ nguyên chính quyền nhà Nguyễn (thực chất là chính quyền tay sai cho thực dân Pháp). Bắc Kỳ thực hiện chính sách nửa bảo hộ (thực chất là Pháp thực hiện chính sách kìm kẹp). Bên cạnh đó, thực dân Pháp ra sức ngăn chặn mọi ảnh hưởng của nền văn hoá dân chủ tiến bộ Pháp vào Việt Nam, đem văn hoá phản động trụy lạc nhồi vào tư tưởng của nhân dân ta. 15
  21. Tóm lại, giai đoạn cuối thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam có nhiều biến động sâu sắc về mọi mặt. Chủ nghĩa tư bản đã bước sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn chủ nghĩa thực dân, xâm chiếm thuộc địa khắp nơi trên thế giới nhằm làm giàu cho chính quốc. Thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam vào giữa thế kỷ XIX là kết quả của quá trình phát triển ấy. Với sự khai thác tối đa lợi ích từ thuộc địa của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã mất đi quyền làm chủ vận mệnh dân tộc, bị tước hết quyền làm người. Tư tưởng của những người yêu nước nói chung, tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng, đã phản ánh sâu sắc bối cảnh kinh tế, xã hội trên. 1.2. Những tiền đề tƣ tƣởng lý luận cho sự hình thành triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu trong “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” Bối cảnh lịch sử - xã hội nửa sau thế kỷ XIX đầy biến động đã tác động lớn tới sự hình thành triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu. Bên cạnh đó, yếu tố không thể không đề cập tới đó chính là những yếu tố về mặt tư tưởng lý luận tạo nền tảng trong việc hình thành triết lý nhân sinh của ông. 1.2.1. Vai trò của truyền thống văn hóa dân tộc với sự hình thành triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu trong “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” Cũng như nhiều nhà văn hóa, nhà tư tưởng khác, triết lý nhân sinh của Nguyễn Đình Chiểu trong “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” là sự kế thừa truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Điều đó được thể hiện ở niềm tự hào về dân tộc, tinh thần bất khuất, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường; tinh thần yêu nước, thương dân và truyền thống đạo lý làm người trong truyền thống văn hiến lâu đời của dân tộc Việt Nam. Là quốc gia nằm ở phía Đông, thuộc bán đảo Đông Dương, khu vực Đông Nam Á, châu Á, Việt Nam trở thành đầu mối giao thông quốc tế quan trọng, có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, Việt Nam luôn là mục tiêu xâm lược của nhiều quốc gia. Việc hình thành một nền văn hóa và hình thức nhà nước 16