Luận văn Tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_tranh_tung_trong_xet_xu_theo_luat_to_tung_hinh_su_v.pdf
Nội dung text: Luận văn Tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM VĂN PHIẾM TRANH TôNG TRONG XÐT Xö THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (TR£N C¥ Së Sè LIÖU THùC TIÔN §ÞA BµN TØNH §¾K N¤NG) LUÂṆ VĂN THAC̣ SI ̃ LUÂṬ HOC̣ HÀ NỘI - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM VĂN PHIẾM TRANH TôNG TRONG XÐT Xö THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (TR£N C¥ Së Sè LIÖU THùC TIÔN §ÞA BµN TØNH §¾K N¤NG) Chuyên ngành: Luâṭ hiǹ h sư ̣ và tố tuṇ g hiǹ h sư ̣ Mã số: 60 38 01 40 LUÂṆ VĂN THAC̣ SI ̃ LUÂṬ HOC̣ Cán bộ hướ ng dẫn khoa hoc̣ : PGS. TS. NGUYỄN NGOC̣ CHÍ HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chín xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị khoa luật xem xét để cho tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Phạm Văn Phiếm
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 8 1.1. KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH TỐ TỤNG TRANH TỤNG 8 1.1.1. Sự ra đời của mô hình tố tụng tranh tụng 8 1.1.2. Khái niệm mô hình tố tụng tranh tụng 10 1.1.3. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng 11 1.2. VAI TRÒ CỦA TRANH TỤNG TRONG QUÁ TRÌNH XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 17 1.2.1. Xét xử là biểu hiện tập trung, tiêu biểu nhất quyết định hiệu quả của tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án 18 1.2.2. Điều khiển tranh tụng tại phiên tòa giữa các bên thông qua vai trò của Hội đồng xét xử 22 1.2.3. Ra các phán quyết về tội phạm và người phạm tội dựa trên kết quả tranh tụng tại tòa 25 1.3. TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 27 1.3.1. Tố tụng tranh tụng tại một số nước theo hệ thống Common law 27 1.3.2. Áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự - Điểm cơ bản trong quá trình cải cách tư pháp của nhiều quốc gia trên thế giới 32
- Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG 38 2.1. QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ 38 2.1.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh tụng trong xét xử trước 2003 38 2.1.2. Qui định của Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về tranh tụng trong xét xử 43 2.2. THỰC TIỄN TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ TẠI TỈNH ĐẮK NÔNG 50 2.2.1. Một số đặc điểm tình hình kinh tế - Xã hội và tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông 50 2.2.2. Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông 53 2.2.3. Những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, xã hội, tổ chức ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng trong xét xử 54 2.2.4. Tình hình xét xử từ năm 2010 – 2014 trên địa bàn Tỉnh Đắk Nông 56 2.2.5. Tình hình tham gia tranh tụng của luật sư tại phiên tòa ở Đắc Nông 60 2.2.6. Một số phiên toà điển hình của việc xét xử theo hướng tranh tụng tại Đắk Nông 62 2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ 66 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 70 3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 70 3.1.1. Bất cập qui định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử 70
- 3.1.2. Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa 78 3.1.3. Yêu cầu triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp và Hiến pháp 2013 82 3.2. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ 83 3.2.1. “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” phải được qui định là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự 83 3.2.2. Bổ sung, hoàn thiện các qui định hỗ trợ cho việc “ bảo đảm tranh tụng trong xét xử” 84 3.2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa 90 KẾT LUẬN 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự CQTHTTHS: Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử HSPT: Hình sự phúc thẩm HSST: Hình sự sơ thẩm TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân Tối cao THTT: Tiến hành tố tụng VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Thống kê số liệu Cán bộ Công chức TAND tỉnh Đắk Nông tính đến ngày 10/07/2014 54 Bảng 2.2: Số vụ án được xét xử 56 Bảng 2.3: Số bị cáo được xét xử 57 Bảng 2.4: Các đối tượng là người chưa thành niên và bị truy tố đến khung hình phạt đến tử hình 60 Bảng 2.5: Số vụ, việc do cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu 61 Bảng 2.6: Số lượng tham gia của luật sư tại phiên tòa 61
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta nói chung cũng như tình hình vi phạm ở trên địa bàn tỉnh Đắk Nông xảy ra ngày càng nghiêm trọng, có chiều hướng gia tăng nhanh cụ thể trong 10 đại án mà cả nước quan tâm trong thời gian qua thì tỉnh Đắk Nông có một vụ và đã đưa ra xét xử từ ngày 18/3/2014 đến ngày 20/3/2014. Việc gia tăng tội phạm đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công nghiệp hóa; hiện đại hóa đất nước. Các cơ quan Tư pháp như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đã nỗ lực phấn đấu giải quyết tốt công việc của mình mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó để góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong thời gian qua vẫn còn những trường hợp làm oan người vô tội, các cơ quan Tư pháp phải bồi thường và công khai xin lỗi. Hậu quả để lại cho người bị oan rất nặng nề sau khi được minh oan họ đã trắng tay, gia đình ly tán, người thân đầy mặc cảm với xã hội, con cái không còn giám đến trường học vì bị bạn bè khinh rẻ, kinh tế của gia đình sụt giảm nghiêm trọng có những trường hợp đã khánh kiệt về tài sản; hay họ từ những người thành đạt và được trọng vọng trong xã hội nhưng sau thời gian bị tạm giam và kết án oan thì bị người thân và xã hội xa lánh. Trong khi đó người thực hiện hành vi tội phạm đích thực thì vẫn cứ nhởn nhơ ở ngoài xã hội và chưa bị pháp luật trừng trị Điều đó tạo dư luận không tốt trong xã hội khiến nhân dân giảm lòng tin vào sự công bằng trong xã hội mà Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đang hướng tới. Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc xét xử và ra các bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật có ý nghĩa quyết định và góp phần phát huy được vai trò tích cực là một bộ phận cấu thành không thể thiếu 1
- trong hệ thống các biện pháp tác động của Nhà nước và xã hội đến tội phạm. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển toàn diện của đất nước trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và qua thực tiễn áp dụng, nhiều quy định về tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam nói riêng của BLTTHS năm 2003 vẫn còn một số bất cập và hạn chế như: chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tranh tụng tại phiên tòa, những quy định cụ thể của tranh tụng tại phiên tòa đồng thời cần bổ sung quy định của BLTTHS sự với nội dung tăng cường việc tranh tụng tại phiên tòa v.v Một số tồn tại và hạn chế nêu trên đã gây ra những vướng mắc, lúng túng và có không ít trường hợp áp dụng còn chưa thống nhất các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp nhất là về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự. Mặt khác, trong thực tiễn khi xét xử các vụ án Hình sự do chưa đánh giá hết vai trò, chức năng, công dụng của việc tranh tụng tại phiên tòa, nên các Tòa án; những người tham gia tố tụng còn ít quan tâm. Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra yêu cầu "Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp" và Nghị quyết số 37/2012/HQ13 ngày 23/11/2012 của Quốc Hội cũng yêu cầu Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa; đảm bảo việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật. 2
- Hiện nay, khoa học luật tố tụng hình sự trong và ngoài nước đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tranh tụng tại phiên tòa, nhưng chủ yếu chỉ đề cập một cách tổng thể và có hệ thống những khía cạnh lý luận chung nhất về tranh tụng mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc riêng về về tranh tụng tại trong xét xử dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng. Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng, lấy lại niềm tin của người dân vào tòa án và nền công lý xã hội chủ nghĩa. Việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài "Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến vấn đề tranh tụng tại phiên tòa trong tố tụng Hình sự như: Ở Việt Nam, khoa học luật tố tụng hình sự là một trong những ngành khoa học pháp lý phát triển nhất so với các ngành khoa học pháp lý khác, do đó, xét riêng về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự, cho thấy có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: TSKH Lê Cảm và TS Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong gia đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền", Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà nội, 2004. Tống Anh Hào "Về tranh tụng tại phiên tòa Hình sự" trong tạp chí Tòa án số 5/2003; Hồ Nguyễn Quân "Một số giải 3
- pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa" trong tạp chí Tòa án số 1/2014; PGS-TS Trần Văn Độ "Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa" Trong tạp chí khoa học pháp lý số 4/2004; Hồ Nguyễn Quân "Một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa Hình sự" trong Tạp chí Tòa án số 01/2004. Nguyễn Thị Tuyết "Kiểm sát viên tham gia tranh tụng tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp" trong tạp chí Tòa án số 04/2010; v.v Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản về các giải pháp nâng cao chất lượng về tranh tụng tại phiên tòa hình sự còn đối với việc nghiên cứu một cách toàn diện về tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam thì chưa có công trình nào đề cập đến. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về tranh tụng trong xét xử dưới khía cạnh lập pháp tố tụng hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam trong thực tiễn áp dụng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và 4
- ngoài nước về tranh tụng trong xét xử, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về tranh tụng trong xét xử theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam như: Khái niệm tranh tụng, đặc điểm của mô hình tranh tụng; ưu điểm và hạn chế của mô hình tranh tụng; Khái niệm tranh tụng trong xét xử vụ án Hình sự, nội dung, đặc điểm của tranh tụng trong xét xử Hình sự. - Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam về tranh tụng trong xét xử ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 cho đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu những quy định cụ thể về trang tụng trong xét xử của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những tồn tại, hạn chế của các quy định về tranh tụng trong xét xử trong luật Tố tụng Hình sự Việt Nam cần khắc phục; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của nó; - Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về Tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả việc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự trong thực tiễn. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh tranh tụng tại phiên tòa theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình tranh tụng tại phiên tòa trong thực tiễn xét xử các vụ án Hình sự của các Tòa án nhân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc tỉnh Đắk Nông và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa Hình sự trong thực tiễn. 5
- Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp một số nước trong khi nghiên cứu tranh tụng trong xét xử. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc tranh tụng tại các phiên tòa Hình sự trong 05 năm (2010-2014) thuộc Tòa án nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về vấn đề cải cách tư pháp. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về tranh tụng trong xét xử, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về Tranh tụng trong xét xử để xây dựng nên khái niệm tranh tụng, tranh tụng trong xét xử vụ án Hình sự đảm bảo tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự trong mối tương quan với một số thủ tục khác; - Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành 6
- và phát triển của tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay; - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh tình hình thực hiện việc tranh tụng tại các phiên tòa hình sự của Tòa án các cấp thuộc tỉnh Đắk Nông; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn pháp luật và thực tiễn thực hiện việc tranh tụng tại phiên tòa cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế đó; - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng và nâng cao hiệu quả của việc thực hiện tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn tranh tụng trong xét xử. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự. 7
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH TỐ TỤNG TRANH TỤNG 1.1.1. Sự ra đời của mô hình tố tụng tranh tụng Mô hình tố tụng hình sự của một Quốc gia được thể hiện trong Luật Tố tụng hình sự của Quốc gia đó phản ánh cách thức giải quyết vụ án hình sự, từ việc xác định, chứng minh tội phạm đến phán quyết về tội phạm và trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Mô hình tố tụng hình sự phụ thuộc vào cơ sở kinh tế- chính trị- xã hội và nền pháp luật cũng như năng lực của các cơ quan tiến hành tố tụng mỗi Quốc gia. Đối với những nước theo hệ thống pháp luật Common Law thì việc tìm đến sự thật khách quan của vụ án được coi là mục tiêu tối quan trọng và các Cơ quan tiến hành tố tụng có địa vị tích cực, chủ động trong quá trình tìm kiếm sự thật đó. Tuy cũng hướng đến mục tiêu tìm đến sự thật khách quan nhưng các nước theo dòng pháp luật Civil Law lại đặc biệt coi trọng đến quyền con người và địa vị bình đẳng giữa các bên trong quá trình tố tụng. Khi nghiên cứu về luật so sánh cho mô hình tố tụng tranh tụng được tìm thấy ở các nước thuộc hệ thống Common law, trong phần trình bày của mình tại Nhà pháp luật Việt – Pháp, bà Elisabeth Pelsez cho rằng mô hình tố tụng đầu tiên trong lịch sử phát triển của xã hội là tố tụng tranh tụng. Bà nhấn mạnh rằng các nhà nghiên cứu lịch sử pháp luật đều nhận định tố tụng tranh tụng đã được áp dụng tại Hy Lạp cổ đại và được đưa tới La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”. Anh quốc luôn được xem là quê hương của hệ thống Common law cho nên khi nghiên cứu đến tố tụng tranh tụng người ta không thể không xem xét pháp luật của Anh quốc. Phillip L. Reichel cho rằng 8
- hệ thống tranh tụng thường được coi là cái thay thế cho sự trả thù cá nhân. Quả thực, cho đến thế kỷ XIII ở Anh quốc những người bị xâm hại về tài sản, về thân thể chưa nhận được sự bảo hộ của pháp luật, họ chưa nhận được sự che chở của toà án và phải tự trả thù. Sau này để chấm dứt một nền công lý thô bạo, giải quyết các mâu thuẫn theo con đường “nợ máu phải trả bằng máu” thì vào khoảng năm 1252 đã xuất hiện một cái gọi là writ of trespass (tố quyền về sự vi phạm) ở Anh quốc và cũng từ đó người buộc tội đã chuyển từ cá nhân sang nhà nước và giữa họ xử sự với nhau theo kiểu tranh cãi và người ta gọi quy trình xét xử đó là tranh tụng hay đối tụng [10, tr.3]. Theo PGS. TS Phạm Hồng Hải thì lịch sử tố tụng hình sự trên thế giới đã từng chứng kiến bốn loại hình tố tụng khác nhau. Ban đầu là tố tụng hình sự tố cáo ở nhà nước nô lệ, sau đó được thay thế bằng kiểu tố tụng hình sự xét hỏi ở nhà nước phong kiến. Vào thế kỷ 17,18 ở Châu Âu các nhà tư tưởng nổi tiếng đã tác động rất lớn tới quá trình dân chủ hoá nền tư pháp nói chung và tố tụng hình sự nói riêng, do đó kiểu tố tụng xét hỏi đã được chuyển sang kiểu tố tụng xét hỏi- tranh tụng và cuối cùng là tố tụng hình sự tranh tụng. Cũng theo PGS.TS Phạm Hồng Hải, mầm mống của tố tụng hình sự tranh tụng đã xuất hiện ở một số quốc gia trong khoảng từ thế kỷ X đến XIII khi ở các nơi đó tồn tại một phong tục gọi là “quyết đấu”. Đây là phong tục rất thịnh hành thời cổ xưa khi người buộc tội và người bị buộc tội phải “thi đấu” với nhau (kể cả bằng sức mạnh) và chân lý được coi là thuộc về người chiến thắng. Ý tưởng có thể coi là “hoang dã” này đã ảnh hưởng tới cách thức tổ chức và thủ tục tố tụng hình sự và mô hình tố tụng hình sự tranh tụng ngày càng được hoàn thiện [18]. Có thể nói rằng, trong lịch sử phát triển tố tụng hình sự, ở hầu hết các nước đều bắt đầu từ mô hình đối tụng. Trong hệ thống đối tụng thời sơ khai, xét xử hình sự do nguyên đơn khởi xướng và thẩm phán không tự động điều tra hay xét xử một vụ án nào vì tất cả các vụ kiện đều được coi là tranh chấp giữa những 9
- người tranh tụng. Trong quá trình xét xử, cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ ngang bằng nhau, hai bên tranh tụng trước toà và thẩm phán sẽ xem xét và quyết định xem ai thắng kiện. Và dần dần khi xã hội phát triển đến một chừng mực nào đó và nhà nước buộc phải phát huy vai trò của mình thì kể cả khi không cần có sự khởi xướng của nguyên đơn, nhà nước vẫn có thể truy tố một kẻ nào đó ra trước toà và giữa họ sẽ diễn ra một quá trình tranh luận để đi tìm sự thật khách quan của vụ án, đó chính là hình ảnh của hệ tố tụng tranh tụng ngày nay. Như vậy, để có được mô hình tố tụng hình sự tranh tụng như hiện nay, lịch sử của tố tụng hình sự đã phải trải qua một thời gian khá dài với rất nhiều thử thách, thăng trầm và người ta vẫn đang bàn luận về ưu, nhược điểm của hệ tố tụng này nhưng đa số điều thừa nhận tính ưu việt của mô hình tố tụng tranh tụng so với các mô hình tố tụng hình sự khác. 1.1.2. Khái niệm mô hình tố tụng tranh tụng Trên thế giới, hiện đang tồn tại nhiều loại mô hình tố tụng khác nhau, trong đó có hai mô hình tố tụng chính là: Mô hình tố tụng thẩm vấn (xét hỏi) và mô hình tố tụng tranh tụng. Mô hình tố tụng hình sự là khái niệm khoa học với những tiêu chí nhất định để xác định Luật tố tụng hình sự một quốc gia thuộc mô hình tố tụng hình sự nào. Những tiêu chí đó bao gồm: Thứ nhất, về mục tiêu và phương pháp tố tụng sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án. Các mô hình tố tụng đều có chung một mục đích là tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, mô hình tố tụng thẩm vấn chủ yếu áp dụng phương pháp xét hỏi một chiều để tìm ra chân lý. Còn mô hình tố tụng tranh tụng lại áp dụng phương pháp đối đáp hai chiều, một cách bình đẳng để tìm ra bên có lý hơn; Thứ hai, về vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng. Đối với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, địa vị của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoàn toàn bình đẳng đối với bên buộc tội. Còn ở mô hình tố tụng thẩm vấn, các cơ quan tiến hành tố tụng giữ vị trí chủ động, tích cực, quyết 10
- định trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; Thứ ba, về vấn đề chứng cứ và chứng minh tội phạm: Trong khi mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn quy định chỉ có Cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền thu thập chứng cứ và lập hồ sơ vụ án thì ở mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, bên gỡ tội cũng có quyền thu thập chứng cứ và lập một hồ sơ hình sự riêng của mình. Tại phiên tòa, Luật sư trong mô hình tố tụng tranh tụng có quyền bình đẳng với bên Công tố, được triệu tập nhân chứng, đối đáp, xét hỏi những người có liên quan. Điều này không có ở mô hình tố tụng thẩm vấn. Trên cơ sở các tiêu chí này, mô hình tố tụng tranh tụng có những đặc điểm sau: a.Trong tố tụng tranh tụng quá trình giải quyết vụ án hình sự được coi là quá trình giải quyết tranh chấp; b. Hình thành các bên (bên buộc tội, bên gỡ tội) bình đẳng trong việc thu thập chứng cứ, chứng minh trong quá trình giải quyết vụ án, có quyền nghĩa vụ tố tụng ngang nhau; c. Các chức năng cơ bản của TTHS được phân định rõ ràng tương ứng với các chủ thể buộc tội, chủ thể gỡ tội và chủ thể xét xử; d. Không mong đợi sự hợp tác của bị can, bị cáo trong quá trình chứng minh, họ được quyền giữ im lặng; e. Tố tụng tranh tụng mang tính chất công khai và mở ra cơ hội cho các bên buộc tội và bên gỡ tội. Từ những đặc điểm nêu trên có thể đưa ra khái niệm về mô hình tố tụng tranh tụng như sau: Tố tụng tranh tụng là mô hình tố tụng hình sự mà ở đó xuất hiện bên buộc tội và bên gỡ tội có địa vị pháp lý ngang bằng nhau trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án và toà án sẽ ra phán quyết dựa trên kết quả tranh tụng giữa các bên tại phiên toà. 1.1.3. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng 1.1.3.1. Ưu điểm Ưu điểm của mô hình tố tụng tranh tụng thể hiện ở những khía cạnh sau: - Mô hình tố tụng tranh tụng có một quy trình tố tụng công bằng, nhất 11
- là trong giai đoạn xét xử với vai trò bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Cả hai chủ thể này đều có quyền và nghĩa vụ như nhau trong suốt quá trình tố tụng. Ở giai đoạn tiền xét xử, họ có quyền như nhau trong việc điều tra, thu thập chứng cứ. Ở giai đoạn xét xử, chứng cứ của họ đều được đưa ra để thẩm tra trước Tòa. Từ góc độ tố tụng, họ đều có quyền tác động như nhau tới phiên xét xử, có quyền lựa chọn nhân chứng để thẩm tra Tố tụng tranh tụng được biết đến khi tính ưu việt của nó là không chỉ đề cao quyền con người mà còn phát huy tối đa tinh thần dân chủ. Tại các nước theo hệ tranh tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng không bao giờ đứng trên và có ưu thế trội hơn bên gỡ tội mà giữa họ có một vị thế ngang bằng nhau, nhà nước và công dân đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng. Mô hình tố tụng tranh tụng đề cao dân chủ, công dân mà cụ thể là bị cáo cũng có quyền điều tra, thu thập chứng cứ để gỡ tội cho mình giống như là hoạt động của một công tố viên thu thập chứng cứ để buộc tội họ. Tại phiên toà xét xử, công tố viên và luật sư bào chữa tranh cãi với nhau một cách dân chủ cả về nội dung và hình thức. Đây chính là ưu điểm nổi bật của hệ tranh tụng so với hệ thẩm vấn – nơi mà phiên toà thường diễn ra một chiều theo hướng dành toàn bộ ưu thế cho viện công tố khi kết tội bị cáo. Với đặc điểm là toà án chỉ đóng vai trò trung gian như một trọng tài, thẩm phán ở các nước theo hệ tranh tụng không được tiếp cận với hồ sơ vụ án và không tham gia thẩm vấn. Do các bên được tự do trong việc thu thập và xuất trình chứng cứ, tự do trong việc thẩm vấn và tranh tụng tại phiên toà nên tố tụng tranh tụng đảm bảo được tính vô tư khách quan khi đưa ra phán quyết [39, tr.26]. Người ta cũng cho rằng phán quyết mà các vị thẩm phán của mô hình tố tụng tranh tụng đưa ra là một phán quyết rất công bằng. Xin nói cho rõ thêm đây được xem là phán quyết công bằng nhưng không hẳn là phán quyết đem lại công lý, bởi công bằng không có nghĩa là công lý. Công 12
- bằng là ở chỗ phán quyết của toà án dựa trên kết quả cuộc tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội – mà cả hai bên này đều được pháp luật trao cho những cơ hội ngang nhau để bảo vệ luận điểm, lý lẽ của mình nên một phán quyết có lợi hơn cho bên giành chiến thắng chính là một phần thưởng xứng đáng giành cho người nỗ lực, tích cực, chủ động và tài giỏi hơn. Sự công bằng còn đem lại những tác động tích cực tới chất lượng của quá trình giải quyết vụ án. Do Luật sư có thể tham gia đầy đủ vào quá trình tố tụng nên Tòa án có thêm được một nguồn thông tin để khám phá sự thật khách quan của vụ án. Thay vì chỉ xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ hình sự của bên buộc tội (đối với mô hình tố tụng thẩm vấn) thì Tòa án trong mô hình tố tụng tranh tụng được tiếp cận cả chứng cứ phong phú của cả bên buộc tội và bên gỡ tội. Sự va đập của hai luồng chứng cứ này có thể tìm ra sự thật khách quan một cách chính xác hơn, chất lượng tố tụng vì thế cũng nâng cao hơn. - Tôn trọng và bảo đảm quyền con người hơn trong quá trình tố tụng so với các mô hình tố tụng hình sự khác Tố tụng hình sự là hoạt động khá nhạy cảm và cũng rất dễ động chạm đến quyền con người, nhưng đã từ rất lâu nay, trong lịch sử phát triển cuả mình, tố tụng tranh tụng chưa bao giờ bị coi là xem nhẹ quyền con người. Với nguyên tắc suy đoán vô tội “thà bỏ sót còn hơn bắt nhầm” các cơ quan tiến hành tố tụng luôn đặt quyền hiến định, quyền con người lên trên hết. Đơn cử như ở Anh khi muốn hỏi cung bị can thì sự có mặt của luật sư được coi là bắt buộc và ở tất cả các nước theo hệ tranh tụng, khi một nghi phạm bị bắt giữ, anh ta sẽ nhận được thông báo về quyền và nghĩa vụ của mình và rằng anh ta có quyền im lặng bất hợp tác với cảnh sát và có quyền đòi hỏi sự có mặt của luật sư. Hoặc tại Mỹ, luật TTHS qui định, sau khi tiến hành bắt một ai đó, cảnh sát phải lập chứng cứ hay có một tuyên bố có tính chất thề thốt. Bị can nhất thiết phải được thông báo chính xác về các trách nhiệm và tất cả các 13
- quyền hiến định, cũng như các bảo đảm, trong đó quan trọng nhất là một số quyền mà quyết định Miranda của toà án Warren đã tuyên năm 1966. ở một vài tiểu bang của Mỹ còn đòi hỏi phải thông báo cho bị can về các quyền được ghi trong đạo luật về nhân quyền như: quyền được xét xử nhanh chóng và quyền được đối chất với người làm chứng chống lại bị can [10, tr.5-6]. Tại phiên toà, bị cáo có quyền tự bào chữa cho mình hoặc thông qua luật sư bào chữa để thực hiện việc tranh cãi với công tố viên và không ai bị coi là có tội khi chưa có một phán quyết của toà án. Với sự công bằng của quy trình tố tụng, mô hình tố tụng tranh tụng thể hiện ở mức độ cao hơn sự tôn trọng các quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Vai trò của Luật sư giúp giảm đi sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này hết sức quan trọng bởi vì quá trình tố tụng hình sự là một quá trình hết sức nhạy cảm mà ở đó quyền cơ bản của công dân rất dễ bị vi phạm. Cũng chính vì vậy, các học giả có nhận định chung là trong mô hình tố tụng tranh tụng, quyền được suy đoán vụ tội của người dân được tôn trọng hơn so với mụ hình tố tụng hình sự khác. - Mô hình tố tụng tranh tụng hạn chế tối đa việc làm oan người vô tội Xuất phát từ tính chất dân chủ, khách quan, công bằng mô hình tố tụng tranh tụng luôn mở ra cơ hội cho các bên và kết quả tranh tụng tại toà án là căn cứ để tòa án ra phán quyết nên nó hạn chế đến mức tối đa các trường hợp kết án oan người không phạm tội. Hệ quả này bắt nguồn từ việc tố tụng tranh tụng đề cao quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo và không có sự phân biệt đối xử giữa công tố viên và luật sư. Mặt khác, giai đoạn điều tra chỉ thực sự bắt đầu khi phiên toà tuyên bố khai mạc nên các bên còn rất nhiều cơ hội để bảo vệ quan điểm của mình đặc biệt là cơ hội sẽ rất rộng mở đối với bên bị buộc tội. Hồ sơ của cơ quan điều tra, bản luận tội của viện công tố chỉ được xem là một trong những bằng chứng sẽ được kiểm định tại phiên toà. Nếu bản luận 14