Luận văn Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_tranh_tung_tai_phien_toa_so_tham_vu_an_hinh_su_theo.pdf
Nội dung text: Luận văn Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ THỊ PHƢỚC HỊA TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ THỊ PHƢỚC HỊA TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60. 38. 01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THÁI PHÚC HÀ NỘI, năm 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng của tơi. Các số liệu, tài liệu được trích dẫn trong luận văn theo nguồn đã cơng bố. Kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Tác giả Võ Thị Phƣớc Hịa
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG VÀ PHIÊN TỊA SƠ THẨM TRANH TỤNG 9 1.1. Những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc tranh tụng 9 1.2. Phiên tịa sơ thẩm tranh tụng 26 CHƢƠNG 2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 LIÊN QUAN ĐẾN TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 35 2.1. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 liên quan đến tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm 35 2.2. Thực tiễn tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm của thành phố Đà Nẵng. 41 CHƢƠNG 3. CÁC NỘI DUNG MỚI CỦA BLTTHS NĂM 2015 VỀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT 61 3.1. Các nội dung mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm 61 3.2. Kiến nghị tiếp tục hồn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015về tranh tụng tại phiên tịa 74 3.3. Các giải pháp khác gĩp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm vụ án hình sự: 76 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLTT : Bộ luật tố tụng BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra HĐXX : Hội đồng xét xử NT : Nguyên tắc NTCB : Nguyên tắc cơ bản NTTT : Nguyên tắc tranh tụng TA : Tịa án TP : Thành phố TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VN : Việt Nam XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tịa án nhân dân hai 2.1. 43 cấp thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 đến năm 2016 Tổng hợp số liệu vụ án hình sự sơ thẩm của ngành Tịa án nhân 2.2. dân thành phố Đà Nẵng cĩ Luật sư tham gia từ năm 2012 đến 49 2016
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trước xu thế hội nhập và phát triển của đất nước, ngành tư pháp phải đối mặt với nhiều khĩ khăn, thách thức lớn và cũng đã đạt được nhiều kết quả, gĩp phần tích cực vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ lợi ích hợp pháp của tổ chức, cơng dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đĩng vai trị quan trọng trong cơng cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, chất lượng cơng tác tư pháp vẫn cịn bộc lộ nhiều bất cập, chưa ngang tầm với yêu cầu thực tế và địi hỏi của nhân dân. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thi hành pháp luật. Đặc biệt là trong cơng tác xét xử, vẫn cịn tình trạng làm oan người vơ tội, bỏ lọt tội phạm, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, làm giảm sút lịng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước Chính vì vậy, nhiệm vụ cải cách tư pháp là một nhu cầu thực tế khách quan đã được Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu. Một trong những mục tiêu của cải cách tư pháp là “bảo đảm tranh tụng dân chủ ở phiên tịa” trên cơ sở triết lý “Tịa án là trung tâm, xét xử là khâu đột phá và con người là yếu tố quyết định”. Chủ trương đúng đắn này của Đảng thể hiện rõ nét ở việc ban hành Nghị quyết số 08/NQ/TƯ ngày 02.01.2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của cơng tác tư pháp trong thời gian tới” nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cơng tác tư pháp, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Hồn thiện pháp luật tố tụng mà trong đĩ cĩ TTHS cũng là một trong những nhiệm vụ của cải cách tư pháp. Xây dựng và ban hành BLTTHS 2003 là nhằm thể chế hĩa những tư tưởng, mục tiêu của cải cách tư pháp. Trong quá trình xây dựng Dự thảo BLTTHS 2003 cĩ một số vấn đề cịn cĩ nhiều ý kiến khác nhau, một trong số đĩ là việc cĩ nên ghi nhận Tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của TTHS VN hay khơng? Đây là vấn đề được luận bàn sơi nổi trên các diễn đàn, thu hút sự chú ý của các nhà khoa học và những người làm cơng tác thực tiễn. Quan điểm thứ nhất, hồn tồn khơng thừa nhận sự “cĩ mặt” của nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật tố tụng hình sự, có tác giả phản đối bổ sung NTTT vào hệ thống các nguyên tắc vận hành của các cơ quan tiến hành tố tụng vì điều đó vượt qua khuôn khổ cải cách tư pháp và dẫn 1
- đến sự thay đổi việc phân định địa vị pháp lý giữa một chủ thể là người và cơ quan tiến hành tố tụng và một chủ thể khác là những người tham gia tố tụng Quan điểm khác lại cho rằng, tranh tụng mà Nghị quyết 08 đề cập là tranh tụng tại phiên toà chứ không phải là một kiểu tố tụng mà một số nước theo truyền thống luật án lệ (Common Law) đang áp dụng vì vậy không nên quy định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam; Theo quan điểm thứ ba dù BLTTHS chưa ghi nhận NTTT như là một nguyên tắc cơ bản nhưng tinh thần của nó được quy định rải rác ở một số điều trong Bộ luật, đồng thời kiến nghị cần chính thức ghi nhận nguyên tắc này trong Dự thảo BLTTHS năm 2003 (sửa đổi). Trong ba quan điểm trên thì quan điểm thứ nhất là phiến diện, phủ nhận hồn tồn về nguyên tắc tranh tụng ngay cả tên gọi, quan điểm thứ hai quan niệm nguyên tắc tranh tụng chính là mơ hình tranh tụng. Hai quan điểm này đều khơng chính xác. Chỉ cĩ quan điểm thứ ba là cĩ cơ sở lý luận và thực tiễn, bởi vì mặc dù BLTTHS chưa cĩ điều luật cụ thể nào ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc nhưng nội dung tranh tụng đã được thể hiện tản mạn ở nhiều điều luật của Bộ luật, trong đĩ đặc biệt là quy định về thủ tục xét xử tại phiên tịa. Hay nĩi cách khác là “hồn” của nó đã hiện diện trong các quy định của BLTTHS hiện hành mặc dù còn nhiều hạn chế cần được hoàn thiện [28]. Trên cơ sở đĩ, các nhà làm luật cần nghiên cứu bổ sung và phát triển để chính thức ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc trong tố tụng hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đảm bảo quyền con người, quyền cơng dân. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 được ban hành trên cơ sở kế thừa về cơ bản các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đồng thời bổ sung nhiều quy định ngày càng thể hiện rõ tư tưởng đề cao tranh tụng nhưng vẫn chưa chính thức ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc. Các quy định của BLTTHS năm 2003 đã tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu cho các chủ thể tham gia tố tụng trong vụ án hình sự nĩi chung và giai đoạn xét xử sơ thẩm nĩi riêng, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, bảo đảm tính minh bạch, khách quan trong tố tụng hình sự. Gĩp phần quan trọng trong cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm, gĩp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, tạo mơi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. 2
- Tuy nhiên, đánh giá tổng quan cho thấy Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, trong đĩ việc khơng ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là một thiếu sĩt lớn. Thực tiễn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cho thấy tình trạng vi phạm quyền bình đẳng trước Tịa án dẫn đến quyền của các chủ thể tham gia tranh tụng bị hạn chế. Một số thẩm phán cịn hạn chế thời gian trình bày lời bào chữa của bị cáo, của người bào chữa ; Việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa cịn chưa kịp thời Tình trạng phân định các chức năng tố tụng khơng rõ ràng, chồng chéo dẫn tới việc Hội đồng xét xử đơi khi cịn làm thay chức năng của Viện kiểm sát; Hội đồng xét xử cịn đặt ra những câu hỏi mang tính áp đặt buộc bị cáo khai đúng với những lời khai trước đĩ; Kiểm sát viên tại phiên tịa khơng đối đáp lại ý kiến của bị cáo, của người bào chữa, một số Kiểm sát viên cịn thụ động trong xét hỏi Về phía người bào chữa cũng chưa đáp ứng yêu cầu, một số trường hợp luật sư chưa đề cao trách nhiệm khi tham gia tố tụng, chưa thật sự đĩng vai trị phản biện nhất là các trường hợp được chỉ định bào chữa Chính sự “thiếu vắng” của nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã khơng cụ thể hĩa một cách đầy đủ vào trong từng điều luật để chi phối các hoạt động tố tụng trong tiến trình tố tụng, dẫn đến những bất cập trên. Do đĩ,“Khơng thừa nhận nguyên tắc tranh tụng là khơng thực hiện được nhiệm vụ luật hĩa tư tưởng về tranh tụng, về tranh luận dân chủ trong TTHS của Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị”, “Khơng thừa nhận NT tranh tụng là bỏ lỡ cơ hội để các cơ quan tiến hành tố tụng mà trước hết là cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS) phải tự đổi mới, hồn thiện để nâng mình lên trước sự đối trọng và phản biện tích cực từ bên bào chữa” [32]. Hiến pháp 2013 đã cĩ bước tiến mới trong thể chế hĩa những tư tưởng của CCTP liên quan đến hoạt động xét xử của Tịa án. Một trong những nội dung tiến bộ của Hiến pháp 2013 là ghi nhận “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (khoản 5 Điều 103). Việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2003 là nhằm thể chế hĩa những quy định mới tiến bộ của Hiến pháp 2013 liên quan đến hoạtđộng tư pháp. BLTTHS 2015 đã ghi nhận tranh tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, thể chế hĩa nguyên tắc hiến định tranh tụng khơng đơn giản chỉ là 3
- việc ghi nhận nĩ là nguyên tắc cơ bản mà địi hỏi nhà làm luật phải thể hiện những nội dung, tinh thần cơ bản của nguyên tắc này trong những điều luật cụ thể, nhất là trong những quy định liên quan đến phiên tịa sơ thẩm. Đây là một thách thức lớn đối với các nhà lập pháp.Mặc dù BLTTHS chưa được thi hành, chưa cĩ thực tiễn để kiểm nghiệm tuy nhiên ở gĩc độ lý luận chúng ta vẫn cĩ thể cĩ những nghiên cứu đánh giá về thành cơng hay hạn chế của BLTTHS 2015 trong việc thể chế hĩa nguyên tắc tranh tụng. Đây là lý do chọn lựa đề tài: “Tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để làm luận văn thạc sỹ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, đã cĩ rất nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề tranh tụng tại phiên tịa xét xử vụ án hình sự và các vấn đề liên quan đến tranh tụng như: - Luận án tiến sĩ luật học của TS. Nguyễn Đức Mai về “Vấn đề tranh tụng trong TTHS” (2004). - Luận văn thạc sĩ luật học của Ths. Nguyễn Mai Chi về “Tranh luận tại phiên tịa theo yêu cầu cải cách tư pháp” (2011). - Luận văn thạc sĩ luật học của Ths. Đỗ Trung Hiếu về “Tranh tụng trong TTHS qua thực tiễn Quảng Nam” (2013). - Luận văn thạc sĩ luật học “Thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm” của Nguyễn Hải Ninh (2003); - Cơng trình nghiên cứu về “Về nguyên tắc tranh tụng trong TTHS” của TS. Nguyễn Văn Hiển do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật xuất bản năm 2011. - Luận văn thạc sĩ luật học “Tranh tụng tại phiên tịa theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Bùi Thị Hà (2010). - “Hồn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 liên quan đến tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm - cơ sở lý luận và thực tiễn” đề tài khoa học cấp cơ sở TAND tối cao (2011), Chủ nhiệm - TS. Nguyễn Đức Mai. - Nguyễn Thái Phúc (2009)“Mơ hình tố tụng hình sự pha trộn”, Tài liệu hội thảo khoa học mơ hình luật tố tụng hình sự Việt nam, Tịa án nhân dân Tối cao, Hà Nội. 4
- Ngồi ra, cịn cĩ nhiều bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành về các vấn đề cĩ liên quan đến tranh tụng tại phiên tịa hình sự như:“Vai trị của Hội đồng xét xử trong việc tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự” của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Tịa án nhân dân (2004); bài viết:“Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2008; “Một số kiến nghị gĩp phần thực hiện cĩ hiệu quả nguyên tắc tranh tụng tại phiên tịa hình sự” của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng, Tạp chí Tịa án nhân dân (2014); “Bản chất của tranh tụng tại phiên tịa”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4/2004 của PGS.TS Trần Văn Độ; “Mơ hình tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của PGS.TS nguyễn Thái Phúc, Tạp chí khoa học pháp luật số 5 (42)/2007; “Nguyên tắc tranh tụng và Dự thảo Bộ luật TTHS 2003”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật tháng 9/2003 của TS. Nguyễn Thái Phúc; “Hồn thiện hệ thống các nguyên tắc cơ bản” của PGS. TS Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Khoa học pháp lý của Đại học luật TP Hồ Chí Minh; “Đổi mới phiên tịa sơ thẩm nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của PGS. TS Nguyễn Thái Phúc; “Giới hạn xét xử trong BLTTHS năm 2003” của PGS. TS Nguyễn Thái Phúc Các cơng trình nghiên cứu trên đây đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề về lý luận, khái niệm tranh tụng, phạm vi và nội dung của nĩ; các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh tụng cũng như các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tranh tụng của các chủ thể tại phiên tịa; và cũng đã đề cập đến một số giải pháp, phương hướng nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng theo tinh thần cải cách tư pháp. Tuy nhiên, chưa cĩ cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu về tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, hoặc nếu cĩ thì cũng ở một gĩc độ, khía cạnh khác, nhất là vào thời điểm Đảng và Nhà nước đã cĩ nhiều sự thay đổi về chính sách pháp luật như hiện nay. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu về “tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” cĩ ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là một đề tài khơng trùng với bất cứ một cơng trình nghiên cứu hay một đề tài nào đã được cơng bố. Với cách tiếp cận riêng của mình, tác giả đi sâu nghiên cứu về tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình 5
- sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thơng qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 đến năm 2016 trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là phân tích làm rõ hơn những vấn đề lý luận về tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm; Đánh giá thực trạng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và 2015 về tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm và thực tiễn áp dụng các quy định này tại Đà Nẵng; Đưa ra những kiến nghị hồn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm và các giải pháp khác để nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hạn chế oan, sai, bỏ lọt tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau: - Cần phải làm rõvấn đề nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự, mối quan hệ của nguyên tắc này với các nguyên tắc cơ bản khác. Ý nghĩa, vai trị? Nội dung của nguyên tắc tranh tụng? Nguyên tắc tranh tụng và phiên tịa sơ thẩm. - Phân tích, đánh giá các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về hoạt động tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm; - Trên cơ sở thơng tin, số liệu thu thập được từ thực tiễn xét xử của Tịa án cấp sơ thẩm tại thành phố Đà Nẵng, đánh giá tình hình áp dụng pháp luật tố tụng về hoạt động tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm. Từ đĩ đưa ra những kiến nghị để từng bước hồn thiện pháp luật tố tụng và các giải pháp khác nâng cao hiệu quả của việc tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm đối với các chủ thể tham gia tố tụng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật và hoạt động tranh tụng của các chủ thể tham gia tố tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ở thành phố Đà Nẵng. 6
- 4.2. Phạm vi nghiên cứu Tranh tụng là vấn đề lý luận cĩ phạm vi rất rộng, thể hiện ở nhiều giai đoạn khác nhau của Tố tụng hình sự. Vì vậy, trong phạm vi luận văn của một thạc sỹ khơng thể đề cập nghiên cứu hết mọi vấn đề mà chỉ tập trung và giới hạn nghiên cứu sự thể hiện của nguyên tắc tranh tụng ở phiên tịa xét xử sơ thẩm. Về các quy định của pháp luật: chỉ giới hạn phân tích, đánh giá Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; và chỉ giới hạn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm ở hai cấp Tịa án của Đà Nẵng trong thời gian từ 2012 đến 2016. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của học thuyết Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về cải cách tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích tổng hợpđể làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Ngồi ra, cịn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp tranh thủ ý kiến chuyên gia Với sự tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu luận văn sẽ làm sáng tỏ và hệ thống, tổng hợp được các vấn đề lý luận cơ bản cũng như các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, gĩp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên tịa; đánh giá thực tiễn tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ở Đà Nẵng. Thơng qua đĩ sẽ xác định rõ ràng hơn địa vị pháp lý, quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hoạt động tranh tụng tại phiên tịa ;xác định được những nguyên nhân, hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm từng bước hồn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sựvà các giải pháp khác nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng của các chủ thể tham gia tố tụng tại phiên tịa sơ thẩm. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn là tài liệu để các cơ sở đào tạo, nghiên cứu pháp luật sử dụng làm tài 7
- liệu tham khảo trong quá trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy; 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Những ý kiến đĩng gĩp của Luận văn cĩ thể được vận dụng trong thực tiễn tại các phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tịa án, nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tịa theo tinh thần cải cách tư pháp. 7. Cơ cấu của luận văn Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm cĩ 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc tranh tụng và phiên tịa sơ thẩm tranh tụng. Chương 2: Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 liên quan đến tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm và thực tiễn tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm của thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Các nội dung mới của BLTTHS năm 2015 về hoạt động tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm và một số kiến nghị, đề xuất. 8
- CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG VÀ PHIÊN TỊA SƠ THẨM TRANH TỤNG 1.1. Những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc tranh tụng 1.1.1. Tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của TTHS + Khái niệm về nguyên tắc cơ bản của TTHS: Cĩ nhiều quan điểm đưa ra khái niệm về nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam với nhiều cách tiếp cận khác nhau: PGS. TS. Phạm Hồng Hải đưa ra định nghĩa “Nguyên tắc tố tụng hình sự Việt Nam là những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hồ Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về quá trình giải quyết vụ án hình sự đã được thể chế hố trong BLTTHS mà các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi cơng dân phải tuân theo” [14]. GS. TS Đào Trí Úc thì cho rằng: Nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng và quan điểm chủ đạo được thể chế hĩa bằng pháp luật, cĩ ý nghĩa quyết định đối với việc xác định và thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự và các quan hệ tố tụng hình sự, đối với các hình thức và phương pháp thực hiện những hoạt động và quan hệ đĩ [54]. Mỗi cách tiếp cận trên đều cĩ hạt nhân hợp lý làm cơ sở cho quan niệm của mình. Tuy nhiên, nhìn chung các quan niệm trên đều theo xu hướng nhấn mạnh tính chủ quan của các nguyên tắc cơ bản tức là thể hiện tư tưởng chủ đạo của các nhà lập pháp [32]. Ở gĩc độ khách quan hơn, PGS. TS Nguyễn Thái Phúc đưa ra khái niệm nguyên tắc cơ bản của luật TTHS như sau: nguyên tắc cơ bản của luật TTHS là những quy luật khách quan của hoạt động TTHS được ghi nhận trong các quy phạm của luật và được thể hiện dưới hình thức những tư tưởng pháp lý - chính trị chủ đạo cĩ vai trị nền tảng và định hướng cho tồn bộ hoạt động TTHS, là cốt lõi cấu trúc các giai đoạn tố tụng, các chế định TTHS và thể hiện những thuộc tính đặc trưng, bản chất của hoạt động TTHS [32]. Xét về lý luận và thực tiễn thì quan điểm trên là phù hợp. Bởi vì, thực ra, các nguyên tắc cơ bản của TTHS là những quy luật khách quan được xây dựng trên cơ sở, 9
- đúc kết kinh nghiệm của quá trình giải quyết các vụ án hình sự và kết quả nghiên cứu khoa học pháp lý tố tụng hình sự nên các nguyên tắc của tố tụng hình sự phản ánh quy luật phát triển khách quan của quá trình đấu tranh chống tội phạm, giải quyết vụ án hình sự, nĩ tồn tại khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của bất kỳ ai. Những quy luật khách quan đĩ được xây dựng thành những nguyên tắc của Tố tụng hình sự thơng qua sự nhận thức của những con người cụ thể, đĩ là sự nhận thức chủ quan đối với các quy luật khách quan. Đây chính là một trong những thuộc tính quan trọng – thuộc tính chủ quan của NTCB của TTHS.Vì vậy, việc nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan của quá trình giải quyết các vụ án hình sự để quy định thành nguyên tắc của TTHS là rất quan trọng. Điều này phụ thuộc vào khả năng nhận thức của các nhà lập pháp. Nếu nhận thức đúng thì sẽ đưa ra được những nguyên tắc đúng đắn, ngược lại nếu nhận thức khơng đúng đắn các quy luật khách quan thì cĩ thể đưa ra những nguyên tắc sai lầm, lạc hậu. Kết quả của sự nhận thức các quy luật khách quan đĩ phải được ghi nhận vào trong văn bản luật – cĩ tính quy phạm thì mới trở thành các nguyên tắc cơ bản và các chủ thể bắt buộc phải tuân thủ, vi phạm các nguyên tắc của TTHS cũng phải được xem là căn cứ để hủy các quyết định tố tụng và vơ hiệu các hành vi tố tụng. Cĩ nhiều cách thể hiện nguyên tắc cơ bản trong luật tùy thuộc vào kỹ thuật lập pháp và nhận thức của nhà làm luật. Cách thể hiện thơng thường là nguyên tắc cơ bản được ghi nhận bằng một điều luật cụ thể ở ngay phần “các nguyên tắc cơ bản” hoặc là “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng hình sự, cĩ trường hợp luật chỉ ghi nhận nguyên tắc cơ bản bằng tên gọi nhưng khơng thể hiện nội dung cụ thể của nguyên tắc đĩ, sau đĩ mới cụ thể hĩa, thể hiện nội dung của nĩ trong các điều luật cụ thể tiếp theo. Trường hợp khác, luật khơng chính thức ghi nhận nguyên tắc cơ bản ở một điều luật cụ thể nào nhưng nội dung chính của nĩ được thể hiện, ghi nhận trong nhiều điều khác của luật. Ngồi ra, khi cĩ xung đột giữa các quy phạm pháp luật, hoặc trong thực tiễn cĩ những vấn đề luật chưa quy định rõ ràng, khĩ áp dụng thì các nguyên tắc cơ bản của TTHS cịn cĩ vai trị là “kim chỉ nam” để các chủ thể vận dụng giải quyết. Các NTCB của TTHS là nền tảng của ngành luật này đồng thời cũng cĩ mối quan hệ qua lại với các lĩnh vực, các chế định, các quy phạm pháp luật với nhau. Các nguyên tắc của TTHS cĩ thể thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của xã hội, sẽ mất đi nguyên tắc này và xuất hiện thêm những nguyên tắc khác, các nguyên tắc cịn tồn tại cĩ thể sẽ 10
- được sửa đổi bổ sung làm phong phú thêm về nội dung và hình thức biểu hiện. Sự thay đổi, bổ sung này phản ánh sự nhận thức linh hoạt, tích cực, tiến bộ của các nhà lập pháp trong quá trình nhận thức và thể hiện các quy luật khách quan. + Khái niệm về NT tranh tụng – nguyên tắc cơ bản của TTHS VN: Hiện nay cĩ nhiều quan điểm nhìn nhận về “tranh tụng” dưới nhiều gĩc độ khác nhau như: Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) cĩ quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm, lợi ích của phía bên đối lập; Tranh tụng là một quy luật khách quan của tố tụng nĩi chung, của tố tụng hình sự nĩi riêng. Nĩi đến hoạt động TTHS là nĩi đến hoạt động cĩ tính tranh tụng”. Ở gĩc độ này tranh tụng được nhìn nhận như một nguyên tắc cơ bản của TTHS; Hoặc tranh tụng được hiểu là mơ hình (kiểu, hệ) tố tụng của các nước theo hệ thống luật Anh – Mỹ. Mỗi cách hiểu trên đều tiếp cận “tranh tụng” ở một gĩc độ khác nhau, trong phạm vi đề tài này tác giả cần làm rõ tranh tụng cĩ phải là nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt nam hay khơng? Từ việc nghiên cứu về nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự ta cĩ thể thấy rằng tranh tụng hội đủ các yếu tố của một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự nên tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Bởi vì, nĩ là một quy luật khách quan, tồn tại khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà làm luật. Trong bất kỳ mơ hình tố tụng nào, ở thời đại lịch sử nào thì trong TTHS luơn tồn tại các chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử, các chức năng này cĩ mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Cĩ buộc tội thì sẽ xuất hiện “nhu cầu” bào chữa, các chủ thể cĩ quyền và lợi ích đối lập sẽ tiến hành đối chất, tranh tụng với nhau để bảo vệ quan điểm của mình, phủ định phản bác lại quan điểm của bên đối lập. Bên buộc tội và bên bào chữa là hai bên đối lập nhau. Chính sự đối lập của hai bên làm xuất hiện nhu cầu tranh tụng trong tố tụng hình sự và địi hỏi phải cĩ một vị trọng tài khơng thiên vị để xét xử đĩ là Tịa án. Như vậy, cho dù cĩ được ghi nhận hay khơng ghi nhận thành quy phạm pháp luật thì tranh tụng vẫn tồn tại trong tố tụng hình sự một cách khách quan. Mặc dù tranh tụng tồn tại khách quan nhưng nĩ là kết quả của sự nhận thức quy luật khách quan nên nĩ cũng chịu sự chi phối của yếu tố chủ quan.Việc phản ánh quy 11
- luật khách quan đĩ như thế nào tùy vào khả năng nhận thức của nhà làm luật và điều kiện xã hội cụ thể, như: điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hố của từng quốc gia, từng giai đoạn lịch sử. Ví dụ như trước đây, các nhà làm luật của chúng ta chưa nhận thức đầy đủ về nguyên tắc tranh tụng như là quy luật khách quan nên chưa ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc nhưng đến thời điểm hiện nay khi mà kinh tế - xã hội phát triển theo xu thế hội nhập, nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp diễn ra mạnh mẽ thì sự nhận thức về tranh tụng đã cĩ nhiều tiến bộ, nhận thức đầy đủ hơn về sự cần thiết phải tăng cường dân chủ, bình đẳng về quyền, đảm bảo tốt hơn các quyền cơ bản của cơng dân, đặc biệt là quyền con người trong tố tụng hình sự Vì vậy, Hiến pháp 2013 đã chính thức ghi nhận nguyên tắc tranh tụng. Nguyên tắc tranh tụng là một trong những tư tưởng chủ đạo, cĩ tính định hướng và chi phối quá trình TTHS. Trong đĩ hoạt động tranh luận, phản bác, phủ định lẫn nhau giữa các chủ thể cĩ quyền và lợi ích đối lập trong khuơn khổ pháp luật dưới sự trọng tài, phân xử của Tịa án. Do đĩ, muốn cĩ được kết quả xét xử cơng minh, đúng pháp luật, “khơng để lọt tội phạm, khơng làm oan người vơ tội”, Tịa án phải căn cứ vào các chứng cứ khách quan được thu thập trong quá trình tố tụng. Quá trình tố tụng ở đây bao hàm cả giai đoạn trước phiên tịa (điều tra, truy tố) và tại phiên tịa. Ngay cả ở giai đoạn tố tụng trước phiên tịa, nguyên tắc tranh tụng cũng được coi là một phương tiện hữu hiệu để thu thập, phân tích và đánh giá chứng cứ bởi lẽ thơng qua tranh tụng, cĩ thể tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Ở giai đoạn tại phiên tịa, với vai trị trung tâm Tịa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tịa để đưa ra phán quyết cuối cùng. Ngồi ra, tranh tụng cịn cĩ tính chất liên ngành, tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác như: Tố tụng Dân sự, lao động, tố tụng hành chính Như vậy, tranh tụng hội đủ các đặc điểm cơ bản của một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự nên tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Từ đĩ ta cĩ thể kết luận, nguyên tắc tranh tụng là một trong những quy luật khách quan của hoạt động tố tụng hình sự, được ghi nhận trong các quy phạm của Luật tố tụng hình sự và thể hiện dưới dạng tư tưởng chủ đạo, định hướng cho hoạt động tố tụng hình sự, tồn tại khách quan và chi phối tồn bộ quá trình tố tụng nhằm đảm bảo cơng bằng, dân chủ và khách quan trong hoạt động TTHS, bảo đảm các 12
- quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Trong đĩ các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử độc lập với nhau. Bên buộc tội và bên bào chữa bình đẳng trước Tồ án; bên buộc tội và bên bào chữa cĩ quyền bình đẳng trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu, xét hỏi và tranh tụng dân chủ trước Tồ án; nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội, bên bào chữa cĩ quyền nhưng khơng cĩ nghĩa vụ phải chứng minh sự vơ tội của mình. Tồ án giữ vai trị trọng tài bảo đảm cho các bên buộc tội và gỡ tội tranh tụng bình đẳng với nhau để tìm ra sự thật khách quan của vụ án; bản án, quyết định của Tồ án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tồ. + Vai trị, ý nghĩa của NT tranh tụng: Vai trị của nguyên tắc tranh tụng: Tranh tụng cĩ vai trị rất quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự. Nguyên tắc tranh tụng khơng chỉ bảo đảm tính dân chủ, cơng bằng giữa các bên tranh tụng, mà kết quả tranh tụng là căn cứ để các bên xác định sự thật khách quan của vụ án. Nguyên tắc tranh tụng thể hiện trong tất cả các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án đến khi bản án, quyết định của Tịa án cĩ hiệu lực pháp luật nhưng rõ nét nhất là trong giai đoạn xét xử tại tịa. Là phương tiện hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào tiến trình TTHS, thực hiện đầy đủ và đúng đắn các chức năng của mình. Một số học giả cịn cho rằng, tranh tụng chính là cơng cụ quan trọng nhất để xác định sự thật khách quan của vụ án. Hình thức tranh tụng giúp cho các bên tranh tụng kiểm tra từng chứng cứ, từng chi tiết của vụ án ở cả hai gĩc độ buộc tội và gỡ tội. Nhờ đĩ Tịa án cĩ thể nghiên cứu, đánh giá tất cả những gì mà bên buộc tội khẳng định cũng như tất cả những gì mà bên gỡ tội phản bác. Trên cơ sở đĩ xác định đúng người phạm tội để trừng trị đồng thời khơng làm oan người vơ tội, làm tiền đề cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Hơn nữa, nguyên tắc tranh tụng cịn liên quan chặt chẽ đến các nguyên tắc khác của TTHS đặc biệt là các nguyên tắc như suy đốn vơ tội, quyền cĩ người bào chữa của bị cáo và xác định sự thật khách quan của vụ án “Các nguyên tắc này tác động qua lại với nhau và là điều kiện bảo đảm cho nhau cũng như tồn bộ tiến trình TTHS” [7]. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng: Về mặt triết học: tranh tụng được hiểu như là quá trình vận động của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập [18]. Khi xuất hiện chức năng buộc tội 13