Luận văn Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn Thành phố Hà Nội

pdf 80 trang vuhoa 25/08/2022 9401
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_tranh_tung_cua_luat_su_tai_phien_toa_hinh_su_so_tha.pdf

Nội dung text: Luận văn Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn Thành phố Hà Nội

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG VĂN CƯỜNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc Hà Nội, 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Đặng Văn Cường
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .1 Chương 1: TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM .8 1.1.Lý luận chung về tranh tụng 8 1.2.Phiên tòa sơ thẩm và nguyên tắc tranh tụng 16 1.3. Luật sư – Chủ thể tham gia tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm 23 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI 28 2.1 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự 28 2.2 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về hoạt động của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm 30 2.3 Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về hoạt động của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm ở thành phố Hà Nội 41 CHƯƠNG 3: BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA SƠ HÌNH SỰ THẨM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ 56 3.1 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về hoạt động của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm 56 3.2 Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 điều chỉnh tranh tụng của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm 64 KẾT LUẬN 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
  4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự BLHS Bộ luật hình sự ĐTV Điều tra viên HĐXX Hội đồng xét xử KSV Kiểm sát viên NBC Người bào chữa NBV QVLIHP Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng VAHS Vụ án hình sự XXST Xét xử sơ thẩm
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định: Trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cơ quan, tổ chức và công dân [60]. Sau mười hai năm áp dụng, BLTTHS năm 2003 đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng để các chủ thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã có không ít những khó khăn, bất cập gây cản trở cho các chủ thể tố tụng hình sự (TTHS), gây ra những khó khăn đối với những người tham gia tố tụng, trong đó có luật sư, nguyên tắc tranh tụng chưa được ghi nhận chính thức, chưa được tôn trọng dẫn đến nhiều vụ án xuất hiện sự áp đặt ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng đến kết quả giải quyết vụ án, là nguyên nhân dẫn tới oan sai. BLTTHS năm 2003 còn nhiều bất cập trong các quy định của pháp luật và trong thực tiễn thực hiện các quy định liên quan đến các vấn đề như: Việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; quyền nhờ người khác bào chữa của bị can, bị cáo; địa vị pháp lý của người bào chữa; thủ tục; thủ tục cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa; vai trò của luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ; việc tranh tụng của luật sư tại phiên tòa Chưa đảm bảo được các nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự dẫn đến vai trò trung tâm của tòa án chưa được phát huy, địa vị tố tụng của người bào chữa chưa được thể hiện đầy đủ vị thế là một bên – Bên gỡ tội đó là những 1
  6. nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ án oan, sai xảy ra, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Hiện nay, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được Quốc hội thông qua nhưng chưa có hiệu lực áp dụng. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã lần đầu tiên ghi nhận “tranh tụng” là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, đồng thời đã có một số sửa đổi, bổ sung làm nền tảng cơ sở pháp lý, đảm bảo tốt hơn việc tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng và của người bào chữa trong quá trình tham gia tố tụng vụ án hình sự nói chung. Tuy nhiên, vẫn còn những vướng mắc tồn tại trong BLHS năm 2003 chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời khiến nguyên tắc tranh tụng của luật sư trong phiên tòa chưa có điều kiện phát huy trên thực tế, chưa đảm bảo tính dân chủ, bình đẳng trong các bên tham gia tranh tụng đó là các nguyên nhân dẫn đến chưa đảm bảo tính đúng đắn trong việc giải quyết vụ án hình sự. Vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là BLTTHS nói riêng cũng như pháp luật về tư pháp hình sự nói chung phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, tiến bộ xã hội, tạo hành lang pháp lý minh bạch hơn, khả thi hơn cho các chủ thể tham gia tố tụng thực quyền của mình cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Ngoài ra, cần có những cơ chế, giải pháp cụ thể đảm bảo được nguyên tắc tranh tụng, để người bào chữa được thực hiện quyền bào chữa một cách tích cực, đầy đủ đảm bảo hoạt động bào chữa trong vụ án hình sự có hiệu quả góp phần bảo vệ công lý, giảm bớt những oan sai, tiêu cực trong hoạt động tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên tòa, vai trò của luật sư, về địa vị pháp lý của luật sư khi tham gia tố tụng trong VAHS, như: TS. LS Phan Trung Hoài: "Hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam", Nxb Tư pháp, 2006; TS. 2
  7. Nguyễn Văn Tuân: "Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001; TS. Nguyễn Văn Tuân: "Thực trạng tranh tụng và vấn đề nâng cao vai trò của luật sư trong tranh tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 3/2010; Hoàng Thị Sơn: "Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự", Luận án tiến sĩ luật học; Hồ Sĩ Sơn: "Những đảm bảo hiệu quả của hoạt động bào chữa trong tố tụng hình sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 150, tháng 10/2000; Thu Tâm - Hồng Phong: "Vấn đề tranh tụng và vai trò của luật sư", Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, số ra ngày 14/10/2002; Ngô Thị Ngọc Vân: "Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự", Luận văn thạc sĩ luật học, năm 2004 Các công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên đã thể hiện được tương đối rõ nét về địa vị pháp lý, vai trò, hoạt động tranh tụng của luật sư trong VAHS và rất hữu ích trong quá trình nghiên cứu, học tập, áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Tuy nhiên, do biến chuyển của thời gian và thực tế tình hình áp dụng pháp luật có nhiều thay đổi, thực trạng sự tham gia của luật sư vào các VAHS, vai trò tranh tụng của luật sư trong các vụ án cũng có những chuyển biến, cùng với những thay đổi trong chính sách hình sự của nước ta nên cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về thực trạng tranh tụng của luật sư ở giai đoạn XXST VAHS để từ đó chỉ ra những bất cập, nguyên nhân của những hạn chế và đề xuất những giải pháp để khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng của luật sư. Việc tiếp tục nghiên cứu về hoạt động tranh tụng của luật sư trong vụ án hình sự là thực sự cần thiết để đảm bảo dân chủ, công bằng, khách quan trong tố tụng và để giảm thiếu những oan sai không đáng có trong các vụ án hình sự. 3
  8. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Để hoàn thành đề tài "Tranh tụng của luật sư trong phiên tòa hình sự sơ thẩm, từ thực tiễn thành phố Hà Nội", luận văn xác định các mục đích nghiên cứu cơ bản như sau: - Mục đích chính của luận văn là phân tích, đánh giá một cách toàn diện vào có hệ thống về lý luận, các quy định của pháp luật cũng như quá trình tranh tụng của luật sư trong phiên tòa hình sự sơ thẩm, thông qua thực tiễn thành phố Hà Nội hiện nay. - Kiến nghị các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc soạn thảo và ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật để phù hợp với tình hình thực tiễn và dần dần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực này; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định đó, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự, góp phần giải quyết nhanh chóng, chính xác, công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trên cơ sở các mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ của luận văn là phải: - Khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động tranh tụng của luật sư trong tố tụng hình sự; - Phân tích các quy định của pháp luật về hoạt động tranh tụng của luật sư trong phiên tòa hình sự sơ thẩm; - Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan và hoạt động tranh tụng của luật sư trong phiên tòa hình sự sơ thẩm trên cơ sở các số liệu cụ thể tại thành phố Hà Nội. Từ đó thấy được những hạn chế, cũng như các thuận lợi, khó khăn của luật sư khi tham gia tố tụng, tranh tụng tại phiên tòa hình sự, làm cơ sở cho việc đề xuất ban hành, sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật liên quan. 4
  9. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm hai nhóm đối tượng sau: - Nghiên cứu các vấn đề về lý luận, các quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Liên hệ so sánh giữa các quy định hiện hành và các quy định được ban hành trước đây có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận văn. - Nghiên cứu thực tiễn của việc thi hành pháp luật, về hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. * Phạm vi nghiên cứu: Trong giai đoạn XXST VAHS, luật sư có thể tham gia tranh tụng tại phiên tòa hình sự với nhiều tư cách, như: người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trong phạm vi luận văn này, tác giả đề cập, nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh hoạt động tranh tụng của luật sư với tư cách là người bào chữa và với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại trong vụ án hình sự, tập trung thể hiện tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; đánh giá tình hình thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan trong thực tiễn tranh tụng tại tòa án, đồng thời, tìm ra các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về mặt lập pháp cũng như việc nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của luật sư. Trong khuôn khổ của luận văn, các thông tin, số liệu được lấy từ nguồn thống kê trong những năm gần đây từ 2011- 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước 5
  10. pháp quyền, về chính sách hình sự, về phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư pháp Để thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp như phân tích tổng hợp, lịch sử, thống kê, đối chiếu, so sánh 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn có thể có những đóng góp về mặt lý luận đối với hoạt động tranh tụng của luật sư trong VAHS nói chung và trong phiên tòa XXST VAHS nói riêng. Bên cạnh đó, luận văn còn chỉ ra được những hạn chế trong thực tiễn tham gia tranh tụng của luật sư trong VAHS, nguyên nhân của sự hạn chế đó và đề ra được những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng của luật sư, vai trò và vị thế của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự. Luận văn là sự tổng hợp những vấn đề chung nhất về lý luận cũng như thực tiễn việc tranh tụng của luật sư trong phiên tòa hình sự sơ thẩm với tư cách là người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại, thể hiện được nhiều điểm mới cơ bản so với các nghiên cứu trước đây, như: - Tổng hợp được các vấn đề lý luận về tranh tụng trong tố tụng hình sự; về hoạt động tranh tụng của luật sư trong tố tụng hình sự; về địa vị pháp lý, quyền, nghĩa vụ của luật sư trong việc thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ; về hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự sơ thẩm - Đánh giá được thực trạng, đưa ra được những nguyên nhân, hạn chế và đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự. 6
  11. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 c hương : Chương 1: TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM. Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003 VỀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI. Chương 3. BLTTHS NĂM 2015 VỀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT. 7
  12. Chương 1 TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM 1.1. Lý luận chung về tranh tụng Vấn đề tranh tụng không phải là vấn đề mới, nhưng cho đến nay vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau. Người ta thường đề cập đến nguyên tắc tranh tụng, kiểu tố tụng tranh tụng, mô hình tranh tụng, hệ thống tranh tụng lý giải vấn đề tranh tụng từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra một khái niệm cụ thể tranh tụng là gì. Trong một số tài liệu, người ta thường đề cập đến hệ thống tranh tụng (Adversarial System). Theo từ gốc tranh tụng trong tiếng Anh là “Adversarial” có nghĩa là “đối kháng”, “đương đầu”. Như vậy về bản chất tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội) mà giai đoạn đương đầu tại tòa án (tại phiên tòa) là trung tâm, là chính. Sự ra đời và phát triển của khái niệm tranh tụng trong tố tụng gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tranh tụng không chỉ là thành tựu pháp lý đơn thuần, mà cao hơn nó là thành tựu của sự phát triển tư tưởng, của nền văn minh nhân loại. Trong xã hội hiện đại, ở các nước dù có tổ chức hệ thống tư pháp khác nhau, dù là hệ thống án lệ (common law), hệ thống luật lục địa (legal law) hay hệ thống luật xã hội chủ nghĩa, thì ít hay nhiều và bằng các thể hiện khác nhau, trong hệ thống tranh tụng đều có yếu tố tranh tụng [13, tr3]. Tuy nhiên, để biến “tranh tụng” trở thành một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, để vận dụng những hạt nhân hợp lý của nó và hoàn cảnh của mỗi nước thì cần có sự nghiên cứu, vận dụng phù hợp. Ở Việt Nam, vấn đề tranh tụng đã được đề cập nhiều năm trở lại đây nhưng đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm tranh tụng. Trước đây, có quan niệm cho rằng tranh tụng là nguyên tắc đặc trưng của 8
  13. TTHS tư sản nên vấn đề này không được áp dụng trong tổ chức và hoạt động tư pháp ở nước ta. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, tranh tụng không được thừa nhận và thuật ngữ “tranh tụng” cũng chưa bao giờ được dùng trong các văn bản pháp luật của nước ta. Những năm gần đây, một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành đề cập về vấn đề này ở những mức độ nhất định và với rất nhiều quan điểm khác nhau. Sau khi có Nghị quyết số 08/2002/NQ- TW của Bộ Chính trị, có Hiến pháp 2013, và trong quá trình xây dựng Bộ luật TTHS sửa đổi hiện nay, vấn đề tranh tụng mới được đưa ra bàn luận sôi nổi. Tranh tụng được đề cập chính thức trong nội dung Nghị quyết 08/2002/NQ- TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị như là tư tưởng chỉ đạo trong quá trình hoàn thiện các thủ tục TTHS Việt Nam hiện nay. Tiếp đến, Nghị quyết số 49/2005/NQ-BCT ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định rõ mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Vậy thế nào là tranh tụng và vấn đề tranh tụng được đề cập trong Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 49 -NQ/TW của Bộ Chính trị cần được hiểu như thế nào cho đúng. Có ý kiến cho rằng, cần xác định tranh tụng như một nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam, có ý kiến đề nghị chuyển mô hình tố tụng hình sự ở nước ta sang mô hình tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên, nhiều ý kiến lại cho rằng, yêu cầu tăng cường tranh tụng được nêu trong Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49 -NQ/TW của Bộ Chính trị không nên hiểu là yêu cầu thay đổi hệ thống tố tụng (từ hệ thống tố tụng thẩm vấn chuyển sang hệ thống tố tụng tranh tụng), mà cần phải đựơc hiểu là yêu cầu cần phải tăng cường khả năng tranh luận dân chủ giữa các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho việc xét xử 9
  14. đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chúng ta có thể xem xét khái niệm “tranh tụng” dưới hai góc độ là: Tranh tụng là mô hình tố tụng hình sự và tranh tụng là nguyên tắc của tố tụng hình sự để hiểu rõ hơn về khái niệm này. 1.1.1. Tranh tụng là mô hình tố tụng hình sự Xuất phát từ truyền thống lịch sử, văn hoá và trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia mà hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống tư pháp hình sự ở mỗi nước được tổ chức rất khác nhau. Tuy nhiên, căn cứ vào các dấu hiệu chung nhất có thể phân thủ tục xét xử các vụ án hình sự ở các nước trên thế giới thành hai hệ tố tụng cơ bản: Tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn (xét hỏi), ngoài ra còn có Tố tụng pha trộn (Việt Nam đang áp dụng mô hình TTHS pha trộn nghiêng về thẩm vấn). Cả hai hệ tố tụng này đều có mục đích cơ bản là tìm ra sự thật và hoạt động theo nguyên tắc "kẻ có tội phải bị trừng phạt, người vô tội phải được tự do”. Điểm khác biệt giữa chúng là ở sự giả định về cách thức tốt nhất để tìm ra sự thật. Tố tụng tranh tụng (hình thành từ kiểu "xét xử bằng phép thử tội qua cuộc đấu”) được sử dụng đầu tiên ở nhà nước Hy Lạp cổ đại, sau đó được áp dụng ở La Mã và phổ biến sang một số nước Châu âu trong thời kỳ trung cổ (Thế kỷ 10 - 13). Ngày nay, mô hình tố tụng tranh tụng được áp dụng ở nhiều nước nhưng chủ yếu ở các nước thuộc hệ thống luật án lệ (như Mỹ, Anh, Úc, Singapo, ) với mức độ và phạm vi khác nhau tuỳ thuộc vào quan niệm và truyền thống của mỗi nước. Tuy nhiên, có thể rút ra một số đặc điểm chung của mô hình tố tụng này, cụ thể sau đây: - Tố tụng tranh tụng cho rằng, sự thật sẽ được mở ra thông qua sự tranh luận (cuộc tranh đấu) tự do và cởi mở giữa hai bên (một bên là Nhà nước và bên kia là nguời bị buộc tội) có các dữ kiện chính xác về vụ việc. Tố tụng tranh tụng đề cao luật hình thức (thủ tục tố tụng) hơn luật nội dung (hay nói cách khác là trọng chứng hơn trọng cung). Thủ tục tố tụng tại phiên toà được thực hiện công khai, bằng miệng và tuân thủ triệt để nguyên tắc tranh tụng. 10
  15. Mọi chứng cứ viết (như biên bản của cảnh sát tư pháp) đều không được công nhận là chứng cứ. Bên buộc tội và bên bào chữa tham gia phiên tòa với tư cách là hai đối thủ có trách nhiệm chứng minh về sự có tội hay vô tội của bị cáo. Mỗi bên đều bình đẳng với nhau trong việc sử dụng pháp luật (đặc biệt là các quy tắc tố tụng và các quyền năng tố tụng) để có thể đạt được ưu thế của mình trước bên đối phương. - Tố tụng tranh tụng không có giai đoạn điều tra, mọi chứng cứ hoàn toàn do các bên tự thu thập và chỉ được đưa ra tranh luận tại phiên xét xử. Bên buộc tội và bên bào chữa sử dụng quyền kiểm tra chéo đối với người làm chứng để xác định tính trung thực hay sự thiên vị trong các lời khai của họ (chỉ ra cái mà người làm chứng biết thực chứ không phải cái mà họ nghĩ rằng họ biết). Vì vậy, ngay cả các sự việc diễn ra tại phiên tòa cũng có thể được các bên dùng làm chứng cứ chống lại nhau. Mỗi bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên kia cũng như những người làm chứng, giám định viên, thậm chí có quyền ngắt lời bên kia để phản bác. - Tố tụng tranh tụng quan tâm đặc biệt đến lợi ích của các bên và đặt lợi ích của xã hội xuống hàng thứ yếu; quyền lực được chia sẻ cho cả công tố viên, luật sư và Thẩm phán. Trách nhiệm chứng minh được phân đều cho hai bên buộc tội và bào chữa. Tại phiên toà, Công tố viên đại diện cho Nhà nước chỉ đóng vai trò của một chủ thể thuộc bên buộc tội để thực hiện chức năng buộc tội đối với bị cáo (chứng minh tội phạm của bị cáo và những thiệt hại mà tội phạm đã gây ra cho xã hội). Luật sư bào chữa tranh luận về sự vô tội hay giảm nhẹ tội để bảo vệ thân chủ của mình về mặt pháp lý. Toà án (Thẩm phán) chỉ đóng vai trò là người trọng tài có trách nhiệm bảo đảm để các bên tuân thủ các quy tắc tố tụng. Trên cơ sở các chứng cứ đã đựợc các bên đưa ra xem xét, kiểm tra tại phiên tòa, Thẩm phán đưa ra phán quyết về vụ án (mà không có trách nhiệm tìm ra sự thật, không có quyền được biết về các chứng cứ của vụ án trước khi mở phiên tòa). 11
  16. - Tại phiên toà, các bên có thể sử dụng tất cả các phương tiện, phương pháp mà pháp luật cho phép để tranh tụng với nhau. Việc lựa chọn phương pháp, phương tiện cụ thể nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố (thời điểm tranh tụng, từng vụ án cụ thể, sở trường, trình độ, kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tiễn, của mỗi chủ thể). Phương tiện tranh tụng mà các bên sử dụng trước hết là các chứng cứ, vật chứng được đưa ra xem xét tại phiên toà, các quy phạm pháp luật (hình sự, TTHS, dân sự, lao động, ), các giải thích pháp luật, án lệ, phân tích, lập luận và phản bác quan điểm, kết luận của bên đối phương, đồng thời đề nghị Toà án chấp nhận quan điểm của mình về hướng giải quyết các vấn đề trong vụ án. Như vậy, có thể nói rằng mô hình tố tụng hình sự tranh tụng chỉ là một trong các mô hình của TTHS đã tồn tại trong lịch sử phát triển của Nhà nước và pháp luật. Mô hình này có những ưu điểm và những hạn chế nhất định. Vì vậy, việc thiếp thu, vận dụng nó trong mỗi quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố như văn hóa, lịch sử, tập quán và mức độ vận dụng đến đâu, như thế nào cho phù hợp là những vấn đề mà các nhà lập pháp luôn phải trăn trở để có thể vận dụng những hạt nhân hợp lý của nó trong hoàn cảnh của quốc gia mình. Từ đó, khái niệm “tranh tụng” nhìn ở góc độ mô hình TTHS chính là: Cách thức tổ chức hoạt động TTHS ở trong nhà nước cụ thể phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa, truyền thống của quốc gia đó. 1.1.2. Tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Theo quan niệm chung, nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một loại hoạt động nhất định là“ những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về tố tụng hình sự”; hoặc đó là “những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận” [60, Tr25]. Nguyên tắc tranh tụng thể hiện tính dân chủ, công khai, minh bạch, 12
  17. khách quan, bình đẳng trong tố tụng hình sự, đặc biệt là trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Tranh tụng tạo điều kiện tối đa cho các bên tham gia tố tụng sử dụng các phương pháp để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nguyên tắc tranh tụng để cao vai trò của luật sư, của cá nhân và đề cao các quyền cơ bản của con người. Thẩm phán chỉ đóng vai trò trọng tài khách quan và công minh, ra phán quyết trên cơ sở chứng cứ mà các bên chứng minh tại phiên tòa. Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi việc chứng minh phải được thực hiện công khai ngay tại phiên tòa, dưới sự giám sát của Bồi thẩm đoàn và Thẩm phán luôn phải chịu trách sức ép từ bên đối tụng. Vì vậy, mục đích của các bên trong tranh tụng là phải tự chứng minh được lý lẽ phải thuộc về mình, nếu không họ sẽ là người thua cuộc. Trước đây, với quan niệm cho rằng tranh tụng là nguyên tắc đặc trưng của TTHS tư sản nên vấn đề này không được khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu. Vì vậy, về mặt lý luận, tranh tụng không được thừa nhận và thuật ngữ “tranh tụng” cũng chưa bao giờ được dùng trong các văn bản pháp luật nước ta. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng BLTTHS nước ta cần ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của TTHS để phân định rõ chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử giữa các bên và Tòa án. Mặt khác, trong BLTTHS cũng cần quy định đầy đủ và cụ thể các điều kiện pháp lý cần thiết để đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng. Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS không đồng nhất với việc xây dựng hệ thống tố tụng ở nước ta theo mô hình tố tụng tranh tụng. Để cụ thể hóa tinh thần của Nghị quyết số 08/2002/NQ-TW và Nghị quyết số 49/2005/NQ-TW của Bộ Chính trị, nguyên tắc “tranh tụng” lần đầu tiên đã được ghi nhận, thừa nhận một cách chính thức trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Cụ thể, khoản 5, Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “ Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Tiếp theo Điều 13, Luật 13
  18. Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cũng quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử. Việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định của Luật Tố tụng”. Điều 26, Bộ luật tố tụng năm 2015 lần đầu tiên ghi nhận “tranh tụng” là một trong các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự. Mặc dù, đến nay nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự đã được Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ghi nhận, tuy nhiên pháp luật vẫn chưa đưa ra một khái niệm cụ thể, thống nhất về tranh tụng nói chung, cũng như tranh tụng trong tố tụng hình sự nói riêng. Theo từ điển luật học năm 2006 - Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, Nhà xuất bản Tư pháp, tại trang 807, 808, khái niệm tranh tụng được hiểu như sau: “Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía bên đối lập. Tranh tụng tại phiên toà là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên toà xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Toà án với vai trò trung gian, trọng tài”. Theo Từ điển giải thích tiếng Việt thì khái niệm “tranh tụng” được giải thích là từ ghép của hai từ “tranh luận” và “tố tụng”, theo đó, tranh tụng được giải thích là “tranh luận trong tố tụng”. Theo tác giả thì không nên hiểu khái niệm “tranh tụng” đơn giản chỉ là tranh luận, tranh cãi giữa hai bên tại phiên tòa, mà có thể hiểu tranh tụng là hoạt động diễn ra giữa hai bên đối kháng nhau trong quá trình tố tụng lâu dài, được cả hai bên tiến hành các hành động một cách quyết liệt để “cạnh tranh” 14
  19. nhau để “chống” lại nhau nhằm bảo vệ quan điểm của mình, để đạt được mục đích khi tham gia vào quá trình tố tụng. Vì vậy, theo tác giả, khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự có thể hiểu như sau: Tranh tụng trong tố tụng hình sự là sự đối đầu giữa bên buộc tội và bên bào chữa (gỡ tội) trong quá trình thực hiện hoạt động tố tụng hình sự, theo đó bên buộc tội (công tố) cố gắng để thuyết phục các thành viên Hội đồng xét xử tin rằng bị cáo là người có tội và đề nghị tòa án áp dụng chế tài hình sự đối với bị cáo; Còn bên bị buộc tội (bên bào chữa) thì ngược lại, cố gắng sử dụng lý lẽ, chứng cứ, căn cứ pháp lý để biện bạch, bác bỏ những lời buộc tội do bên công tố đưa ra hoặc ít nhất là bác bỏ tính chất nghiêm khắc, nghiêm trọng mà bên buộc tội đưa ra để kiến nghị Tòa án áp dụng một biện pháp xử lý thích hợp nhất, nhân văn nhất đối với người bị buộc tội. Tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của tòa án. Tùy theo tính chất vụ án mà chức năng tố tụng, địa vị pháp lý của các bên cũng khác nhau. Tranh tụng trong tố tụng hình sự diễn ra giữa bên buộc tội và bên bào chữa, chủ yếu là giữa công tố với người bào chữa và bị cáo [13, tr4]. Trong cuộc đối đầu giữa bên buộc tội và bên bào chữa thì đòi hỏi phải có sự bình đẳng trong việc thu thập chứng cứ, đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ và đưa ra đề nghị, yêu cầu đối với vụ án để tòa án thực hiện chức năng phán xét. Tranh tụng phải đảm bảo sự công minh của tòa án, tòa án phải đứng giữa, phải là trọng tài để phân xử giữa hai bên. Mục đích của tranh tụng trong tố tụng hình sự là để tìm ra sự thật khách quan của vụ án, để áp dụng đúng đắn pháp luật theo nguyên tắc là kẻ có tội thì phải bị chừng phạt, người không có tội thì phải được tự do. Bên buộc tội và bên bào chữa luôn có sự tương tác lẫn nhau, đấu tranh lẫn nhau trong quá trình hoạt động tố tụng, giống như “sự thống nhất, đấu tranh của các mặt đối lập” trong triết học Mac- Lenin, như một quy luật tất yếu để hoạt động tố tụng hình sự được vận hành 15
  20. ổn định, hiệu quả, đảm bảo quyền con người, quyền công dân, nguyên tắc suy đoán vô tội, đảm bảo giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội. Từ khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự, chúng ta có thể khái quát khái niệm tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự như sau: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là tổng thể các hoạt động tố tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự với tư cách là người bào chữa hoặc với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự để bảo vệ quan điểm, luận điểm của mình nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án, để tòa án có căn cứ giải quyết vụ án một cách đúng đắn, công bằng. Mức độ tham gia tố tụng, khả năng tham gia tố tụng của luật sư tại phiên tòa phụ thuộc vào địa vi pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của chủ thể mà luật sư đứng về phía đó. Hoạt động tranh tụng của luật sư trong phiên tòa hình sự sơ thẩm khác với hoạt động của kiểm sát viên xuất phát từ chức năng (buộc tội – bào chữa), khác về địa vị pháp lý, đồng thời hoạt động tranh tụng của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm cũng khác với hoạt động tranh tụng của luật sư trong các giai đoạn trước đó. Khi luật sư tham gia vụ án hình sự với tư cách là người bào chữa thì chức năng, nhiệm vụ, địa vị pháp lý cũng khác với luật sư tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, người bị hại Vì vậy, để nghiên cứu cụ thể hoạt động tranh tụng của luật sư trong từng tư cách pháp lý trong tố tụng hình sự thì ta cần căn cứ vào các quy định cụ thể của pháp luật về tố tụng hình sự. 1.2. Phiên tòa sơ thẩm và nguyên tắc tranh tụng Trong toàn bộ quá trình thực hiện hoạt động tố tụng, xét xử đóng vai trò trung tâm, thể hiện đầy đủ bản chất tư pháp của một nhà nước, là giai đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân. Trong hoạt động xét xử của Tòa án, phiên tòa xét xử vụ án hình sự là một hoạt động có vai trò đặc biệt quan trọng và mang tính chất quyết định trong giải quyết 16