Luận văn Tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên

pdf 84 trang vuhoa 25/08/2022 8720
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_tranh_tung_cua_kiem_sat_vien_tai_phien_toa_hinh_su.pdf

Nội dung text: Luận văn Tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VI THỊ HÀ TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Nguyễn Văn Điệp Hà Nội, 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN VI THỊ HÀ
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh tụng 7 1.2. Tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. 13 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM Ở TỈNH THÁI NGUYÊN 30 2.1. Khái quát đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội ở tỉnh Thái Nguyên 30 2.2. Những kết quả hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm 36 2.3. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên 43 CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM .55 3.1. Những yêu cầu nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm .55 3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa theo đúng tinh thần cải cách tư pháp 59 3.3. Một số giải pháp khác nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm 63 KẾTLUẬN .74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TĂT BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra HĐXX Hội đồng xét xử HĐND Hội đồng nhân dân UBND Ủy ban nhân dân KSV Kiểm sát viên THQCT Thực hành quyền công tố KSXX Kiểm sát xét xử TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TTHS Tố tụng hình sự VKS Viện kiểm sát VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  5. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1 So sanh mức độ gia tăng của một số nhóm tội trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011-2015 (số lượng vụ án, số lượng bị can Cơ quan điều tra khởi tố) 34 Bảng 2.2. Số lượng vụ án TAND cấp sơ thẩm tỉnh Thái Nguyên đã xét xử và tỷ lệ số vụ Tòa án chấp nhận quan điểm của VKS (2011-2015) 37
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xuất phát từ quan điểm của Đảng ta về chiến lược cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, cùng với việc hội nhập, đổi mới phát triển đất nước. Đảng ta đã có chủ trương, đường lối và tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp trong đó có ngành KSND. Đây là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng được thể hiện trong nhiều văn kiện như: Chỉ thị 53-CT/TW ngày 21/3/2000 Về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000; Nghị quyết 08–NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã chỉ rõ “ nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa , việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa là một trong những giải pháp quan trọng của cải cách tư pháp, là đòi hỏi tất yếu để xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, với mục đích đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng, hướng đến bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người ” và nghị quyết 49–NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp ” là những định hướng và yêu cầu thúc đẩy việc nghiên cứu nhiều hơn nữa vấn đề tranh tụng trong hoạt động tố tụng, về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, mở rộng yếu tố tranh tụng vì vậy, tranh tụng được xác định là một trong những nội dung quan trọng về cải cách tư pháp. Với mục đích góp phần làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình 1
  7. sự, tác giả chọn đề tài “Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến đề tài, từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, một số tác phẩm như: Công trình nghiên cứu mang tính đại cương có “Giáo trình tố tụng hình sự Việt Nam” (của Đại học Luật Hà Nội), “Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự” (của Học viện tư pháp), Công trình mang tính chuyên sâu vào nội dung có “Tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu của cải cách tư pháp” (Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội 2011 của Nguyễn Mai Chi; Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Tiến Long về “Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay” - năm 2005. Luận văn trên đã làm rõ thêm các khái niệm tranh tụng, vai trò, đặc điểm của tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự và đề xuất các giải pháp đảm bảo tranh tụng trong xét xử sơ thẩm ở nước ta hiện nay; Luận văn thạc sỹ luật học của Hoàng Anh Phương “Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự ở Việt Nam hiện nay” - năm 2007. Luận văn trên đã phân tích, đánh giá thực trạng về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội “Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai, Hà Nội”- năm 2015. Nội dung luận văn đã phân tích đánh giá thực trạng tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm và đề xuất những giải pháp để nâng cao năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 2
  8. Đề tài khoa học cấp Bộ của Trường đào tạo các chức danh Tư pháp- Bộ tư pháp “Tranh tụng tại phiên tòa - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” - năm 2003. Nội dung của đề tài làm rõ các vấn đề lý luận có liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa. Đánh giá đúng thực trạng tranh tụng và đề ra giải pháp nhằm mở rộng tranh tụng tại phiên tòa, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo chức danh tư pháp ở nước ta. Đề tài khoa học cấp bộ của Viện KSNDTC “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” - năm 2004. Nội dung nghiên cứu đã chỉ ra một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống tranh tụng qua phương pháp so sánh với hệ thống tố tụng hình sự thẩm vấn và những quy định trong Bộ luật TTHS cần sửa đổi bổ sung để đáp ứng yêu cầu tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” của Tiến sỹ Dương Thanh Biểu, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2007 viết về những vấn đề lý luận, vận dụng kiến thức pháp luật, các trình tự, nội dung liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm qua các ví dụ minh họa đã nêu lên được những tồn tại, thiếu sót của Kiểm sát viên trong việc tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện KSNDTC “Chuyên đề tranh tụng và những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên trong xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” - năm 2014. Nội dung của đề tài làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa, đánh giá thực trạng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa và đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên. Ngoài ra, còn một số bài báo và tạp chí có đề cập đến nội dung nghiên cứu tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa như: Tạp chí khoa học pháp lý số 4 năm 2004 của tác giả PGS.TS Trần Văn Độ “Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa” , Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 191, 03/2011 của tác giả Nguyên Kim Chi “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong 3
  9. phiên tòa hình sự”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 08/2003 của tác giả PGS.TS Nguyễn Văn Huyên “Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong phiên tòa mở rộng tranh tụng”, Tạp chí kiểm sát, số 18/2013 của tác giả Nguyễn Đức Hạnh “Về kỹ năng xây dựng và trình bày bản luận tội”, Tạp chí kiểm sát, số 12 (06/2014) của tác giả Đoàn Minh Hương “ Nâng cao năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên qua các phiên tòa hình sự rút kinh nghiệm ở tỉnh Phú Thọ”, Tạp chí kiểm sát, số 12 (06/2014) của tác giả Phạm Minh Tuyên “ Bàn về tranh tụng tại các phiên tòa hình sự”, Tạp chí kiểm sát, số 12/2014 của tác giả Nguyễn Chí Dũng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xét hỏi và tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự”, Tạp chí kiểm sát, số 01/2015, của tác giả Tôn Thiện Phương “Các giải pháp về công tác cán bộ của VKSND tỉnh Nghệ An nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự”. Qua nghiên cứu các công trình nêu trên thấy rằng, thực trạng hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự nói chung và phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng được đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện, đầy đủ hơn nhằm làm sáng tỏ một số lý luận thực tiễn về hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa. Để qua đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS và nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Qua thực tiễn, với mong muốn nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài của luận văn, luận chứng và đề xuất những giải pháp vể tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử án hình sự thực hiện được tốt hơn, đảm bảo phiên tòa hình sự thể hiện đầy đủ tính dân chủ, bình đẳng, khách quan, công khai. Qua đó làm căn cứ để Hội đồng xét xử ra Bản án quyết định đúng người, đúng tội, đúng 4
  10. pháp luật; góp phần hoàn thiện các quy định về tranh tụng của Bộ luật tố tụng hình sự, thực hiện cải cách tư pháp, lấy “xét xử là hoạt động trung tâm” theo tinh thần của Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ chính trị (Khóa IX). Đó là mục đích nghiên cứu của luận văn. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn đã: - Nghiên cứu cơ sở pháp lý và cơ sở lý luận của hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm như: Khái niệm, đặc điểm của tranh tụng; quy định của pháp luật TTHS về tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; các quy định về bảo đảm cho hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa. - Phân tích, đánh giá thực trạng về tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm ở tỉnh Thái Nguyên những năm gần đây, qua đó rút ra những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm ở tỉnh Thái Nguyên, luận văn nêu ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm nói chung và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên nói riêng trước yêu cầu cải cách tư pháp. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và những yếu tố đảm bảo tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm thực hiện ở địa phương. Phạm vi nghiên cứu: Từ thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên, luận văn nghiên cứu vấn đề về tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm thực tế thực hiện ở địa phương. 5
  11. Về thời gian nghiên cứu, luận văn chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề có liên quan đến đề tài trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2015. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương pháp so sánh, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế để giải quyết vấn đề đặt ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn, với mức độ nhất định sẽ góp phần làm cơ sở tham khảo cho việc nghiên cứu, phục vụ yêu cầu thực tiễn về các tiêu chí đánh giá chất lượng, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự. Luận văn cũng có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, phục vụ việc “đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng ” theo yêu cầu của Nghị Quyết 49 Bộ chính trị (Khóa IX) về cải cách tư pháp. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được trình bày thành gồm 3 chương, 8 mục lớn và các tiểu mục. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Chương 2: Thực tiễn tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự sơ thẩm tỉnh Thái Nguyên. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tỉnh Thái Nguyên. 6
  12. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM 1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh tụng 1.1.1 . Khái niệm tranh tụng Theo Đại từ điển Tiếng Việt năm 1998 thì “tranh tụng” có nghĩa là “kiện tụng”, Theo Hán - Việt tự điển thì “tranh tụng” có nghĩa là “cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy lẽ phải”. Trong tiến Anh, tranh tụng là “Adversrial”, có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Tranh tụng diễn ra trong nhiều lĩnh vực khác nhau như tranh tụng trong tố tụng dân sự, tranh tụng trong tố tụng hành chính, kinh doanh thương mại, lao động Trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ đề cập đến tranh tụng trong tố tụng hình sự. Hệ thống tư pháp nước ta được tổ chức và hoạt động theo truyền thống luật Châu Âu lục địa. Tức là hệ thống luật sử dụng mô hình tố tụng xét hỏi. Do đó, trước năm 2002 thuật ngữ „tranh tụng” chưa từng được sử dụng trong các văn bản pháp luật của nước ta. Sau khi Bộ luật TTHS năm 1988 ra đời, vấn đề tranh tụng đã được đề cập đến trong các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Đặc biệt, Nghị Quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định rằng: “Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng; tham gia hỏi cung; nghiên cứu hồ sơ vụ án; tranh luận dân chủ tại phiên tòa Nâng cao chất lượng công tố của KSV tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác Khi xét xử Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét 7
  13. đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của người bào chữa, bị cáo ”. Nghị quyết số 49–NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị một lần nữa yêu cầu “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của các cơ quan tư pháp ” [3] Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 tiếp tục khẳng định “ KSV phải chủ động, tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự TANDTC chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa” [4] . Quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động tranh tụng tiếp tục được thể chế hóa ở Hiến Pháp 2013. Tại Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Như vậy, lần đầu tiên, việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được ghi nhận thành một nguyên tắc, thể hiện bước tiến lớn trong hoạt động xây dựng pháp luật và phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp của Nhà nước ta. Cho đến nay, tranh tụng trong TTHS không còn là vấn đề mới. Song đây vấn là vấn đề gây ra nhiều tranh cãi với nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau. Trong đó, đa phần để làm sáng tỏ khái niệm này, các nhà nghiên cứu thường đề cập đến các vấn đề về mô hình tố tụng tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng, quá trình tranh tụng tức và giải thích tranh tụng dưới góc độ khác nhau. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm hội tụ đầy đủ ba chức năng cơ bản của TTHS là chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử. Các chức năng này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi chức năng tồn tại và vận động trong chừng mực tồn tại và vận động của chức năng kia, cạnh tranh quyết liệt nhằm thuyết phục HĐXX chấp nhận các quan điểm của mình, phản bác quan điểm của bên kia, góp phần làm sáng tỏ sự thật vụ án. Tại phiên tòa, hoạt động tranh tụng được thực hiện ngay từ khi bắt đầu phiên tòa và kết thúc khi các bên tranh 8
  14. luận xong. Quá trình tranh tụng được xem là kết thúc khi bản án hay quyết định của Tòa án về vụ án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm của các chủ thể có các quyền đó. Hiện nay, trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý người phạm tội, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án luôn luôn tuân thủ những nguyên tắc của luật hình sự nói chung, nguyên tắc công bằng nói riêng, bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội và nếu “Thiếu sự cưỡng chế tư pháp hình sự sẽ không có sức mạnh, thiếu sự giáo dục tư pháp sẽ vô nhân đạo. Nhưng thiếu công bằng tư pháp nói chung sẽ không tồn tại” [28, tr.47]. Chính vì vậy, tư tưởng công bằng được thể hiện xuyên suốt quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự là cơ sở trong việc bảo đảm tính khách quan, công bằng của các bản án hình sự. Mặt khác, cần xem “tranh tụng là nguyên tắc quan trọng, nguyên tắc đặc trưng của hoạt động tư pháp và là đặc trung nổi bật nhất của tư pháp hình sự”. Trên cơ sở chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV trong xét xử hình sự, các quy định của BLTTHS và quy định của Hiến pháp 2013, có thể hiểu: Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự là hoạt động của bên buộc tội và bên gỡ tội, dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, lập luận của mình để phản bác chứng cứ, lập luận của đối phương nhằm thuyết phục HĐXX chấp nhận quan điểm đề xuất của mình, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Từ khái kiệm trên cho ta thấy bản chất của tranh tụng được hiểu như sau: + Tranh tụng là hoạt động tố tụng hình sự, do vậy hoạt động tranh tụng phải tuân theo các quy định của BLTTHS. + Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa diễn ra dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh 9
  15. tụng hoặc chấm dứt tranh tụng, điều chỉnh nội dung cũng như phương pháp tranh tụng cho phù hợp với quy định của pháp luật và sự cần thiết làm rõ các vấn đề của vụ án. Chủ tọa phiên tòa là người trọng tài và qua phiên tòa xác định xem “sự thật” của ai thuyết phục hơn để qua đó phán xét, quyết định. + Chủ thể của tranh tụng gồm có KSV và người tham gia tố tụng khác. Các chủ thể xuất phát từ những địa vị pháp lý khác nhau nhưng bình đẳng với nhau trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan điểm về giải quyết vụ án. KSV có thể tranh tụng với người bào chữa, bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. + Đối tượng của hoạt động tranh tụng là các quan điểm của các bên đưa ra trong việc giải quyết vụ án. + Mục tiêu của hoạt động tranh tụng là nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Sự thật khách quan này gồm sự thật đã diễn ra thực tế và được nhìn nhận, đánh giá dưới góc độ pháp lý (dưới góc độ đánh giá trên cơ sở pháp luật hình sự và TTHS). + Tranh tụng được tiến hành trên cơ sở tư duy logic hình thức. Các bên tranh tụng có thể sử dụng các kỹ năng tranh tụng khác nhau để khẳng định quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm hoặc thừa nhận quan điểm của bên tranh tụng đối lập. + Cách thức tranh tụng là các bên chủ thể tranh tụng sử dụng các chứng cứ trong hồ sơ vụ án cũng như những chứng cứ mới đưa ra đã được kiểm tra tại phiên tòa dựa trên các quy định của pháp luật hiện hành để làm rõ các đối tượng tranh tụng. + Tranh tụng không chỉ là quyền, trách nhiệm của các bên tham gia tranh tụng. Chân lý về vụ án phải tìm thấy, có được thông qua tranh tụng. Tất nhiên, thuộc tính này của tranh tụng là xét về nguyên tắc. Với những vụ án mà bị cáo nhận tội và có đủ chứng cứ để khẳng định lời nhận tội của bị cáo là 10
  16. có cơ sở, tại phiên toà không có những quan điểm xung đột thì không phát sinh tranh tụng hoặc nếu có thì chỉ ở mức độ nhất định [40]. 1.1.2 . Đặc điểm tranh tụng Tranh tụng tại phiên tòa xet xử án hình sự có một số đặc điểm sau đây: Thứ nhất: Phải đảm bảo quyền bình đẳng giữa KSV với những người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử phải tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng trình bày đầy đủ ý kiến của mình và HĐXX phải chú ý lắng nghe và tôn trọng lẽ phải của KSV thực hành quyền công tố qua lời trình bày luận tội, những căn cứ để buộc tội và các ý kiến phản biện của bị cáo, người bị hại, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác. Thứ hai: Hoạt động xét xử phải bảo đảm tranh tụng giữa KSV với những người tham gia tố tụng khác, tranh tụng là trọng tâm của hoạt động xét xử. Các bên tranh tụng bình đẳng với nhau về quyền đưa ra tài liệu, chứng cứ, yêu cầu; đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng của mình; bình đẳng trong đối đáp, tranh luận, chứng minh, bác bỏ quan điểm lẫn nhau. Do đó quyền bình đẳng giữa bên bào chữa và bên buộc tội được hiểu là bình đẳng trên phương diện tố tụng khi tham gia phiên tòa, đều được pháp luật quy định để thực hiện các chức năng của mình. Thứ ba: Tại phiên tòa HĐXX phải có phương pháp điều hành hợp lý, tạo điều kiện cho bên buộc tội và bào chữa là Luật sư tranh luận không hạn chế về mặt thời gian, tránh việc thiên vị đối với bất cứ bên nào. Tạo cơ sở cho các bên tranh luận đưa ra các chứng cứ buộc tội, gỡ tội. KSV và người tham gia tranh tụng phải tranh tụng với tinh thần trách nhiệm, trên cơ sở chứng cứ khách quan và qui định của pháp luật; với tinh thần tôn trọng lẫn nhau, có văn hoá ứng xử, tránh việc tranh luận chung chung không đi sâu vào nội dung vụ án. KSV phải trả lời trực tiếp, không được né tránh nhằm đảm bảo tính minh bạch trong tranh luận. Toà án có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện, thực thi 11
  17. các qui định của pháp luật theo qui định của BLTTHS để các bên tham gia tranh tụng. Thứ tư: Bản án và quyết định của Toà án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện các luận điểm, luận cứ và luận chứng của các bên tranh tụng. Tại phiên tòa kết quả có thể khác với toàn bộ hoặc một số tình tiết cụ thể trong kết luận điều tra, trong bản cáo trạng đã truy tố. Vì hoạt động xét xử được coi là khâu quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình tố tụng và là hoạt động đặc trưng cho toàn bộ hoạt động của Tòa án. Quá trinh xét xử phiên tòa hình sự đươc tổ chức và thực hiện một cách chặt chẽ theo một trình tự, thủ tục nghiêm ngặt. Phần tranh luận tại phiên tòa thường thu hút sự chú ý đặc biệt của công chúng và quan tâm nhiều đến vấn đề các cơ quan và người tham gia, người tiến hành tố tụng thực hiện pháp luật như thế nào, để đảm bảo tính công khai của Bản án trong qua trình tranh tụng, tránh việc ghi ngờ, chê trách nếu bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm cải, sửa hoặc hủy án. Qua đó chứng tỏ tranh tụng của cấp có án bị hủy là thực hiện tranh tụng chưa được tốt theo yêu cầu đổi mới về cải cách tư pháp. 1.1.3 . Ý nghĩa của việc tranh tụng Phiên tòa hình sự có sự tham gia đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định. Thông qua phiên tòa, bằng thủ tục trực tiếp, công khai, qua nghe ý kiến và đề xuất của các bên tham gia tố tụng, tòa án (với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng quan trọng nhất) tiến hành xác định sự thật khách quan của vụ án và ra các phán quyết giải quyết vụ án một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan và đúng pháp luật [13]. Pháp luật tố tụng hình sự quy định cho Kiểm sát viên có quyền đưa ra chứng cứ buộc tội và người bào chữa đưa ra chứng cứ gỡ tội tranh luận với kiểm sát viên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo tại phiên tòa. 12
  18. Vậy có thể hiểu rằng, tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của Tòa án. Đảm bảo tốt hoạt động tranh tụng và thông qua hoạt động tranh tụng của luật sư và kiểm sát viên tại phiên tòa, sẽ tạo cơ sở cho Tòa án (Hội đồng xét xử) đánh giá kết quả của những hoạt động tố tụng trước đó, đồng thời giúp cho việc xét xử được chính xác. Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa còn có ý nghĩa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và của những người tham gia tố tụng khác, đảm bảo việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngoài ra tranh tụng tại phiên tòa HSST còn có ý nghĩa tuyên truyền giáo dục pháp luật một cách sâu rộng đối với quần chúng nhân dân đến tham dự phiên tòa. Xét về mặt lý luận cũng như thực tiễn xét xử, tranh tụng tại phiên tòa là giai đoạn mà những người tham gia tranh tụng tìm mọi cách để thuyết phục, thu hút sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân đối với quan điểm, ý kiến, lập luận của mình đưa ra. Các ý kiến, lập luận đưa ra nhằm làm sáng tỏ nội dung vụ án, các quy định của pháp luật liên quan, qua đó mỗi người dân tham dự phiên tòa tự nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của mình. Thực tiễn đối với những vụ án xác định là án trọng điểm, phức tạp được Tòa án nhân dân xét xử lưu động tại các địa phương, có sự tranh tụng giữa các bên đã đạt được mục đích nhằm tuyên truyền và giáo dục ý thức pháp luật của đông đảo quần chúng nhân dân. Đây là một hình thức tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành pháp luật thiết thực và hiệu quả nhất trong đời sống xã hội hiện nay. 1.2. Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm 1.2.1 Cơ sở pháp lý bảo đảm hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm 1.2.1.1. Quy định của Hiến pháp sửa đổi năm 2013 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, 13
  19. kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Xác định tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, Điều 103 khoản 5 của Hiến pháp 2013 và Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử ”. Từ những quy định của Hiến pháp và pháp luật cho thấy, vấn đề tranh tụng nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã được hết sức coi trọng. Đây là một trong những đổi mới lần đầu tiên Hiến pháp ghi nhận nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Việc hiến định nguyên tắc tranh tụng mang nhiều ý nghĩa như: Thứ nhất, quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp đã thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp. Hoạt động tư pháp được Đảng và Nhà nước ta chú trọng ngay trong những năm đầu mới giành được chính quyền. Phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và xuất phát từ quan điểm của Đảng ta về chiến lược cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012. Pháp luật tố tụng hiện hành cũng có nhiều quy định chứa đựng nội dung của nguyên tắc tranh tụng như quy định nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, các quy định về tranh 14
  20. luận tại phiên tòa. Cụ thể: Khoản 2 Điều 326 BLTTHS năm 2015 quy định: “ việc nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của KSV, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác”. Mặc dù vậy, các quy định trên còn thiếu tính cụ thể, nhất là chưa có văn bản pháp lý nào chính thức ghi nhận nguyên tắc bảo đảm và cơ chế bảo đảm tranh tụng nên thực tiễn hoạt động chưa phát huy hiệu quả. Do vậy, việc Hiến pháp quy định cụ thể, rõ ràng nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một bước tiến lớn và rất phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp của Nhà nước ta [19]. Thứ hai, quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong Hiến pháp tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử. Những quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã và đang phát huy hiệu lực trên thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Công tác điều tra, truy tố, xét xử ngày càng hiệu quả, việc tranh luận tại phiên tòa bảo đảm tính dân chủ, khách quan. Tuy nhiên so với tình hình đặt ra thì hoạt động tranh tụng chưa đáp ứng yêu cầu. Có phiên tòa chưa thực sự bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, số lượng án sửa, hủy còn nhiều. Về mặt nhận thức vẫn tồn tại quan niệm"án bỏ túi", "án tại hồ sơ" dẫn đến tâm lý xem nhẹ hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Nguyên nhân của tình hình trên có nhiều, trong đó có nguyên nhân từ những quy định của pháp luật về tranh tụng và bảo đảm tranh tụng chưa rõ ràng, cụ thể hiệu lực chưa cao [19]. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định chính thức về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng như vậy sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ tư pháp, của công dân trong quá trình thực hiện các quyền năng khi tham gia tranh tụng. Đồng thời thực tiễn xét xử sẽ thay đổi, với bước tiến mới trọng 15