Luận văn Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ An

pdf 88 trang vuhoa 25/08/2022 7280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_tranh_luan_tai_phien_toa_xet_xu_so_tham_vu_an_hinh.pdf

Nội dung text: Luận văn Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ An

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HỒ XUÂN HỢP TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ HÀ NỘI, 2017
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn HỒ XUÂN HỢP
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 6 1.2. Nội dung, vai trò và ý nghĩa của việc tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 9 1.3. Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật một số nước và những gợi mở cho Việt Nam 16 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN 24 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm 24 2.2. Thực tiễn tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Nghệ An 43 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 65 3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 65 3.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 70 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng CQĐT : Cơ quan điều tra CTV : Công tố viên ĐTV : Điều tra viên HĐXX : Hội đồng xét xử KSV : Kiểm sát viên LS : Luật sư NBC : Phiên tòa hình sự PTHS : Người bào chữa QBC : Quyền bào chữa TA : Tòa án TAND : Tòa án nhân dân TP : Thẩm phán TTHS : Tố tụng hình sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa VKS : Viện kiểm sát
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hoạt động tố tụng hình sự, TA giữ vai trò là trung tâm; xét xử có vị trí trọng tâm. Thông qua phiên tòa, các chức năng cơ bản của tố tụng được bảo đảm thực hiện một cách rõ nét, công khai, dân chủ và bình đẳng. HĐXX thực hiện chức năng của mình bằng việc đưa ra những phán quyết khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật dựa trên kết quả tranh luận tại phiên toà. Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một trong những thủ tục bắt buộc trong quá trình xét xử vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Thông qua hoạt động tranh luận được tiến hành một cách dân chủ, công khai và không bị giới hạn về thời gian tại phiên tòa, giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa, HĐXX có thể xác định đúng và đầy đủ về các tình tiết khách quan làm cơ sở để ra phán quyết về vụ án bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Trong những năm đổi mới, thực hiện chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân vấn đề bảo đảm quyền con người và quyền công dân nhất là trong hoạt động tư pháp luôn được chú ý quan tâm và đặc biệt coi trọng. Nhưng tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật ở nước ta xảy ra nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng. Cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, các CQTHTT có nhiều cố gắng trong công tác tư pháp nên đã góp phần quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật giữ vững an ninh - chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp còn chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mà Đảng và Nhân dân giao phó, còn bộc lộ nhiều yếu kém nên có lúc, có nơi còn bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và công dân. Những điều đó đã tạo nên dư luận xã hội không tốt, làm giảm lòng tin vào nền công lý XHCN. Chính vì vậy, Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã nhấn mạnh: Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm cho sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa 1
  6. làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp. Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị có hiệu lực từ ngày 02/01/2002 được xem như sự mở đầu cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Nghị quyết này đề cập nhiều nội dung khác nhau của công tác tư pháp từ hoạt động điều tra, truy tố xét xử cho đến việc đào tạo cán bộ Tư pháp, quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, tăng cường yếu tố tranh tụng trong quá trình xét xử vụ án hình sự được coi là điểm nhấn của cải cách tư pháp và là vấn đề trọng tâm của Nghị quyết. Tiếp theo là Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp; từng bước xã hội hoá một số hoạt động tư pháp, “Nghiên cứu việc chuyển VKS thành viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”, “Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để LS thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với LS”. Những tư tưởng quan điểm trên một mặt xác định tranh tụng là một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp, mặt khác đây cũng được coi là định hướng và yêu cầu thúc đẩy việc nghiên cứu vấn đề bảo đảm tranh tụng trong hoạt động của TA. Việc phán quyết của TA phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, nhằm xác định sự thật vụ án, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khoản 5 Điều 103 của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Mặc dù hoạt động tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã được ghi nhận và từng bước được quy định trong TTHS và đưa vào thực hiện, nhưng quyền lợi của người phạm tội, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác vẫn còn những dấu hiệu bị vi phạm. Vị trí, vai trò và chức năng của họ chưa được đánh giá một cách đúng đắn dẫn đến không được bảo đảm đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp theo Luật định. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, tuy nhiên đáng chú ý hơn là việc các chủ thể tham gia tố tụng chưa nhận thức đầy đủ và chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về thủ tục tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và toàn diện về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Đây cũng chính là lý do quan trọng để tác giả lựa chọn 2
  7. Đề tài “Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự theo pháp luật tố tụng Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ An” cho luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Hình sự và tố tụng Hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả thấy đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến vấn đề tranh tụng nói chung và tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng, đã được nhiều nhà khoa học pháp lý và cán bộ thực tiễn quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ và phạm vi khác nhau như: Luận văn thạc sĩ luật học “Một số vấn đề về tranh tụng trong TTHS” của Lê Tiến Châu [3]; “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” của TS. Dương Thanh Biểu [1]; Luận văn thạc sĩ luật học “Thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” của Nguyễn Hải Ninh [13]; Luận văn thạc sĩ luật học “Tranh tụng tại phiên tòa theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Bùi Thị Hà [7]; Luận văn thạc sĩ luật học “Chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” của Hà Minh Hải [8]; “Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm” của Nguyễn Ngọc Kiện [10]; Qua nghiên cứu các công trình nêu trên thấy rằng nhìn chung các tác giả mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh nhất định của vấn đề nghiên cứu như: về tranh luận của KSV, của NBC nói chung hoặc về tranh luận tại một PTHS mà chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ về vấn đề tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn về thủ tục tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ đó đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt được mục đích của luận văn, tác giả kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan và tiếp tục làm rõ một số vấn đề sau: 3
  8. - Phân tích khái niệm, đặc điểm tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Từ đó, tác giả tiếp tục nghiên cứu, làm rõ nội dung, vai trò và ý nghĩa của việc tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Bên cạnh đó, đề tài làm rõ việc tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật một số nước và những gợi mở cho Việt Nam. - Đề tài tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện để rút ra những kết quả đạt được cũng như bất cập, hạn chế và nguyên nhân của những cất cập, hạn chế để từ đó đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Với mục đích và nhiệm vụ nêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng về hoạt động tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, có cập so sánh BLTTHS năm 2015 và thực tiễn thực hiện liên quan đến tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở các TAND trên địa bàn tỉnh Nghệ An từ 2011 đến 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của luận văn này là quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về nhà nước, pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp Trên cơ sở phương pháp luận đó, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, hệ thống, logic, lịch sử, thống kê, so sánh để giải quyết các vấn đề tương ứng để nghiên cứu đề tài. Trong quá trình hoàn thiện luận văn, tác giả đã dày công nghiên cứu khoa học, các tài liệu của Hội thảo liên quan đến luận văn; những bài viết của các tác giả đăng trên các Tạp chí, Sách, Tạp chí TAND, Tạp chí VKS nhân dân, Đặc san nghề Luật; Nghị quyết 08/NQ-TW; Thông tư Bộ Công an; Sách Chính trị quốc gia; Đề tài khoa học cấp Bộ; Thông tin khoa học xét xử; Tạp chí Dân chủ Pháp luật; Bình luận BLTTHS, các Báo 4
  9. cáo tổng kết hàng năm của TAND tối cao; của TAND cấp huyện và cấp tỉnh ở một số địa phương. Ngoài ra tác giả còn khai thác một cách công phu những thông tin trên mạng internet có liên quan đến Luận văn; trực tiếp tham gia trong phiên tòa xét xử các vụ án hình sự. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Bản thân tác giả là LS, đã tham gia phiên tòa sơ thẩm nhiều vụ án hình sự. Từ các công trình khoa học và trải nghiệm của bản thân, những quan điểm mà tác giả đưa ra vừa có ý nghĩa như một giải pháp mang tính khoa học có thể tham khảo trong quá trình hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và hướng dẫn thực hiện BLTTHS; Kết quả nghiên cứu cũng góp phần nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn thực hiện. Chương 3. Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 5
  10. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.1. Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Ở góc độ ngôn ngữ, phiên tòa là “lần họp để xét xử của Tòa án” [30, tr.779]. Như vậy, ở góc độ chung nhẩt về mặt ngôn ngữ, chúng ta có thể hiểu phiên tòa là lần họp của Tòa án để xét xử một vụ việc nào đó. Theo từ điển luật học “phiên tòa là hình thức hoạt động xét xử của Tòa án” [29, tr. 620]. Tuy nhiên, xuất phát từ chữ “phiên” theo nghĩa là phiên họp, phiên chợ, còn Tòa là quan tòa hay tòa án thì phiên tòa cũng được hiểu như một phiên họp, nhưng là một phiên họp đặc biệt theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định, theo hình thức phiên tòa thì có phiên tòa cố định hay phiên tòa lưu động. Đã là phiên tòa thì có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của phiên tòa đó. Giáo trình Luật TTHS định nghĩa: “Xét xử sơ thẩm là giai đoạn của TTHS trong đó TA có thẩm quyền tiến hành xem xét giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật” [31, tr.337]. Định nghĩa này chưa làm rõ bản chất của xét xử sơ thẩm. Xét xử sơ thẩm là hoạt động tố tụng thực hiện chức năng xét xử của TA dưới hình thức phiên tòa xem xét và giải quyết vụ án hình sự có nghĩa là TA trên cơ sở các chứng cứ được kiểm tra tại phiên tòa và chứng cứ tự mình thu thập đưa ra phán quyết về bị cáo có tội hay không có tội. Đây là mấu chốt phân biệt xét xử sơ thẩm với xét xử phúc thẩm. Phiên tòa sơ thẩm chỉ có thể tiến hành khi có quyết định truy tố của VKS và có đủ điều kiện để tiến hành phiên tòa. TA sơ thẩm có trách nhiệm xem xét những nội dung cáo buộc này của bên buộc tội có căn cứ, hợp pháp hay không và thực hiện quyết định của mình trong bản án. Theo cách hiểu thông thường, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là cấp xét xử đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết vụ án, nó phán quyết hành vi phạm tội của người đã thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết những vấn đề khác của vụ án. Trong TTHS, giai đoạn xét xử được coi là trọng tâm, và trong các cấp xét xử thì cấp sơ thẩm được xem là có vai trò quan trọng nhất bởi đây là giai đoạn mà toàn bộ vụ án và mọi vấn đề liên quan đến vụ án được xem xét lần đầu và quyết định. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng, trong đó TA có thẩm quyền, 6
  11. sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét xử bằng phiên tòa nhằm xác định có hay không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm tội để từ đó đưa ra phán quyết bằng bản án, quyết định [4, tr.310]. Như vậy, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là việc TA xét xử lần đầu đối với toàn bộ vụ án, quyết định bị cáo có tội hay không có tội và áp dụng hình phạt, mức bồi thương thiệt hại (nếu có) 1.2.2.Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Trong phần tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm vụ án dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên toà, các chủ thể của bên buộc tội và của bên bào chữa chính thức đưa ra các chứng cứ, các quan điểm, lập luận của mình về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án để làm cơ sở cho HĐXX đưa ra phán quyết về vụ án bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, có thể nói tranh luận tại PTHS là phần trọng tâm có vai trò đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ quá trình xét xử vụ án. Mặt khác, hoạt động tranh luận công khai của các bên tại PTHS còn là sự thể hiện rõ nét nhất bản chất dân chủ, bình đẳng và công bằng của tư pháp hình sự. Hiện nay trong thực tiễn và khoa học pháp lý có nhiều quan điểm khác nhau về tranh luận. Theo Từ điển Luật học thì “tranh luận” tại phiên tòa là “Hoạt động của những người tham gia tố tụng (các bên) tại phiên toà, trong việc trao đổi, bàn cãi các ý kiến về vụ án” [29, tr.807]. “Tranh luận trước TA là một phần xét xử vụ án tại phiên toà, trong đó CTV, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc người đại diện của họ, NBC (trường hợp không có NBC thì bản thân bị cáo) phát biểu, phân tích các chứng cứ được đưa ra xem xét, trình bày kết luận của mình về vụ án” [29, tr.251]. Tranh luận xét về bản chất chính là cuộc đấu tranh giữa hai bên trong TTHS (bên buộc tội và bên bào chữa) mà việc đương đầu diễn ra tại TA nơi diễn ra phiên tòa để thuyết phục TA ra phán quyết có lợi cho mình. Theo cách hiểu thông thường, tranh luận là việc từng bên đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại, bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của phía bên kia. Như vậy, mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau song tranh luận được xem là một loại hoạt động trong quá trình TTHS. Tranh luận không chỉ đòi hỏi TA phát huy vai trò phán xét của mình để đưa ra sự thật khách quan của vụ án mà còn đòi hỏi mỗi người tham gia hoạt động tố tụng phải phát huy vai trò của mình. Cụ thể TA giữ vai trò trung gian, trọng tài cho cuộc tranh luận giữa LS và KSV. Trong đó LS giữ vai trò là NBC và bảo vệ quyền lợi cho thân chủ, KSV và CQĐT với vai trò là bên buộc tội để bảo vệ 7
  12. công lý. Hay nói cách khác, tranh luận tại phiên tòa chính là một trong các hoạt động tố tụng được tiến hành bởi các bên tham gia tố tụng nhằm mục đích đưa ra các luận điểm, ý kiến của mình để bảo vệ quan điểm hoặc bác bỏ luận điểm và những lời buộc tội của phía bên kia dưới sự điều khiển của TA. Trong hoạt động tranh luận tại các PTHS, KSV hoạt động nhân danh Nhà nước để buộc tội cho bị cáo; còn LS lại hiện diện với vai trò là NBC, gỡ tội cho thân chủ của họ. Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu: Tranh luận tại phiên tòa hình sự là một thủ tục (một phần) bắt buộc của phiên tòa hình sự, trong đó các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa, các bên khác có quyền lợi, nghĩa vụ đối lập đưa ra quan điểm, lập luận của mình về các chứng cứ, các tình tiết của vụ án đã được làm rõ tại phần xét hỏi và đề nghị HĐXX chấp nhận quan điểm của mình và bác bỏ quan điểm của bên đối lập về hướng giải quyết các vấn đề trong vụ án giúp cho HĐXX ra phán quyết về vụ án đúng pháp luật. 1.1.3. Đặc điểm tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Để bảo đảm hoạt động tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm cần chú ý các đặc điểm sau đây: Một là, tất cả các cơ quan và những người tham gia tố tụng đều có quyền và nghĩa vụ xác định sự thật vụ án. Bảo đảm hoạt động tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm đòi hỏi NBC và cả bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cũng phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án. Hai là, kết hợp phương pháp điều tra, thẩm vấn với phương pháp tranh luận. Thể chế hóa quan điểm của Đảng về tăng cường tranh luận tại phiên tòa, phương pháp tố tụng áp dụng trong giai đoạn này là phương pháp tranh luận. Việc tranh luận diễn ra giữa KSV và NBC cùng những người tham gia tố tụng khác và giữa những người tham gia tố tụng với nhau. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến. Ba là, về vị trí, vai trò của các chủ thể trong TTHS: Khác với mô hình TTHS tranh tụng, phân chia các chủ thể tố tụng dựa vào tiêu chí là các chức năng cơ bản của TTHS: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử, trên cơ sở đó hình thành các bên trong quan hệ tố tụng: bên buộc tội, bên bào chữa; bên nguyên, bên bị và TA xét xử. Bốn là, về việc thực hiện các chức năng cơ bản của TTHS: Dù áp dụng mô hình TTHS nào thì trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ bản, đó là buộc tội, bào chữa và 8
  13. xét xử. Vai trò, thẩm quyền của các chủ thể được phân định theo các chức năng tố tụng là điều kiện quan trọng bảo đảm mục tiêu, hiệu quả của TTHS. Có thể thấy, tính tranh tụng trong hoạt động TTHS ở nước ta còn rất hạn chế, chức năng bào chữa dường như bị lấn át bởi chức năng buộc tội. Năm là, do được cơ quan buộc tội lập nên hồ sơ vụ án chủ yếu là căn cứ để buộc tội: trong TTHS Việt Nam luôn tồn tại hồ sơ vụ án hình sự. Như vậy, hồ sơ vụ án - kết quả hoạt động của CQĐT và Cơ quan công tố trong mô hình tranh tụng – chủ yếu là căn cứ để buộc tội của bên buộc tội. TA còn phải căn cứ vào hồ sơ và lý lẽ tranh luận của bên gỡ tội để phán xét có tội phạm hay không và hình phạt được áp dụng. 1.2. Nội dung, vai trò và ý nghĩa của việc tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.2.1. Nội dung tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Tranh tụng tồn tại từ khi xuất hiện chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội cho đến khi mâu thuẫn được giải quyết. Nội dung tranh luận đa dạng, có thể là về bản chất, nội dung của vụ việc, cũng có thể là các vấn đề về trình tự, thủ tục, quy định của tố tụng được biểu hiện tập trung nhất trong giai đoạn xét xử. Nội dung tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm bao gồm toàn bộ các quan điểm, lập luận về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án hình sự mà các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra tại phiên tòa đề nghị HĐXX chấp nhận hoặc bác bỏ khi ra phán quyết về vụ án. Phụ thuộc vào tính chất xét xử vụ án hình sự mà nội dung tranh luận này có thể khác nhau. Tranh luận tại phiên tòa làm một thủ tục không thể thiếu tại phiên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Việc tranh luận tại phiên tòa được quy định nhằm đảm bảo cho vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia phiên tòa được phân tích, đánh giá chứng cứ của vụ án góp phần đề ra những biện pháp xử lý phù hợp nhất với pháp luật. Việc tranh luận tại phiên tòa cũng là một phương tiện hữu hiệu để người bào chữa hoặc bị cáo tiến hành phân tích lập luận, đưa ra lý lẽ hợp lý, sắc bén, có sức thuyết phục để bảo vệ bị cáo một cách hiệu quả nhất Việc tranh luận tại phiên tòa được tiến hành như sau: Trước hết, KSV trình bày lời buộc tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn. Lời luận tội của Viện kiểm sát phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa, ý kiến của 9
  14. bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Trong trường hợp không có căn cứ để kết tội thì KSV phải rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo không có tội. Sau khi KSV trình bày lời luận tội thì người bào chưa sẽ bào chữa cho bị cáo, bị có có quyền bổ sung ý kiến bào chưa; nếu không có người bào chữa thì bị cáo tự bào chữa cho mình. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ trình bày ý kiến để bảo vệ quyền lợi cho mình bảo vệ. Nếu không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tự trình bày ý kiến để bảo vệ quyền lợi cho mình. Tiếp theo KSV phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến có liên quan đến vụ án. Trong trường hợp giữa những người tham gia tranh luận có ý kiến khác nhau thì họ có quyền phản bác lại ý kiến mà mình không đồng ý. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận và phải tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan tới vụ án. Đối với ý kiến có liên quan đến vụ án chưa được KSV tranh luận, chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị KSV phải tranh luận và đáp lại. Trong quá trình tranh luận, nếu xét thấy cần xem xét thêm chứng cứ mới thì HĐXX có quyền trở lại việc xét hỏi, xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận. Sau khi những người tham gia tranh luận không còn trình bày gì thêm, chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc việc tranh luận và bị cáo được nói lời sau cùng. Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án thì HĐXX phải quyết định trở lại việc xét hỏi. Nội dung tranh luận của các chủ thể tại phiên tòa hình sự sơ thẩm cũng xoay quanh những vấn đề cần chứng minh trong vụ án được quy định tại Điều 85 BLTTHS bao gồm: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; Tuy nhiên, tại phiên tòa KSV có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn. Luận tội của KSV phải căn cứ vào những chứng cứ, tài 10
  15. liệu, đồ vật đã được kiểm tra lại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, NBC, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Nội dung luận tội phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội gây ra, nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án, tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Nội dung luận tội này của KSV là cơ sở để xác định giới hạn xét xử vụ án tại phiên toà. Vì vậy, nội dung tranh luận của NBC, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác chủ yếu tập trung vào các nội dung lời luận tội của KSV trình bày tại phiên toà. 1.2.2. Vai trò của việc tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Vai trò của của việc tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm đảm bảo việc không trao cho ai quyền độc tôn trong xét xử, không một bên tham gia nào có thể chiếm ưu thế hơn bên kia, kể cả TP chủ tọa. Trong đó, KSV là người đại diện cho Nhà nước buộc tội người bị tình nghi trước TA; LS bào chữa là người biện hộ cho người bị tình nghi phạm tội trước lời buộc tội của KSV. Với các lập luận của mình, họ có quyền phản bác lại các chứng cứ buộc tội do KSV đưa ra. Đây là yếu tố rất quan trọng bảo đảm cho người bị tình nghi có đủ các điều kiện pháp lý bảo vệ mình trong quá trình tranh luận. Ngược lại, các chứng cứ do bên bào chữa đưa ra cũng có thể bị bên công tố phản bác lại trên cơ sở lập luận của họ. Đây chính là thủ tục kiểm tra chéo về chứng cứ trong TTHS như đã nêu trên. Tuy nhiên để xác định kết quả của quá trình kiểm tra chéo chứng cứ và quá trình cân bằng quyền hạn, vị trí cho thấy sự bình đẳng và độc lập mang tính tuyệt đối. Tính khách quan và công minh được khẳng định trong thực tiễn tố tụng. Đây là một đặc điểm cơ bản xác định được vai trò của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng tranh tụng, nơi mà hầu hết quyền lực tập trung vào TP trong giai đoạn xét xử. Nguyên tắc tranh tụng coi việc xem xét một con người bị tình nghi phạm tội bị phán xét như thế nào quan trọng hơn là việc xác định họ đã làm gì trên thực tế, xem xét tội trạng của họ thiên về khía cạnh pháp lý hơn. Nếu được áp dụng trong mô hình tố tụng thẩm vấn thì nguyên tắc tranh tụng không bị mất đi ý nghĩa, vai trò của nó mà càng phát huy tính công bằng, công lý và công khai trong toàn bộ quá trình tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. 11
  16. Như vậy, có thể khẳng định vai trò của tranh luận tại phiên toàn hình sự sơ thẩm được xác định ở các khía cạnh như sau: Một là: Vai trò của tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là hoạt động bảo đảm quyền con người, quyền công dân một cách tối đa, bảo đảm cho người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền tố tụng của mình; đồng thời thực hiện việc tranh tụng cũng có nghĩa là các CQTHTT, các bên tham gia tranh tụng phải thực hiện nghĩa vụ tố tụng của mình để bảo đảm cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền tố tụng tương ứng. Với hoạt động tranh luận, những người tham gia không bị hạn chế về thời gian trình bày ý kiến của mình về vụ án, đề nghị TA ra các quyết định cụ thể liên quan đến quyền lợi hợp pháp của mình. Nếu không đồng ý với các ý kiến tranh luận của các bên tham gia tố tụng, HĐXX mới có điều kiện cân nhắc, xem xét để ra quyết định đúng đắn, khách quan và đúng pháp luật, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của người tham gia tố tụng. Hai là: Vai trò bảo đảm cho hoạt động xét xử của TA công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội. Thực tiễn cho thấy, tại các phiên tòa do xuất phát từ các lợi ích khác nhau, do tư cách tố tụng khác nhau cho nên các kết quả đánh giá chứng cứ, nhận thức về pháp luật cũng như các đề nghị cụ thể giải quyết vụ án về thực chất là khác nhau. Trên cơ sở các chứng cứ thu thập được, bằng việc phân tích, đánh giá các chứng cứ và đặc biệt thông qua hoạt động tranh tụng, HĐXX xem xét quyết định vụ án một cách khách quan, toàn diện. Hoạt động tranh luận không chỉ đòi hỏi các bên tham gia tranh tụng có địa vị pháp lý như nhau, nguyên tắc tranh tụng còn bảo đảm cho các bên khả năng thực sự để thực hiện các quyền tố tụng mà pháp luật quy định một cách hiệu quả, không hình thức. Ba là: Vai trò của tranh luận chính là bảo đảm sự bình đẳng và tính hiệu quả trong hoạt động tranh tụng, bảo đảm cho các chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng thực hiện một cách hiệu quả nhất chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình. TA đóng vai trò là trọng tài điều khiển việc tranh luận giữa các bên và ra phán quyết theo chức năng độc lập của mình. Tóm lại, tranh luận tại phiên tòa đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Hoạt động tranh luận thực chất là hình thức tố tụng mà trong đó các bên tham gia tố tụng thực hiện việc chứng minh có tính căn cứ và hợp pháp của cáo trạng trong vụ án hình sự. Trên cơ sở đó, TA ra phán quyết công khai tại phiên toà. Với các vai trò của tranh luận tại phiên tòa, cho dù theo mô hình tố tụng tranh tụng hay tố tụng thẩm vấn thì tính công bằng, công khai minh bạch trong hoạt động tố tụng nhằm bảo đảm tối đa quyền con người đòi hỏi xã hội phải có sự thay đổi về nhận thức và ý 12