Luận văn Tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự từ thực tiễn Thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự từ thực tiễn Thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_tranh_luan_cua_kiem_sat_vien_tai_phien_toa_so_tham.pdf
Nội dung text: Luận văn Tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự từ thực tiễn Thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DANH HUỆ TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DANH HUỆ TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. ĐINH THỊ MAI Hà Nội, năm 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực. Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào. TÁC GIẢ LUẬN VĂN
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP VỀ TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM 8 1.1. Khái niệm tranh luận và tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm 8 1.2. Mục đích, phạm vi, nội dung tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự 12 1.3. Đặc điểm của tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự 17 1.4. Lịch sử pháp luật về tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự 23 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI 30 2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự 30 2.2. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai 36 2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai 40 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA 57 3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự 57
- 3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai 60 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự HĐXX Hội đồng xét xử KSXX Kiểm sát xét xử THQCT Thực hành quyền công tố TTHS Tố tụng hình sự UBND Ủy ban nhân dân VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
- DANH MỤC BẢNG Bảng 2.2: Số vụ án hình sự xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa (2016-2020) 36 Bảng 2.6: Tình hình đội ngũ kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai 38 Bảng 2.4 Số lượng luật sư tham gia phiên tòa sơ thẩm hình sự của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2016-2020) 42 Bảng 2.3: Thống kê ý kiến tranh luận trong các phiên tòa hình sự sơ thẩm được xét xử tại TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016-2020 44 Bảng 2.5: Thống kê số vụ án hình sự sơ thẩm VKS chấp nhận quan điểm bào chữa của Luật sư (giai đoạn 2016-2020) 50
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tư pháp được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong các nội dung của Cải cách tư pháp, vấn đề chất lượng công tố, tranh tụng, và tranh luận của Kiểm sát viên được coi là một trong các giải pháp trọng tâm. Do đó, Nghị quyết 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã khẳng định “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp” trong thời gian tới đã nêu rõ phải: “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác ” [5]. Bên cạnh đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhấn mạnh việc “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [6]. Trên tinh thần đó, Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [42, Khoản 5 Điều 103]. Việc Hiến pháp 2013 ghi nhận nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự ở Việt Nam đã tạo điều kiện để triển khai việc chuyển đổi mô hình xét xử truyền thống sang mô hình tranh tụng hiện đại. Với mô hình tố tụng này, thì trình tự, thủ tục của một phiên tòa hình sự sơ thẩm có thể chia ra các giai đoạn: Thứ nhất, Bắt đầu phiên tòa; Thứ hai, Tranh tụng tại phiên tòa; Thứ ba, Nghị án và tuyên án. Tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là một thủ tục tố tụng bắt buộc, đây cũng là phần thể hiện tập trung nhất, rõ nhất nguyên tắc tranh tụng của một phiên tòa hình sự nói chung, phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng. Trong phần tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm thì hoạt động đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên là một yêu cầu khách quan từng bước đáp ứng các yêu cầu về cải cách tư pháp, Kiểm sát viên THQCT và KSXX tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là một chủ thể tham gia vào tranh luận, bắt buộc phải thực hiện tranh luận. Thành phố Biên Hoà là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật của tỉnh Đồng Nai. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, thành 1
- phố Biên Hoà có một hệ thống giao thông thuận lợi, là nơi đã và đang thu hút đông người dân về sinh sống, làm việc. Sự gia tăng dân số cũng kéo theo tình trạng các đối tượng tội phạm trà trộn, lợi dụng để hoạt động phạm tội. Theo thống kê của VKSND thành phố Biên Hòa, trong 5 năm từ 2016 đến 2020 TAND thành phố Biên Hòa đã thụ lý 3.674 vụ án hình sự sơ thẩm với 5.897 bị can (Xem Bảng 2.1 Phụ lục); đưa ra xét xử 3.154 vụ với 4.942 bị cáo, chiếm 85,85% số vụ và 83,81 bị can đã thụ lý (xem Bảng 2.2 Phụ lục). Trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, về cơ bản nguyên tắc tranh luận được bảo đảm và hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa cũng được phát huy, góp phần quan trọng vào công tác xét xử đúng người, đúng tội của Tòa án. Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót như: Còn tình trạng Kiểm sát viên tranh luận diễn đạt dài dòng, không tập trung, lý lẽ thiếu sắc bén; việc chứng minh trong quá trình tranh luận, đối đáp của một số Kiểm sát viên còn yếu, chủ yếu nhắc lại nội dung bản cáo trạng; Kiểm sát viên đối đáp tranh luận chung chung, không sử dụng các căn cứ pháp luật, các chứng cứ, tình tiết đã được thẩm vấn tại phiên toà Do đó, chất lượng và hiệu quả của hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên thành phố Biên Hòa tại phiên tòa sơ thẩm hình sự chưa cao. Về phương diện lý luận, nhận thức về tranh tụng nói chung và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự từ trước đến nay chưa thực sự thống nhất, chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống. Kết quả tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự cũng chưa được lãnh đạo ngành Kiểm sát quan tâm sơ kết, tổng kết, đánh giá một cách kịp thời, chính xác, hợp lý để rút ra những bài học kinh nghiệm, khái quát thành lý luận làm cơ sở cho việc lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên thấy rằng, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự trong giai đoạn hiện nay nhằm bổ sung, hoàn thiện lý luận, đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT nói chung, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng là vấn đề có tính cấp thiết, đáp ứng nhu cầu thực tiễn hiện nay. 2
- Từ những luận giải trên, học viên chọn vấn đề “Tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự là đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ trước đến nay, các công trình tiếp cận ở góc độ THQCT của VKSND được các tác giả quan tâm và nghiên cứu rất nhiều. Có thể kể tới các giáo trình Luật TTHS, sách và giáo trình về nghiệp vụ kiểm sát, các đề tài luận án, luận văn về hoạt động THQCT được giảng dạy và lưu hành trong hệ thống các trường Đại học Luật, trường kiểm sát. Tuy vậy, các công trình đề cập tới tranh tụng nói chung và đặc biệt là hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu. Tới thời điểm hiện tại, liên quan đến hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự có thể kể đến một số công trình sau đây: - Nguyễn Văn Điệp (2003), Tranh luận tại phiên toà - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Tư pháp, Hà Nội. - Trần Văn Độ (2003), Vai trò của tranh tụng trong hoạt động xét xử của toà án, Đề tài nghiên cứu khoa học, Bộ Tư pháp, Trường đào tạo chức danh tư pháp, Hà Nội. - Dương Thanh Biểu (2007), Bàn về việc tranh luận của kiểm sát viên tại phiên toà hình sự sơ thẩm, Nxb Tư pháp, Hà Nội. - Phan Thu Hằng (2010), Đảm bảo chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên toà xét xử các vụ án Hình sự ở tỉnh Hà Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Nguyễn Thu Hiền (2012), Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Nguyễn Công Thắng (2020), Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. 3
- - Lê Tiến Trung (2017), Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. - Bài viết “Một số kỹ năng cơ bản về đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự”,Vi Trường Xuân, Tạp chí kiểm sát online 5/2019. - Bài viết “Bàn về việc tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự sơ thẩm”, Dương Thanh Biểu, Tạp chí kiểm sát số 13/2007. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đa phần ở góc độ của tranh tụng, không nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên. Mặt khác nhiều công trình nghiên cứu trong bối cảnh Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật TTHS năm 2015 chưa được ban hành, chưa có hiệu lực pháp luật. Cũng chưa có công trình nghiên cứu thực hiện trên trong phạm vi thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Do đó, việc nghiên cứu đề tài: “Tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” là vấn đề có tính mới và không trùng lặp với các công trình đã nghiên cứu trước đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận về hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. - Đánh giá những ưu điểm, tìm ra những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa sơ thẩm hình sự từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động này trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau: - Nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa và phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, trên cơ sở đó bổ sung, góp phần hoàn thiện lý luận này. 4
- - Khảo sát thực tế, nghiên cứu, thu thập số liệu, lấy ý kiến đóng góp trực tiếp trên cơ sở đó phân tích làm rõ thực trạng tranh luận của Kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tại phiên sơ thẩm hình sự giai đoạn 2016 – 2020. Trên cơ sở đó làm rõ những kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót và xác định nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa sơ thẩm hình sự trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên VKSND tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. - Về chủ thể: Kiểm sát viên và hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. - Về không gian: Phân tích số liệu trong phạm vi thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. - Về thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung đề tài. Hệ thống quan điểm của Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật nói chung và mối quan hệ giữa pháp luật và chất lượng của Kiểm sát viên nói riêng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cũng như các 5
- quan điểm về xây dựng và thực hiện pháp luật trong thời kỳ mới. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: Phương pháp phân tích số liệu, tài liệu; phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và so sánh số liệu thống kê; phương pháp tổng kết thực tiễn; phương pháp điều tra điển hình. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về lý luận hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Đồng thời, là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật và đào tạo các chức danh tư pháp. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Là tài liệu để lãnh đạo VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tham khảo để đưa ra những chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. - Là tài liệu để các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên ngành Kiểm sát nói chung, VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tham khảo nhằm tổ chức và thực hiện tốt hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. 7. Kêt cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn được chia làm 03 chương: Chương 1. Lý luận và lịch sử lập pháp về tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toa sơ thẩm hình sự. Chương 2. Thực trạng pháp luật hiện hành về tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự và thực tiễn áp dụng tại thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai. Chương 3. Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Biên Hòa. 6
- Chương 1 LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP VỀ TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM 1.1. Khái niệm tranh luận và tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm 1.1.1. Khái niệm tranh luận Tranh luận không phải là một thuật ngữ xa lạ với đời sống con người, nhất là khi con người tham gia vào các hoạt động có tính xã hội. Thực tế trong quá trình con người tham gia vào các hoạt động học tập, lao động và các hoạt động xã hội khác nhau thì việc tranh luận vẫn diễn ra một cách thường xuyên ở bất cứ nơi đâu, giữa bất kỳ những người nào và về bất kỳ vấn đề gì. Tuy vậy, không phải ai cũng hiểu đúng về thuật ngữ tranh luận để từ đó có thể thực hiện việc tranh luận một cách đúng đắn. Đâu đó trong cuộc sống hàng ngày, có quan điểm cho rằng tranh luận đơn thuần là việc tranh cãi giữa người này với người khác, nhóm người này với nhóm người khác. Mặc dù ranh giới giữa tranh luận và tranh cãi có thể là rất mong manh, tuy vậy tranh luận và tranh cãi là hai khái niệm khác nhau. “Tranh luận” và “Tranh cãi” đều là việc dùng “lý lẽ, lý luận” để thể hiện ý, thể hiện quan điểm. Tuy vậy, chúng lại khác nhau về mục đích. Tranh cãi có mục đích bảo vệ cái tôi, cái quan điểm của mình một cách cứng nhắc, nhằm vào “cái” sơ hở, điểm yếu của bên đối lập để phản bác mà không quan tâm đến những lý lẽ hay, lý lẽ đúng do bên đối lập đưa ra. Sau tranh cãi thường đưa các bên đối lập vào tình trạng thắng thì hả hê, tự cao, tự mãn; thua thì cay cú, bực tức. Khác với tranh cãi, tranh luận hướng đến lợi ích chung đó là tìm ra sự đúng đắn của vấn đề được đưa ra bàn luận. Đề cập tới tranh luận, Đại từ điển tiếng Việt có đưa ra khái niệm: “Tranh luận là bàn cãi có phân tích lý lẽ để tìm ra lẽ phải” [71]. Như vậy, theo Từ điển tiếng Việt chúng ta có thể hiểu tranh luận là sự bàn luận, sự tranh cãi giữa các bên có quan điểm đối lập nhưng sự bàn luận, sự tranh cãi đó phải kèm theo, phải đưa ra được các lý lẽ, phân tích các lý 7
- lẽ và mục đích là để xác định lẽ phải, xác định sự đúng đắn, chính xác của vấn đề được đề cập tới trong tranh luận. Khi bàn về vấn đề tranh luận, hai Triết gia Mỹ là Scott F.Aikin và Robert B.Talisse quan điểm rằng: Tranh luận là một quá trình mà thông qua đó chúng ta chuyển tải những lý luận để ủng hộ cho những gì chúng ta tin tưởng. Mục đích của việc chuyển tải những lý luận này là để phô bày chúng ra, nhằm để cho chúng được xem xét và đánh giá. Khi chúng ta tranh luận với một quan điểm có tính chất đối lập, chúng ta cung cấp những lý luận nhằm thể hiện cho đối phương chúng ta thấy sức mạnh của những lý lẽ phía chúng ta, cũng như những điểm yếu trong lý lẽ của phía họ. Có thể thấy rằng, cách diễn đạt về mặt câu từ có thể khác nhau nhưng về mặt ngữ nghĩa thì các quan điểm đều xác định tranh luận là việc các bên có quan điểm đối lập nêu ra và chuyển tải những lý luận, lý lẽ để ủng hộ cho những gì mà họ tin tưởng là đúng, những lý luận, lý lẽ đó được phân tích một cách chính thức, rõ ràng để từng bên bảo vệ luận điểm, quan điểm của mình, mục đích cuối cùng của tranh luận là làm cho từng bên thấy được cái đúng, cái lẽ phải của vấn đề được đưa ra tranh luận. Ở đây, hai bên có quan điểm đối lập luôn ở trong tình thế sẵn sàng và dễ dàng chấp nhận lý luận đúng, lý lẽ đúng của bên kia, cũng như sẵn sàng cùng nhau phân tích, cùng nhau tư duy thêm, sâu hơn về vấn đề tranh luận theo hướng của lý luận đúng. Điều này có nghĩa rằng tranh luận là việc bàn luận và đưa ra lý lẽ để hướng tới tìm ra cái đúng đắn, tìm ra lẽ phải. Từ những sự phân tích trên, theo tác giả luận văn, tranh luận có thể được khái niệm như sau: Tranh luận là việc các bên có quan điểm đối lập đưa ra lý luận, lý lẽ và phân tích để bảo vệ quan điểm của mình nhằm mục đích xác định lẽ phải, xác định sự đúng đắn, chính xác của vấn đề được đề cập tới trong tranh luận. 1.1.2. Khái niệm tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. Về mặt lý luận, phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự, đó là hình thức hoạt động xét xử lần đầu của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc xét xử vụ án hình sự để xem xét và ra phán quyết lần đầu về toàn bộ vụ án hình sự theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Phiên tòa sơ thẩm vụ 8
- án hình sự cũng chính là nơi mà các chủ thể buộc tội và chủ thể gỡ tội thực hiện chức năng tố tụng của mình một cách công khai và đầy đủ nhất. Trình tự, thủ tục của phiên tòa hình sự sơ thẩm phụ thuộc vào mô hình tố tụng, cách thức tiến hành tố tụng của mỗi quốc gia. Hiện nay, xét về cách thức tiến hành tố tụng thì hầu hết các quan điểm đều phân chia mô hình tố tụng trên thế giới thành ba kiểu chủ yếu: Kiểu tố tụng tranh tụng, kiểu tố tụng thẩm vấn và kiểu tố tụng thẩm vấn có đan xen một số yếu tố tranh tụng. Ở Việt Nam trước đây mô hình tố tụng được thực hiện theo kiểu tố tụng thẩm vấn. Thực hiện quan điểm cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 08- NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, xác định: “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác ” [5]; Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra phương châm: “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [6] thì mô hình tố tụng đã chuyển đổi dần từ kiểu tố tụng thẩm vấn sang kiểu tố tụng thẩm vấn có đan xen một số yếu tố tranh tụng. Với mô hình tố tụng này, thì trình tự, thủ tục của một phiên tòa hình sự sơ thẩm có thể chia ra các giai đoạn: Thứ nhất, Bắt đầu phiên tòa; Thứ hai, Tranh tụng tại phiên tòa; Thứ ba, Nghị án và tuyên án. Như vậy, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là một thủ tục tố tụng bắt buộc nằm trong giai đoạn Tranh tụng tại phiên tòa, đây cũng là phần thể hiện tập trung nhất, rõ nhất nguyên tắc tranh tụng của một phiên tòa hình sự nói chung, phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng. Tại phần tranh luận, Chủ tọa phiên tòa sẽ điều hành việc tranh luận theo trình tự quy định của luật TTHS mà mục đích cuối cùng của tranh luận là nnguyêhằm làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án. Dựa trên khái niệm về tranh luận mà tác giả luận văn đã nêu ra ở mục 1.1.1, cùng với sự phân tích như trên, theo tác giả có thể hiểu tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự “là một thủ tục tố tụng bắt buộc được quy định trong luật TTHS, trong đó các bên (Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa sư và những người tham gia tố 9
- tụng khác) tham gia vào tranh luận đưa ra lý luận, lý lẽ và phân tích để bảo vệ quan điểm của mình về vụ án, về chứng cứ của vụ án để làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án nhằm góp phần cùng với HĐXX giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm”. Với mô hình tố tụng thẩm vấn có đan xen một số yếu tố tranh tụng ở Việt Nam thì đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là một yêu cầu khách quan, từng bước đáp ứng các yêu cầu về cải cách tư pháp. Trong đó, Kiểm sát viên THQCT và KSXX tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là một chủ thể tham gia vào tranh luận. Cả về mặt lý luận và thực tiễn, trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, sẽ xảy ra, sẽ xuất hiện các trường hợp, tình huống bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quan điểm đối lập với cáo trạng truy tố của VKSND, kết luận trong luận tội của Kiểm sát viên, cũng như các tình tiết, các chứng cứ đưa ra trong phiên tòa. Trong các trường hợp, tình huống đó trách nhiệm của Kiểm sát viên là phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận, lý giải để đối đáp, tranh luận đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Như vậy, một tất yếu khách quan trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là khi có quan điểm đối lập với cáo trạng, luận tội, chứng cứ mà VKSND, Kiểm sát viên nêu ra thì Kiểm sát viên THQCT và KSXX tại phiên tòa phải thực hiện tranh luận, đối đáp. Tranh luận là một thủ tục bắt buộc tại phiên tòa sơ thẩm hình sự và trách nhiệm tranh luận cũng là trách nhiệm bắt buộc của Kiểm sát viên THQCT và KSXX tại phiên tòa, “Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa” [45, Khoản 2 Điều 322]. Ở góc độ pháp luật, hiện nay luật TTHS quy định về thủ tục tranh luận và trách nhiệm tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự chứ không đưa ra khái niệm tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là gì. Trong các giáo trình được sử dụng giảng dạy tại hệ thống trường Kiểm sát cũng chưa đưa ra khái niệm. Ở góc độ tổng kết thực thực tiễn hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, tài liệu tập huấn của VKSND nhân dân tối cao về kỹ năng, đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên có đưa ra khái niệm: 10
- “Tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm về hình sự là sự trả lời, sự bàn cãi giữa Kiểm sát viên với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác nhằm làm rõ sự thật khách quan về mọi tình tiết buộc tội, tăng nặng, giảm nhẹ của vụ án, giúp cho HĐXX ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật” [69, tr.4]. Theo quan điểm của tác giả luận văn, ở khái niệm trên chưa phân định rõ nét giữa tranh luận của Kiểm sát viên với tranh luận của các chủ thể khác tại phiên tòa. Nếu là “sự trả lời, sự bàn cãi” giữa “Kiểm sát viên” với “bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác” thì nó bao hàm nhiều hơn ở ngữ nghĩa của quá trình tranh luận của cả Kiểm sát viên và của các chủ thể khác tại phiên tòa. Do đó, chưa thật sự rõ nét gắn với hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên. Theo tác giả, tranh luận của Kiểm sát viên phải là việc Kiểm sát viên đưa ra chứng cứ, dẫn chứng, phân tích, lập luận để trả lời, đối đáp lại những câu hỏi, quan điểm có tính chất đối lập với Kiểm sát viên từ phía bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Do đó, trên cơ sở phân tích lý luận và có luận giải, đánh giá như trên, theo tác giả luận văn thì “tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” có thể được khái niệm như sau: Tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là hoạt động của Kiểm sát viên giữ vai trò THQCT và KSXX tại phiên tòa ở phần tranh luận thuộc giai đoạn Tranh tụng tại phiên tòa, được thực hiện bằng việc Kiểm sát viên đưa ra quan điểm, tài liệu, chứng cứ, đồng thời phân tích, lập luận để trả lời, đối đáp ạl i những câu hỏi, quan điểm về vụ án có tính chất đối lập với Kiểm sát viên từ phía bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác để làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án, giúp cho HĐXX ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. 1.2. Mục đích, phạm vi, nội dung tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự 1.2.1. Mục đích Tranh luận tại phiên tòa là một thủ tục không thể thiếu tại phiên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Việc tranh luận tại phiên tòa được quy định nhằm đảm bảo 11
- cho vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia phiên tòa được phân tích, đánh giá chứng cứ của vụ án góp phần đề ra những biện pháp xử lý phù hợp nhất với pháp luật. Tranh luận tại phiên tòa là một trong những biện pháp nhằm thực hiện nguyên tắc tranh tụng, từ đó tìm ra sự thật dưới những cách nhìn khác nhau đem lại cái nhìn toàn diện về vụ án. Khi chức năng gỡ tội được nâng cao sẽ bình đẳng hơn với chức năng buộc tội của cơ quan buộc tội. Từ đó, làm giảm các vụ án oan sai, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người và quyền công dân. Bởi lẽ, tác động to lớn của hoạt động xét xử đem đến cho xã hội, bản thân người bị buộc tội là rất lớn, quyền tự do thân thể, tính mạng, tài sản và có những quyền khi mất đi sẽ không thể phục hồi được nên cần thực sự cẩn trọng khi đưa ra một phán quyết sao cho đúng người, đúng tội. Xét ở góc độ là một giai đoạn của một phiên tòa sơ thẩm hình sự, tranh luận được tiến hành bằng việc dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa, trên cơ sở các chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, các chủ thể thuộc bên buộc tội và bên gỡ tội đưa ra quan điểm, lập luận của mình về các tình tiết khách quan và hướng giải quyết vụ án nhằm thuyết phục HĐXX chấp nhận quan điểm của mình và bác bỏ quan điểm của phía đối lập. Mục đích của giai đoạn tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm để xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho Tòa án ra bản ản đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội. Trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, sự tham gia tranh luận của Kiểm sát viên giữ vai trò THQCT và KSXX tại phiên tòa là bắt buộc, “Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa” [45, Khoản 2 Điều 322]. Tại phiên tòa, hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên xuất phát từ các ý kiến có tính chất đối lập với quan điểm truy tố và luận tội từ VKSND và Kiểm sát viên. Tuy vậy, việc tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa không phải là vấn đề “được thua”, mà từ việc lập luận, đối đáp lại các ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ các tình tiết của vụ án, góp phần cùng Toà án đánh giá đúng bản chất sự việc. 12
- Tóm lại, mục đích hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự cũng nằm trong mục đích chung của giai đoạn tranh luận tại phiên tòa, hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự không có mục đích nào khác ngoài việc làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án nhằm góp phần cùng với HĐXX giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm. 1.2.2. Phạm vi Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là một giai đoạn trong tiến trình xét xử tại một phiên tòa. Giai đoạn tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự có giới hạn về phạm vi tranh luận. Phạm vi tranh luận tại một phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự nói chung được giới hạn về mặt không gian, thời gian và nội dung. Về mặt không gian, hoạt động tranh luận của các chủ thể tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự chỉ được thực hiện tại nơi, tại khu vực tổ chức phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đó. Không diễn ra ngoài không gian của phiên tòa. Về mặt thời gian, tranh luận được thực hiện ở giai đoạn tranh luận của phiên tòa, được tính từ thời điểm Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần xét hỏi chuyển sang phần tranh luận và tạm dừng nếu HĐXX quyết định trở lại việc xét hỏi. Tranh luận kết thúc khi Chủ tòa phiên tòa cho Bị cáo được nói lời sau cùng. Cần lưu ý rằng ở đây phạm vi về thời gian được xác định là thời gian để đánh dấu thứ tự, trình tự của giai đoạn tranh luận, chứ không phải là sự giới hạn về mặt thời gian dài hay ngắn theo bộ đếm thời gian. Bộ luật TTHS cũng đã quy định “Chủ toạ phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận ” [45, Khoản 3 Điều 322]. Về mặt nội dung, việc tranh luận của các chủ thể tham gia vào tranh luận ở giai đoạn tranh luận giới hạn trong những nội dung của vụ án, đó là tranh luận về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. 13