Luận văn Trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn Thành phố Biên Hòa

pdf 94 trang vuhoa 25/08/2022 6481
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn Thành phố Biên Hòa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_trach_nhiem_hinh_su_doi_voi_toi_co_y_gay_thuong_tic.pdf

Nội dung text: Luận văn Trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn Thành phố Biên Hòa

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VIẾT DƢƠNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VIẾT DƢƠNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRƢƠNG QUANG VINH HÀ NỘI - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Trước hết tôi gửi lời cảm ơn đến gia đình, quý thầy cô và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và tạo điều kiện để tôi hoàn thành tốt luận văn của khóa học. Xin chân thành cảm ơn thầy PGS.TS Trương Quang Vinh là người hướng dẫn đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận văn. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây. Tp.Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2018 Tác giả Nguyễn Viết Dƣơng
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm về trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác 8 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của ngƣời khác 15 1.3. Trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác đƣợc quy định tại Luật hình sự một số nƣớc 23 Chƣơng 2: TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA 29 2.1. Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác theo BLHS năm 2015 29 2.2. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của ngƣời khác 41 2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác ở TP Biên Hòa 43 Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP 53
  5. LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC 3.1. Sự cần thiết và cơ sở nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác 53 3.2. Nhận định về trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) 68 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác 70 KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANTT: An ninh trật tự. BLHS: Bộ luật hình sự. BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự. NQ: Nghị quyết. TAND: Tòa án nhân dân. TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao. TNHS: Trách nhiệm hình sự. TTATXH: Trật tự an toàn xã hội. TTTN: Tình tiết tăng nặng
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Số liệu xét xử sơ thẩm về Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác tại TP Biên Hòa. Bảng 2.2: Tổng số vụ án bị xét xử phúc thẩm và số vụ án bị xét xử phúc thẩm về Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác. Bảng 2.3 Hình phạt do Tòa án Cấp sơ thẩm áp dụng. Bảng 2.4 Hình phạt do Tòa án Cấp phúc thẩm áp dụng. Bảng 2.5: Số liệu xét xử sơ thẩm vụ án và bị cáo phạm tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2013 đến năm 2017. Bảng 2.6: Số liệu xét xử sơ thẩm vụ án và bị cáo phạm tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa từ năm 2013 đến năm 2017 Bảng 2.7: Cơ cấu tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác trong nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của ngƣời khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Bảng 2.8: Số liệu xét xử tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Bảng 2.9: Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa theo thiệt hại do tội phạm gây ra. Bảng 2.10: Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa theo công cụ thực hiện tội phạm của ngƣời phạm tội. Bảng 2.11: Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa theo phƣơng thức thực hiện tội phạm.
  8. Bảng 2.12: Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa theo hình phạt sơ thẩm. Bảng 2.13: Đặc điểm về động cơ, mục đích của ngƣời phạm tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa.
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác trong những năm trở lại đây đã và đang diễn biến hết sức phức tạp, ngày càng có nhiều chiều hƣớng gia tăng trong phạm vi cả nƣớc. Hậu quả mà các tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác là rất lớn, có thể ảnh hƣởng nghiêm trọng tới sức khỏe, tinh thần của ngƣời bị hại; ảnh hƣởng tới tình hình trật tự, an ninh của xã hội; Đặc biệt, những năm gần đây dƣới sự ảnh hƣởng nhiều của phim ảnh bạo lực và nhiều yếu tố khác tình hình tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác ngày càng diễn biến phức tạp, ngƣời phạm tội ngày càng liều lĩnh, coi thƣờng tính mạng con ngƣời cũng nhƣ coi thƣờng pháp luật. Trong đó vấn đề cần quan tâm là tình trạng thanh thiếu niên tụ tập gây mâu thuẫn để đánh nhau, các mâu thuẫn trong tranh chấp đất đai, làm ăn kinh tế, xung đột gia đình không đƣợc giải quyết tốt (đôi khi chỉ là xích mích nhỏ trong đời sống hằng ngày) đã dẫn đến việc cố ý xâm phạm sức khỏe của ngƣời khác, gây hậu quả rất lớn, tỷ lệ thƣơng tích gây ra cho ngƣời bị hại cũng rất cao, có những trƣờng hợp dẫn đến chết ngƣời, ngay cả nhiều trƣờng hợp xảy ngƣời bị hại và ngƣời gây án đều bị thƣơng tích, đều bị tổn hại. Phần lớn những ngƣời phạm tội thƣờng liên kết thành các băng, nhóm hoặc lôi kéo thêm ngƣời khác vào cùng gây mâu thuẫn để tạo cớ đánh nhau hay trả thù cá nhân (trong đó nhiều vụ mang tính chất tổ chức, tính chất xã hội đen). Đối tƣợng thƣờng sử dụng các loại hung khí nguy hiểm (dao, mã tấu, xà beng, công cụ tự chế ) để gây thƣơng tích cho ngƣời khác. Địa bàn thành phố Biên Hòa là đô thị loại I, một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội lớn của tỉnh Đồng Nai. Với dân số gần 1,2 triệu ngƣời, mật độ dân số vào khoảng 4100 ngƣời/km2 (là thành phố trực thuộc tỉnh đông dân nhất cả nƣớc), gồm 23 phƣờng và 7 xã; là địa phƣơng có số dân tạm trú, nhập cƣ biến động lớn của tỉnh, số dân có đạo là rất lớn, tập trung nhiều khu công nghiệp, có 1
  10. nhiều tuyến đƣờng huyết mạch của tỉnh cũng nhƣ của vùng đô thị TP Hồ Chí Minh, tiếp giáp với vùng ven của TP Hồ Chí Minh (Q9); tỉnh Bình Dƣơng (TX Dĩ An) Chính vì vậy, TP Biên Hòa chịu ảnh hƣởng, tác động của nhiều nguyên nhân thời kinh tế mở cửa, lại là địa bàn trọng điểm về ANTT cho nên tình hình phạm pháp hình sự và tệ nạn xã hội ở TP Biên Hòa luôn diễn biến hết sức phức tạp. Tính trung bình hàng năm có khoảng 1.200 vụ phạm pháp hình sự xảy ra, trong đó hơn 100 là các vụ án cố ý gây thƣơng tích. Tính riêng trong năm 2016 đã có hơn 1.200 vụ phạm pháp hình sự và 101 vụ cố ý gây thƣơng tích, để lại thƣơng tật cho nhiều ngƣời, tiêu hao nhiều thời gian, tiền bạc của nhân dân, đặc biệt trong đó có nhiều vụ mang tính chất tổ chức, xã hội đen, thanh toán giữa các băng nhóm, vấn đề này đã gây ra tâm lý hoang mang, lo sợ cho quần chúng nhân dân, làm ảnh hƣởng đến tình hình ANTT địa phƣơng nói riêng và tỉnh Đồng Nai nói chung. Trong khi đó, công tác xử lý các vụ, các đối tƣợng cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác xảy ra nhiều bất cập, gặp nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật hình sự, một số quy định pháp luật hình sự còn mang tính bất cập gây khó khăn trong quá trình vận dụng. Tuy đã có nhiều văn bản hƣớng dẫn giải quyết một số vƣớng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội này nhƣ: Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội nhiều lần đối với cùng một ngƣời hoặc đối với nhiều ngƣời; phạm tội đối với ngƣời khác không có khả năng tự vệ; phạm tội có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; nhƣng trong quá trình vận dụng các quy định pháp luật hình sự cũng nhƣ các văn bản hƣớng dẫn về tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác vẫn còn có cách hiểu khác nhau, chƣa thật sự thống nhất; xét xử phúc thẩm đối với tội này có tỷ lệ cao, phần lớn nguyên nhân phải xét xử phúc thẩm là do có kháng cáo, kháng nghị về việc áp dụng hình phạt chƣa thỏa đáng với hành vi phạm tội, áp dụng hình phạt nặng hơn so với quy định của BLHS, việc giám định tỷ lệ thƣơng tích còn có nhiều bất cập; có những trƣờng hợp định sai tội danh dẫn đến tỷ lệ án sửa, án hủy còn cao Một số vụ án vẫn bị kéo dài do chờ kết quả giám định tỷ lệ thƣơng tích, do việc xác định tỷ lệ thƣơng tích trong những 2
  11. vụ có nhiều đối tƣợng cùng gây án diễn ra khó khăn, phức tạp. Việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của ngƣời bị hại xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp nhƣ đối tƣợng có thể mua chuộc, đe dọa ngƣời bị hại dẫn đến ngƣời bị hại không dám yêu cầu khởi tố đối tƣợng; Việc nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đối với loại tội phạm này trên địa bàn TP Biên Hòa nhằm tổng kết lại thực tiễn, tìm ra nguyên nhân, vƣớng mắc về thực tiễn và lý luận, rút ra kinh nghiệm, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự là một đòi hỏi hết sức cấp bách đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm đảm bảo sự ổn định về TTATXH, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của thành phố nói riêng và tỉnh Đồng Nai nói chung. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn trên, xét thấy cần phải nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ hơn về tội phạm này, đó cũng là lý do tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa” làm luận văn tốt nghiệp cao học luật chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Dƣới góc độ Luật hình sự hiện nay, theo khảo sát của tác giả đã có nhiều công trình nghiên cứu về Tội phạm cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác. "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm)”, của GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003; “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần tội phạm)”, của PGS.TS Đỗ Đình Hòa (chủ biên), Nxb Tổng cục XDLL CAND, Hà Nội, 2009; "Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người" của tác giả PGS.TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự. Tập 1, Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người: Bình luận chuyên sâu", của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, trong đó có đề cập đến tội phạm này. Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu về những vấn đề lý luận cũng nhƣ làm rõ các đặc trƣng pháp lý, phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác theo quy định của BLHS, nghiên cứu những vấn đề, các tình 3
  12. tiết còn có nhận thức khác nhau của BLHS Tuy nhiên các công trình này chƣa đi sâu, làm rõ những quy định về các tình tiết cụ thể của Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác, chƣa đƣa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của luật về tội phạm này cũng nhƣ chƣa có nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm này. Về nghiên cứu khoa học: “Các tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của ngƣời khác trong luật hình sự Việt Nam”, của Lê Đình Tĩnh, luận văn thạc sĩ luật học, khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014; “Tội ố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của ngƣời khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam”, của Đặng Thị Hƣơng Dung, luận văn thạc sĩ, khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2015;"Đặc điểm tội phạm học của tội phạm cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác ở Việt Nam hiện nay và các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa", của Nguyễn Hữu Cầu, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 2002; “Một số vấn đề về tình tiết: Cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác thuộc trƣờng hợp đặc biệt nghiêm trọng”, của Đinh Văn Quế, bài báo khoa học, Tạp chí TAND kỳ I tháng 09/2010 (số 17). Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề nhƣ đã nói ở trên là đáp ứng với đòi hỏi của cả lí luận và thực tiễn. Theo khảo sát của tác giả trong những năm gần đây chƣa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề nhƣ đã nói ở trên là đáp ứng với đòi hỏi của cả lí luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ vấn đề trách nhiệm hình sự, các đặc điểm pháp lý của Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác cũng nhƣ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này, từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp 4
  13. luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này trên địa bàn thành phố Biên Hòa. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài cần phải tập trung thực hiện một số vấn đề sau: + Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý về trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác. + Nghiên cứu các quy định của BLHS hiện hành về Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác. + Nghiên cứu quy định về tội phạm này của Luật hình sự một số nƣớc. + Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác tại thành phố Biên Hòa. + Đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của Luật hình sự nói chung và trách nhiệm hình sự nói riêng về tội phạm này và đƣa ra các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này trên địa bàn thành phố Biên Hòa. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: + Các quy định về trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác theo BLHS năm 1999. + Thực tiễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác ở thành phố Biên Hòa. + Quy định về trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác theo BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác và thực tiễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác ở thành phố Biên Hòa từ năm 2013 đến năm 2017. 5
  14. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể sau: + Phƣơng pháp thống kê: đƣợc tác giả sử dụng để thống kê các số liệu thu thập đƣợc và đƣợc sử dụng chủ yếu để làm rõ thực trạng của tình hình Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác ở thành phố Biên Hòa trong chƣơng 2 của luận văn. + Phƣơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: đƣợc sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm làm rõ các vấn đề lý luận, pháp lý, so sánh giữa tội phạm này với một số tội phạm khác, làm rõ các kết quả đạt đƣợc, các hạn chế, nguyên nhân các hạn chế trong thực tiễn áp truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác ở thành phố Biên Hòa. + Phƣơng pháp nghiên cứu án điển hình: đƣợc sử dụng chủ yếu tại chƣơng 2 nhằm làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác ở TP Biên Hòa. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận khoa học về Tội phạm cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác. Đây là tài liệu có thể dùng trong công tác nghiên cứu, học tập, tham khảo. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể đƣợc nghiên cứu, sử dụng trong thực tiễn chỉ đạo và tiến hành hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Luận văn là công trình khoa học đầu tiên khảo sát một cách toàn diện và sâu sắc về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác ở thành phố Biên Hòa từ năm 2013 đến năm 2017. Làm rõ những kết quả đạt đƣợc, các hạn chế, nguyên nhân những hạn chế, thiếu sót của hoạt động trên, từ đó đề xuất các kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao 6
  15. hiệu quả hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này ở thành phố Biên Hòa. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn đƣợc cấu trúc gồm 3 chƣơng. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác. Chương 2: Trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác theo Bộ luật Hình sự và thực tiễn áp dụng tại TP Biên Hòa. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp luật hình sự đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác. 7
  16. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC 1.1. Khái niệm, đặc điểm về trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác 1.1.1. Khái niệm về trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác TNHS là một thuật ngữ khoa học luật hình sự. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều nhóm quan điểm khác nhau về TNHS, chƣa có một khái niệm thống nhất về TNHS, có thể xét một số quan điểm nhƣ sau: Nhóm quan điểm thứ nhất: TNHS là việc thực hiện biện pháp chế tài pháp lý hình sự, nó phát sinh từ khi áp dụng hình phạt nhất định đối với ngƣời, pháp nhân phạm tội. Nhóm quan điểm này chỉ đánh giá TNHS trên cơ sở hình phạt áp dụng đối với ngƣời, pháp nhân phạm tội (có sự đồng nhất giữa TNHS với hình phạt) và vô tình đã làm hẹp nội dung của TNHS. Nhóm quan điểm thứ hai: TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của Nhà nƣớc và ngƣời, pháp nhân phạm tội, điều này đƣợc thể hiện thông qua các biện pháp tác động có tính chất pháp lý hình sự đƣợc quy định trong luật hình sự và áp dụng đối với ngƣời, pháp nhân thực hiện tội phạm, bao gồm hình phạt và các biện pháp tác động có tính chất pháp lý hình sự khác không phải hình phạt, đƣợc bắt đầu từ khi truy cứu TNHS đối với một ngƣời, pháp nhân thực hiện tội phạm. Vấn đề đặt ra ở quan điểm này là còn nhiều mâu thuẫn trong xác định thời điểm phát sinh TNHS và thời điểm bắt đầu thực hiện TNHS (ngƣời phạm tội chính thức phải chịu trách nhiệm hình sự trƣớc Nhà nƣớc). Nhóm quan điểm thứ ba: TNHS là một loại quan hệ pháp luật giữa Nhà nƣớc và ngƣời, pháp nhân phạm tội. TNHS là nghĩa vụ phải chịu các biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc của ngƣời, pháp nhân phạm tội do việc ngƣời, pháp nhân đó thực hiện 8
  17. tội phạm. Thời điểm ngƣời phạm tội thực hiện tội phạm là thời điểm bắt đầu TNHS. Quan điểm này đã đồng nhất giữa nghĩa vụ phải chịu TNHS cũng nhƣ quá trình truy cứu TNHS do các cơ quan điều tra, viện kiểm sát với TNHS mà một ngƣời, pháp nhân phải chịu trên thực tế do việc thực hiện tội phạm. Nhóm quan điểm thứ tư: TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự và đƣợc thể hiện trƣớc hết ở việc kết án của Tòa án, nhân danh Nhà nƣớc, đối với ngƣời, pháp nhân phạm tội. Theo đó, quan điểm này không thể hiện đƣợc vấn đề án tích là TNHS, trong khi đó, án tích cũng là một phần TNHS mà ngƣời, pháp nhân phạm tội phải chịu trong một khoảng thời gian nhất định do hành vi phạm tội của mình gây ra. Trong các quan điểm trên không có quan điểm nào mang tính toàn diện, đầy đủ mà chỉ mang tính tƣơng đối chƣa thể hiện hết bản chất, cũng nhƣ nội hàm vốn có của thuật ngữ TNHS. Vậy để đánh giá và đƣa ra một nhận thức đầy đủ về TNHS chúng ta cần dựa vào cơ sở của TNHS. Theo quy định tại Điều 2, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): “1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. 2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.” Về cơ bản có một khái niệm nhƣ sau: “TNHS là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình” [27, tr.218]. Khái niệm này có thể nói là tƣơng đối giải thích đầy đủ nội hàm của TNHS. Đây là căn cứ bắt buộc chung mà dựa vào đó Nhà nƣớc, thông qua các cơ quan đại diện có thể truy cứu, áp dụng TNHS đối với ngƣời, pháp nhân nào đó thực hiện tội phạm. Đến đây có thể rút ra khái niệm cơ bản về TNHS nhƣ sau: TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý mà người, pháp nhân phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc người, pháp nhân đó thực hiện tội phạm. TNHS là kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự theo đúng trình tự tố tụng hình sự, điều đó được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án áp dụng đối 9
  18. với người, pháp nhân phạm tội có hiệu lực pháp luật và án tích đối với người, pháp nhân đó. Để xác định TNHS đối với tội phạm nói chung và Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác nói riêng, có hai vấn đề cần phải làm rõ đó chính là cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn: Thứ nhất, cơ sở pháp lý quan trọng để xác định TNHS đối với ngƣời, pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội đó chính là cấu thành tội phạm, nó bao gồm: dấu hiệu hành vi thuộc mặt khách quan, dấu hiệu lỗi thuộc mặt chủ quan, dấu hiệu năng lực TNHS thuộc yếu tố chủ thể tội phạm. Đây là cơ sở quan trọng để xác định hành vi của một ngƣời, pháp nhân có phải là tội phạm hay không và phải chịu TNHS về tội nào trong BLHS. Nhƣng chỉ dựa vào cấu thành tội phạm để truy cứu TNHS thì chƣa đủ, ý kiến của PGS.TS Trần Văn Độ cho rằng: “Quan điểm cho rằng cấu thành tội phạm là cơ sở của TNHS duy nhất là hoàn toàn sai lầm vì tự mình cấu thành tội phạm không thể là cơ sở làm phát sinh TNHS”. Đúng nhƣ vậy, tại Khoản 2,3, Điều 14 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “2. Người chuẩn bị phạm một trong các tội sau đây thì phải chịu trách nhiệm hình sự: a) Điều 108 (tội phản bội Tổ quốc); Điều 110 (tội gián điệp); Điều 111 (tội xâm phạm an ninh lãnh thổ); Điều 112 (tội bạo loạn); Điều 113 (tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 114 (tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều 117 (tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng h òa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều 118 (tội phá rối an ninh); Điều 11 9 (tội chống phá trại giam); Điều 120 (tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 121 (tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân); b) Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); c) Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); 10
  19. d) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 300 (tội tài trợ khủng bố); Điều 301 (tội bắt cóc con tin); Điều 302 (tội cướp biển); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 324 (tội rửa tiền). 3. Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này thì phải chịu trách nhiệm hình sự”. Dù chuẩn bị phạm tội thì chƣa thể thực hiện đầy đủ các dấu hiệu đƣợc quy định trong cấu thành tội phạm nhƣng vẫn phải chịu TNHS. Chính vì vậy, chúng ta cần phải có thêm cơ sở thứ hai trong việc xác định TNHS đối với ngƣời, pháp nhân đã thực hiện hành vi phạm tội. Thứ hai, con ngƣời, pháp nhân chỉ phải chịu TNHS nếu họ đã thực hiện hành vi đƣợc quy định trong BLHS là tội phạm. Điều này có nghĩa là một ngƣời, pháp nhân có thể phải chịu TNHS nếu hành vi của họ có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm. Hay nói cách khác, nếu cấu thành tội phạm là điều kiện cần của TNHS thì hành vi phạm tội là điều kiện đủ, vì khi hành vi đã thỏa mãn tất cả những dấu hiệu của cấu thành tội phạm thì đã có đầy đủ cơ sở để có thể buộc họ phải chịu TNHS mà không đòi hỏi gì thêm. Nhƣng hành vi phạm tội rất đa dạng có thể là tổ chức, giúp sức hoặc chỉ là chuẩn bị phạm tội, chính vì vậy, trên thực tế phải dựa vào các quy định khác trong BLHS quy định về hành vi nguy hiểm cho xã hội phải chịu TNHS về tội phạm tƣơng ứng đƣợc quy định trong BLHS. Nhƣ vậy, cơ sở của việc truy cứu TNHS là hành vi phạm tội (cơ sở thực tiễn) thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm (cơ sở pháp lý) đƣợc BLHS quy định. Vậy theo quan điểm của tác giả thì khái niệm TNHS đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác là hậu quả pháp lý mà ngƣời thực hiện hành vi bị coi là tội phạm cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác phải gánh chịu trƣớc Nhà nƣớc, là kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác, theo đúng trình tự tố tụng hình sự, đƣợc thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án áp dụng đối với ngƣời phạm tội có hiệu lực pháp luật và án tích đối với ngƣời đó. Trong đó, cơ sở thực tiễn là hành vi phạm tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác thỏa mãn các dấu hiệu 11
  20. của cấu thành tội phạm của Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác, các quy định khác của BLHS (trong trƣờng hợp chƣa đủ các yếu tố cấu thành Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác nhƣng thỏa mãn các quy định khác của BLHS nhƣ: chuẩn bị phạm tội; đồng phạm nghĩa là ngƣời đó vẫn phải chịu TNHS về Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác, tƣơng ứng với hành vi mà ngƣời đó đã thực hiện). 1.1.2. Đặc điểm về trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Từ khái niệm đƣa ra, TNHS đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác có những đặc điểm sau: Đặc điểm thứ nhất, TNHS đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác đƣợc BLHS quy định là tội phạm, nghĩa là hành vi đó thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác thì ngƣời thực hiện hành vi mới phải chịu TNHS, không thể buộc một ngƣời nào đó không thực hiện hành vi cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe ngƣời khác phải chịu TNHS về Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác. Đặc điểm thứ hai, TNHS đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác là trách nhiệm của cá nhân ngƣời phạm tội phải gánh chịu trực tiếp trƣớc Nhà nƣớc và chỉ đặt ra đối với các nhân ngƣời phạm tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác chứ không thể là ngƣời nào đó không phạm tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác, không thể là pháp nhân hay tổ chức nào khác. Vấn đề TNHS đối với pháp nhân không còn là khái niệm xa lạ trong khoa học pháp lý ở Việt Nam, song TNHS đối với pháp nhân không thể áp dụng với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác. Trong trƣờng hợp tội phạm này đƣợc thực hiện do ngƣời đại diện pháp nhân vì lợi ích của pháp nhân thì TNHS đối với Tội cố 12
  21. ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác cũng chỉ áp dụng đối với cá nhân ngƣời phạm tội. TNHS mà ngƣời phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm đối với Nhà nƣớc chứ không phải đối với ngƣời mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại. Ngƣời phải chịu TNHS về Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác là ngƣời thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đạt độ tuổi chịu TNHS về tội này và có đủ năng lực TNHS. Trong trƣờng hợp đồng phạm thì từng đồng phạm phải chịu TNHS độc lập và TNHS là tƣơng ứng với mức độ câu kết trong đồng phạm, tính chất, mức độ và hành vi thực tế tham gia vào việc cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác. Đặc điểm thứ ba, TNHS đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác đƣợc thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, hình phạt và một số biện pháp cƣỡng chế hình sự khác đƣợc quy định trong BLHS. Nó thể hiện mối quan hệ giữa ngƣời phạm tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác và Nhà nƣớc (thông qua các cơ quan đƣợc giao thẩm quyền), đƣợc thể hiện đầu tiên bằng việc Tòa án nhân danh Nhà nƣớc đƣa ra bản án kết tội đối với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác. Nhƣng nhƣ vậy vẫn chƣa đủ cơ sở để ngƣời phạm tội phải chịu TNHS, chỉ đến khi bản án có hiệu lực pháp luật thì ngƣời phạm tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác mới phải chịu TNHS mà không phụ thuộc vào việc trong bản án có hình phạt hoặc miễn hình phạt, có biện pháp cƣỡng chế hoặc không có biện pháp cƣỡng chế theo luật định. Ngay khi bản án kết tội của Tòa án đối với ngƣời phạm tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác có hiệu lực pháp luật thì ngƣời phạm tội đƣợc xem bắt đầu phải chịu TNHS về hành vi cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác mà ngƣời đó đã thực hiện, bởi vì, khi đó bản án kết tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác của Tòa án chính là hậu quả pháp lý mà ngƣời phạm tội phải chịu trƣớc Nhà nƣớc và án tích đối với Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại 13