Luận văn Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở các số liệu địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh)

pdf 102 trang vuhoa 25/08/2022 6880
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở các số liệu địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_trach_nhiem_hinh_su_cua_nguoi_chua_thanh_nien_pham.pdf

Nội dung text: Luận văn Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở các số liệu địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ NGỌC THƢƠNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ CÁC SỐ LIỆU ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. CHU THỊ TRANG VÂN HÀ NỘI - 2013
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Dƣơng Thị Ngọc Thƣơng
  3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục ký hiệu viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 8 1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 8 1.1.1 Trách nhiệm pháp lý 8 1.1.2 Trách nhiệm hình sự và các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự 8 1.1.3 Cơ sở của trách nhiệm hình sự 10 1.2 NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 11 1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của ngƣời chƣa thành niên 11 1.2.2 Khái niệm trách nhiệm hình sự của ngƣời chƣa thành niên phạm tội 15 1.3 SƠ LƢỢC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 18 1.3.1 Giai đoạn từ khi sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự đầu tiên năm 1985 18 1.3.2 Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay 20
  4. 1.4 TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI 23 1.4.1 Trách nhiệm hình sự của ngƣời chƣa thành niên trong pháp luật Quốc tế 23 1.4.2 Quy định về trách nhiệm hình sự của ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự của một số nƣớc trên thế giới 24 Chƣơng 2: TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN TRUY TỐ, XÉT XỬ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THỜI GIAN QUA 29 2.1. NGUYÊN TẮC XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2009) 29 2.1.1. Các nguyên tắc xử lý đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội quy định tại Điều 69 BLHS 29 2.1.2. Các quy định cụ thể về trách nhiệm hình sự đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự hiện hành 36 2.2. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THỜI GIAN QUA VÀ THỰC TIỄN TRUY TỐ, XÉT XỬ 54 2.2.1. Phân tích tình hình tội phạm do ngƣời chƣa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007 - 2011 54 2.2.2. Thực tiễn truy tố, xét xử NCTN phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007 - 2011 62
  5. Chƣơng 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 68 3.1 HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 70 3.1.1 Hoàn thiện việc áp dụng các hình phạt đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội 70 3.1.2 Hoàn thiện việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội 72 3.2 HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 74 3.2.1 Hoàn thiện việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội 74 3.2.2 Hoàn thiện việc tổng hợp hình phạt trong trƣờng hợp phạm nhiều tội của ngƣời chƣa thành niên: 75 3.2.3 Hoàn thiện quy định pháp luật hình sự trong trƣờng hợp ngƣời chƣa thành niên phạm tội có nhiều bản án 80 3.2.4 Bổ sung điều luật quy định quyết định hình phạt trong trƣờng hợp ngƣời chƣa thành niên phạm tội nhiều lần, phạm tội liên tục 82 3.2.5 Hoàn thiện quy định liên quan đến quyết định hình phạt cho ngƣời chƣa thành niên trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chƣa đạt 82 3.3 HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỜI HIỆU TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ THỜI HIỆU THI HÀNH BẢN ÁN ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 84 3.4 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ KHÁC 84 KẾT LUẬN 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
  6. DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự NCTN: Ngƣời chƣa thành niên TNHS: Trách nhiệm hình sự TAND: Toà án nhân dân VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
  7. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Số lƣợng NCTN bị khởi tố theo hai nhóm tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh 56 Bảng 2.2: Các nhóm tội phạm của NCTN thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh 57 Bảng 2.3: Trình độ học vấn của NCTN phạm tội tại thành phố Hồ Chí Minh 58 Bảng 2.4: Hoàn cảnh gia đình của NCTN phạm tội tại thành phố Hồ Chí Minh 59 Bảng 2.5: Tỷ lệ NCTN mới tái phạm lần đầu tại thành phố Hồ Chí Minh 60 Bảng 2.6: Đồng phạm với NCTN phạm tội tại thành phố Hồ Chí Minh 61 Bảng 2.7: Phân tích tình hình áp dụng các biện pháp chế tài đối với NCTN phạm tội 63 Bảng 2.8: Thống kê một số tội danh do NCTN thực hiện do VKSND thành phố Hồ Chí Minh truy tố 64 Bảng 2.9: Các vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là NCTN và áp dụng các biện pháp tha miễn TNHS và hình phạt của TAND thành phố Hồ Chí Minh 66
  8. MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Ở nƣớc ta trong những năm qua, hệ thống pháp luật và việc thực thi pháp luật đã có những tác động rõ rệt đối với đời sống của toàn xã hội. Những quy định trong Hiến pháp, trong các luật và văn bản dƣới luật luôn đề cao tính nhân đạo và nhân văn bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của Nhà nƣớc. Hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các quyền và lợi ích cơ bản của con ngƣời, của công dân, bảo vệ Nhà nƣớc và chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong đó, cùng với các ngành luật khác, pháp luật hình sự là một trong những công cụ hết sức quan trọng của Đảng và Nhà nƣớc ta trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội khi phát sinh hành vi nguy hiểm cho xã hội. Luật hình sự có vai trò bảo vệ các quan hệ xã hội đƣợc các luật khác thiết lập, đồng thời thực hiện vai trò bảo vệ thông qua việc trừng phạt nghiêm minh các hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, nền kinh tế nƣớc ta phát triển theo kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa đã đạt đƣợc những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ nhƣ: ứng phó có kết quả trƣớc những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nƣớc; cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ phát triển đạt đƣợc mức khá cao, GDP trên đầu ngƣời năm 2012 đã vƣợt mức 1.300 USD. Đời sống của nhân dân tiếp tục đƣợc cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh đƣợc tăng cƣờng; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đƣợc giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế đƣợc mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nƣớc ta ngày càng đƣợc nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt đƣợc, nƣớc ta vẫn còn 1
  9. gặp nhiều khó khăn và thách thức to lớn nhƣ tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã tác động, ảnh hƣởng nhất định đến đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của nƣớc ta. Nguy cơ phá vỡ các nền văn hóa truyền thống của dân tộc, nhất là các truyền thống văn hóa nhân văn nhƣ: lối sống, đạo đức, nghệ thuật, bởi quá trình toàn cầu hóa đã tạo điều kiện cho các dòng văn hóa thác loạn, lối sống không tốt của các nƣớc tràn ngập vào ồ ạt, bất khả kháng không thể chặn nổi. Trong đó, thanh niên và NCTN là đối tƣợng dễ bị tác động nhất. Đối với mỗi quốc gia thanh niên bao giờ cũng giữ một vai trò hết sức to lớn, họ là sức sống hiện tại và tƣơng lai của dân tộc. Thanh niên luôn là lực lƣợng chiến lƣợc mà mỗi quốc gia, dân tộc quan tâm đầu tƣ, phát triển. Sinh thời, Bác Hồ đã dạy “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên” và tƣơng lai đất nƣớc “Việt Nam có được vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần rất lớn ở công học tập của các cháu”. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa X về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đã xác định mục tiêu chung “Tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa, vì cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động tập thể, trở thành những công dân tốt của đất nước ”. Trong phạm vi cả nƣớc thực tế vấn đề NCTN phạm tội đã gióng lên những hồi chuông cảnh tỉnh đáng báo động. Cụ thể, theo số liệu thống kê của Bộ Công an trong năm 2010, toàn quốc có 13.572 đối tƣợng phạm tội là thanh thiếu niên, tăng nhiều lần so với những năm trƣớc về số lƣợng phạm tội và cả 2
  10. các vụ trọng án. Về độ tuổi, theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thì tình hình tội phạm do NCTN từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi thực hiện có chiều hƣớng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 60%; từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi chiếm khoảng 32% và dƣới 14 tuổi chiếm khoảng 8% trong tổng số các vụ phạm tội do NCTN và trẻ em thực hiện. Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị lớn của đất nƣớc, là trung tâm kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa của khu vực phía Nam, với dân số trên 8 triệu ngƣời, hàng năm thu hút số lƣợng lớn ngƣời lao động, học sinh, sinh viên từ những tỉnh thành khác đổ về thành phố để tìm kiếm việc làm và học tập. Do đó, đã tạo ra một áp lực lớn cho thành phố về mật độ dân cƣ, đời sống vật chất, tinh thần của ngƣời dân và nhất là tình hình an ninh trật tự diễn biến ngày càng phức tạp. Số lƣợng NCTN phạm tội có chiều hƣớng gia tăng trong những năm gần đây, theo thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật, từ năm 2007 đến năm 2011 trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã đƣa ra khởi tố và xử lý 1.680 vụ phạm tội các loại, với 3.779 bị can. Trong đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định khởi tố 184 vụ án do NCTN thực hiện, chiếm 10,9% trong tổng số vụ án. Số bị can là NCTN có 310 ngƣời, chiếm 8,2% trong tổng số bị can. Về tính chất, mức độ phạm tội của NCTN ngày càng nghiêm trọng hơn, thủ đoạn hoạt động tinh vi, xảo quyệt hơn, đa dạng, sử dụng nhiều loại phƣơng tiện công cụ nguy hiểm, gây ra hậu quả rất nghiêm trọng. Từ các vấn đề trên, Tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “TNHS của NCTN phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở các số liệu địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Qua đó, nghiên cứu một cách toàn diện về TNHS của NCTN phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, đồng thời kiến nghị những giải pháp khắc phục nhằm hƣớng tới một hệ thống pháp luật hình sự ngày càng hoàn thiện hơn, nhân văn hơn. 3
  11. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Trong thời gian gần đây đã có một số công trình nghiên cứu khoa học trực tiếp hoặc gián tiếp nghiên cứu đến đề tài này, hoặc nghiên cứu ở trong tƣơng quan là một phần, một mục trong các sách giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận khoa học hoặc đề cập chung khi các nhà làm luật nghiên cứu về TNHS. Về sách bình luận khoa học, sách chuyên khảo, sách giáo trình có các nghiên cứu: “Chương XVIII – Những đặc thù về TNHS đối với NCTN phạm tội” trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), NXB Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2007, TS. Trịnh Quốc Toản, TS. Hoàng Văn Hùng; “Chương XVI – TNHS đối với NCTN phạm tội”, trong sách giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Tập thể Tác giả do GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ biên). Đối với các công trình dƣới dạng bài viết đƣợc đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý có thể kể đến các công trình nhƣ: bài viết “Tư pháp hình sự đối với NCTN; Những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học (Phấn thứ I, những khía cạnh pháp lý hình sự)” của GS.TSKH Lê Văn Cảm và TS. Đỗ Thị Phƣợng đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20-10/2004; ThS. Nguyễn Thanh Trúc có bài viết “Biện pháp miễn chấp hành có điều kiện thời hạn còn lại của hình phạt tù đối với NCTN phạm tội” trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 20 (136) tháng 12/2008. Một số đề tài luận văn thạc sĩ cũng đã khai thác nghiên cứu các khía cạnh của vấn đề về khoa học Luật hình sự hoặc Tội phạm học nhƣ: đề tài “TNHS của NCTN phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam” của Trần Văn Dũng, trƣờng Đại học Luật Hà Nội, năm 2003; đề tài “Bảo đảm quyền con người của NCTN phạm tội bằng các quy định về hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam” của Lê Vũ Huy, trƣờng Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011. 4
  12. Các công trình nghiên cứu nói trên đã đóng góp không nhỏ vào hệ thống khoa học pháp lý đối với NCTN nói chung cũng nhƣ khoa học pháp lý hình sự về NCTN nói riêng. Các nghiên cứu đó hoặc tiếp cận dƣới góc độ khoa học pháp lý chung, hoặc khoa học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự hoặc Tội phạm học. Tuy nhiên, vẫn chƣa có công trình nào đề cập có hệ thống, toàn diện và đồng bộ về TNHS của NCTN phạm tội và đƣợc gắn trên phạm vi một địa bàn lớn của cả nƣớc là thành phố Hồ Chí Minh, xét ở cấp độ một luận văn thạc sĩ Luật. Do đó, với vai trò vừa là một cán bộ Đoàn, vừa là Hội thẩm nhân dân đƣợc thƣờng xuyên tham gia vào các phiên tòa để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NCTN phạm tội, Tác giả lựa chọn đề tài này nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, Tác giả cũng đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc đƣợc nhiều tri thức từ các công trình nghiên cứu trƣớc đó trong việc hoàn thiện nghiên cứu khoa học của mình. 3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về TNHS của NCTN phạm tội theo BLHS Việt Nam hiện hành, trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2007 đến năm 2011. Xác định những hạn chế trong việc áp dụng các quy định về TNHS của NCTN phạm tội, từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện chế định này trong BLHS Việt Nam hiện hành. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu: Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về TNHS của NCTN phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam. Trong đó tập trung nghiên cứu khái quát về TNHS, TNHS của NCTN, các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về TNHS của NCTN và thực tiễn xét xử NCTN phạm tội tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 5
  13. Thứ hai, nghiên cứu TNHS của NCTN phạm tội trong luật hình sự Việt Nam hiện hành. Trong đó làm rõ các nguyên tắc xử lý, quy định hình phạt và các biện pháp tƣ pháp áp dụng với NCTN phạm tội. Thứ ba, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu TNHS của NCTN phạm tội, luận văn có một số giới hạn về phạm vi nghiên cứu cụ thể nhƣ sau: Thứ nhất, về địa bàn nghiên cứu Tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thông qua thực tiễn xét xử trong vòng 5 năm từ năm 2007 đến năm 2011. Thứ hai, về số liệu thống kê dựa theo số liệu của VKSND thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả giới hạn số liệu thống kê về tình hình các vụ án do NCTN thực hiện đƣợc đƣa ra xét xử trên 24 Quận Huyện của thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 5 năm (2007 – 2011). Số liệu đƣợc Tác giả thu thập từ VKSND thành phố Hồ Chí Minh. 4. CƠ SỞ PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Cơ sở phƣơng pháp luận Cơ sở phƣơng pháp luận đƣợc sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài là Phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác Lê Nin và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề thanh niên, giáo dục thanh niên. 4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu đặc thù, phổ biến của khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật hình sự nói riêng nhƣ: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, lịch sử, nghiên cứu số liệu, nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. 6
  14. 5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ GIÁ TRỊ ỨNG DỤNG CỦA ĐỀ TÀI Từ thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh việc nghiên cứu đã góp phần hoàn thiện các quy định của Luật hình sự Việt Nam và là cơ sở cho việc nhận thức một cách đúng đắn nhất về TNHS của NCTN phạm tội. Đề tài làm rõ TNHS của NCTN phạm tội nhằm nâng cao tính khả thi, hiệu quả của pháp luật hình sự Việt Nam; góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN phạm tội. Đề tài cũng có giá trị là công trình khoa học tham khảo cho các sinh viên, học viên trong ngành Luật học, chuyên ngành Luật hình sự, Tội phạm học. 6. CƠ CẤU LUẬN VĂN Cơ cấu Luận văn đƣợc quyết định bởi mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu nên ngoài Lời cám ơn; Danh mục ký hiệu viết tắt; Lời mở đầu; Danh mục tài liệu tham khảo; Mục lục luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng nội dung nhƣ sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về TNHS của NCTN phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: TNHS của NCTN phạm tội theo BLHS Việt Nam hiện hành và thực tiễn truy tố, xét xử NCTN phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua. Chương 3: Hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam về TNHS của NCTN phạm tội. 7
  15. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 1.1.1 Trách nhiệm pháp lý Trong đời sống xã hội, chính trị và pháp lý “trách nhiệm” đƣợc hiểu theo hai nghĩa tƣơng đồng, thống nhất nhƣ sau: Một là, theo từ điển tiếng Việt “trách nhiệm” có nghĩa là điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận về phía mình. Hai là, “trách nhiệm” là hậu quả bất lợi do hành vi của một ngƣời gây ra, vi phạm bổn phận, nghĩa vụ và ngƣời đó phải gánh chịu trƣớc ngƣời khác, trƣớc Nhà nƣớc. Trách nhiệm pháp lý đƣợc đặt ra tùy theo tính chất vi phạm của hành vi đó đối với từng nhóm quan hệ xã hội khác nhau đƣợc pháp luật bảo vệ, bao gồm các nội dung nhƣ: trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, TNHS v.v Dƣới góc độ khoa học pháp lý “Trách nhiệm pháp lý được hiểu là hậu quả bất lợi của một chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu và được thể hiện bằng một hay nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được pháp luật quy định” [65, tr.41] 1.1.2 Trách nhiệm hình sự và các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự Thuật ngữ “TNHS” không đƣợc ghi nhận dƣới dạng định nghĩa nhƣng tinh thần của chế định TNHS lại đƣợc ghi nhận trực tiếp tại Điều 2, Điều 8 và Điều 16 BLHS và gián tiếp nhƣ là sự liên kết xuyên suốt các quy định của phần chung và phần các tội phạm trong BLHS hiện hành. Theo quy định của pháp luật 8
  16. hình sự, một ngƣời chỉ có thể phải chịu TNHS khi có đầy đủ cơ sở và những điều kiện bao gồm cả chủ quan và khách quan. Cơ sở của TNHS đƣợc hiểu là căn cứ buộc một ngƣời vi phạm pháp luật hình sự phải chịu TNHS. Việc nghiên cứu chính xác và nhận thức đúng đắn cơ sở của TNHS sẽ góp phần triển khai tốt chính sách hình sự và các nguyên tắc của Luật hình sự Việt Nam. Với pháp luật Việt Nam việc áp dụng chính xác TNHS đối với ngƣời phạm tội có ý nghĩa và mục đích rất quan trọng mang tính chất xã hội “ nhằm từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới thủ tiêu tình trạng phạm tội và những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm ” [42, tr 12] TNHS còn bao gồm những đặc điểm riêng nhƣ sau: Một là, TNHS là một phần của trách nhiệm pháp lý, nó mang tính nghiêm khắc so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý khác. Hai là, TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Vì vậy, khi có hành vi thực hiện gây nguy hiểm cho xã hội, gây tổn hại đến các quan hệ xã hội đƣợc BLHS quy định là tội phạm thì có nghĩa là phát sinh TNHS. Ba là, TNHS chỉ đƣợc thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên Nhà nƣớc và ngƣời phạm tội. TNHS mang tính chất công, Nhà nƣớc là cơ quan duy nhất mới có quyền buộc ngƣời phạm tội phải chịu TNHS nhằm mục đích trừng trị, trừng phạt các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Bốn là, TNHS mang tính chất cá nhân và chỉ đƣợc áp dụng đối với bản thân ngƣời đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà trong BLHS quy định là tội phạm. Từ những phân tích trên, dƣới góc độ khoa học luật hình sự “TNHS được hiểu là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc 9
  17. nhiều biện pháp cưỡng chế của nhà nước do luật hình sự quy định đối với người phạm tội” [ 65, tr 46] 1.1.3 Cơ sở của trách nhiệm hình sự Cở sở của TNHS đƣợc hiểu là yếu tố nền tảng, những căn cứ chung dựa vào đó, các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền mới có thể áp dụng TNHS đối với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội. Nhƣ vậy, cơ sở của TNHS là những vấn đề lý luận nhằm lý giải cho vấn đề là tại sao một ngƣời thực hiện hành vi phạm tội phải chịu TNHS về tội phạm đã thực hiện của mình. Việc tìm hiểu về cơ sở của TNHS sẽ giúp chúng ta đi vào phân tích hai vấn đề cơ sở triết học và cơ sở pháp lý của TNHS đối với NCTN phạm tội. a. Về cơ sở triết học Các nhà làm luật nƣớc ta buộc ngƣời thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phải chịu TNHS về hành vi tội phạm mà họ đã thực hiện, thông qua việc phân tích về cơ sở triết học của TNHS đối với ngƣời phạm tội. Qua đó, giải quyết mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm “Cơ sở của mọi trách nhiệm kể cả trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm pháp lý trong đó có TNHS là sự tự do của con người. Con người phải chịu trách nhiệm khi có tự do” [33, tr 90] Trách nhiệm chỉ đƣợc đặt ra khi con ngƣời có tự do và ngƣợc lại tự do là cơ sở của trách nhiệm. Hành vi của con ngƣời không phải là sự phản ánh trực diện đối với hoàn cảnh mà nó là sự phản ứng thông qua sự suy xét của lý trí và sự quyết định của ý chí. Chính vì thế, khi đặt trong cùng một hoàn cảnh, chịu sự tác động nhƣ nhau của những điều kiện bên ngoài nhƣng mỗi ngƣời khác nhau lại có cách xử sự khác nhau. Trong trƣờng hợp họ lại chọn cách xử sự xâm hại đến khách thể đƣợc luật hình sự bảo vệ thì họ phải chịu TNHS về chính hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, cơ sở để quy kết TNHS đối với ngƣời phạm tội chính là do họ đã thể hiện sự tự do trong việc lựa chọn cách hành xử trái với quy định pháp luật, trong khi họ vẫn có thể lựa chọn những cách hành xử khác phù hợp với lợi ích của bản thân và lợi ích của cộng đồng, xã hội. 10
  18. b. Về cơ sở pháp lý Cơ sở pháp lý của TNHS là những căn cứ có tính chất bắt buộc chung do luật hình sự quy định các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền phải dựa vào đó mới có thể đặt vấn đề TNHS đối với ngƣời đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Theo tinh thần của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: “Những gì có thể là cơ sở của TNHS đối với việc áp dụng hình phạt cũng như việc áp dụng hình thức TNHS với tính cách là hậu quả pháp lý của hành vi tội phạm đều phải do pháp luật hình sự quy định” [58, tr 235] Cở sở pháp lý của TNHS đƣợc quy định cụ thể tại Điều 2 của BLHS hiện hành “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS”. Nhƣ vậy, cơ sở để truy cứu TNHS đối với một ngƣời chính là hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội đƣợc BLHS quy định là tội phạm. Ngoài BLHS không có văn bản pháp luật nào khác quy định về tội phạm. Một ngƣời chỉ có thể phải chịu TNHS về hành vi của mình nếu hành vi đó đƣợc BLHS quy định là tội phạm. Việc kết luận hành vi nào là tội phạm, cấu thành tội gì, chịu hình phạt nhƣ thế nào thì cần phải xác định hành vi đó đã thoả mãn những dấu hiệu cấu thành tội phạm đƣợc hợp thành bởi bốn yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan. Nếu một hành vi đã thoả mãn hết dấu hiệu của cấu thành tội phạm tức là ngƣời đó đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể đƣợc quy định trong BLHS hiện hành. Vì vậy, cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của TNHS, là điều kiện cần và đủ của TNHS. 1.2 NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của ngƣời chƣa thành niên a. Khái niệm người chưa thành niên NCTN là những đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng nên luôn đƣợc Nhà nƣớc, 11
  19. cộng đồng xã hội quan tâm và bảo vệ. Nghiên cứu khái niệm NCTN chính là nghiên cứu về phạm vi các đối tƣợng đƣợc xem là NCTN. Dƣới góc độ tâm sinh lý NCTN là những ngƣời đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Từ khi đƣợc sinh ra đến trƣởng thành con ngƣời cần phải trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau từ sự phát triển toàn diện về thể chất cũng nhƣ tinh thần. Ở giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh niên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cơ thể, đời sống tâm sinh lý của NCTN cũng bắt đầu có những biến đổi sâu sắc. NCTN chịu sự tác động chủ yếu của môi trƣờng sống và họ chịu sự chi phối có tính chất quyết định bởi nền giáo dục của gia đình, nhà trƣờng và xã hội. Chính vì vậy, có thể kết luận dƣới góc độ tâm sinh lý, NCTN là ngƣời chƣa phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Dƣới góc độ pháp luật Việt Nam theo hệ thống một số văn bản pháp luật quy định về khái niệm NCTN cụ thể tại Điều 18 Bộ luật dân sự năm 2005 “Người từ đủ từ 18 tuổi trở lên là người thành niên ”, Điều 161 Bộ luật Lao động năm 2012 “Người lao đồng chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”, Điều 68 BLHS hiện hành “NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi ”. Việc xác định NCTN theo pháp luật Việt Nam có sự đồng nhất với các Công ƣớc của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, khái niệm NCTN trong pháp luật Việt Nam không đồng nhất với khái niệm trẻ em nhƣ các Công ƣớc của Liên hợp quốc. Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 Điều 1 quy định“Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”, quy định này không trái với các Công ƣớc của Liên hợp quốc vì tại Công ƣớc về quyền Trẻ em. Nhƣ vậy, theo pháp luật Việt Nam khái niệm NCTN và trẻ em là hai khái niệm khác biệt, NCTN là ngƣời chƣa đủ 18 tuổi, còn trẻ em là ngƣời chƣa đủ 16 tuổi. Nhƣ vậy, thông qua các quy định trong các Công ƣớc của Liên hợp quốc và các văn bản pháp luật Việt Nam, chúng ta có thể kết luận: “NCTN là người chưa đủ 18 tuổi”. 12
  20. b. Đặc điểm của người chưa thành niên Lối sống, đạo đức và nhân cách của mỗi ngƣời đƣợc hình thành, phát triển từ tuổi thơ và định hình rõ nét khi bƣớc vào lứa tuổi chƣa thành niên. Độ tuổi chƣa thành niên hàm chứa trong nó rất nhiều những yếu tố vừa ghi nhận, vừa loại bỏ, vừa định dạng, vừa biến động trong nhận thức, tâm lý, tình cảm, suy nghĩ của con ngƣời, từ đó trở thành khuôn mẫu nhân cách của chính ngƣời đó sau này. Đặc trƣng cơ bản của NCTN từ những thay đổi thƣờng xuyên, liên tục của các mặt nhƣ: thể chất, tình cảm, tâm lý, nhận thức và hành vi, cụ thể: Thứ nhất, lứa tuổi chƣa thành niên là giai đoạn có những sự thay đổi mạnh mẽ nhất về thể chất. Sự trƣởng thành nhanh chóng gần nhƣ đột biến ấy không chỉ gây ra sự ngạc nhiên cho những ngƣời xung quanh mà còn cho chính bản thân của họ. Thứ hai, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về mặt thể chất, đời sống tâm lý của NCTN cũng có những biến đổi sâu sắc. Họ có tâm lý muốn khẳng định mình và muốn đƣợc ngƣời khác thừa nhận về khả năng của mình, những biến động đó chịu sự tác động có tính chất quyết định bởi nền giáo dục của gia đình, nhà trƣờng và môi trƣờng xã hội xung quanh. Thứ ba, từ sự thay đổi về thể chất và tâm lý, NCTN còn có những biến đổi mạnh mẽ trong hành vi. Họ sẵn sàng và dễ dàng hành động mà không cần có sự cân nhắc, tính toán thiệt hơn, thƣờng nhất thời, nông nỗi và ngẫu hứng nên dễ bị lôi kéo vào những hành vi xấu mà bản thân không nhận biết đƣợc. Chính vì thế, NCTN là đối tƣợng rất dễ bị lôi kéo vào những tệ nạn xã hội. c. Cách tính tuổi chịu trách nhiệm hình sự Xác định tuổi chịu TNHS là dấu hiệu bắt buộc khi xác định chủ thể của tội phạm. Việc xác định chính xác tuổi của ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có vai trò quan trọng đối với việc xác định một ngƣời có phải 13
  21. chịu TNHS hay không. Ngoài ra, việc xác định chính xác độ tuổi còn nhằm giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đúng chính sách, chủ trƣơng, nguyên tắc và đƣờng lối xử lý hình sự đối với những ngƣời phạm tội ở các nhóm tuổi khác nhau. Vấn đề xác định tuổi theo quy định của luật hình sự là tính tuổi tròn, tuổi đủ, nghĩa là phải đủ ngày, đủ tháng. Ví dụ: NCTN là ngƣời chƣa đủ 18 tuổi, nhƣ vậy 17 tuổi, 11 tháng 29 ngày vẫn đƣợc xem là ngƣời chƣa đủ 18 tuổi vẫn là NCTN. Việc tính tuổi của NCTN sẽ căn cứ trên những giấy tờ có ghi nhận ngày sinh mà trƣớc hết chính là giấy khai sinh của họ. Tuy nhiên, trên thực tế có những trƣờng hợp không xác định đƣợc ngày, tháng, năm sinh của bị can, bị cáo vì những lý do nhƣ: bị can, bị cáo không có giấy khai sinh, không có giấy tờ tùy thân, Điều này sẽ gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định tuổi của bị can, bị cáo. Chính vì thế, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tƣ pháp, Bộ Lao động, thƣơng binh và xã hội đã ban hành Thông tƣ liên tịch số 01/2011/TTLT – VKSTC – TANDTC – BCA – BTP – BLĐTBXH ngày 12/7/2011 về hƣớng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với ngƣời tham gia tố tụng là NCTN, theo đó tuổi chịu TNHS sẽ đƣợc tính dựa vào Điều 6 của Thông tƣ liên tịch với những quy định rất cụ thể về xác định tuổi của bị can, bị cáo: - Trong trƣờng hợp xác định đƣợc tháng sinh cụ thể nhƣng không xác định đƣợc ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo. - Trong Trƣờng hợp xác định đƣợc quý cụ thể của năm, nhƣng không xác định đƣợc ngày tháng nào trong quý đó thì phải lấy tháng cuối cùng và ngày cuối cùng của tháng đó trong quý làm ngày sinh của bị can, bị cáo; - Trong trƣờng hợp xác định đƣợc cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối 14
  22. năm, nhƣng không xác định đƣợc ngày tháng thì phải lấy ngày 30 tháng 6 (Nửa đầu năm) hoặc ngày 31 tháng 12 (nửa cuối năm) làm ngày sinh của bị can, bị cáo; - Trong trƣờng hợp xác định đƣợc năm sinh cụ thể nhƣng không xác định đƣợc ngày tháng sinh thì phải lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo. - Trong trƣờng hợp không xác định đƣợc năm sinh của bị can, bị cáo là NCTN thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi của họ. - Nếu cơ quan tiến hành tố tụng không xác định đƣợc chính xác NCTN sinh vào ngày, tháng, năm nào thì phải suy đoán theo hƣớng tuổi thấp nhất cho họ, đây là suy đoán có lợi. 1.2.2 Khái niệm trách nhiệm hình sự của ngƣời chƣa thành niên phạm tội TNHS của NCTN phạm tội chính là trách nhiệm của ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 18 tuổi tại thời điểm họ thực hiện hành vi phạm tội, hành vi của họ ảnh hƣởng đến các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ bằng BLHS, bản thân họ phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi đƣợc quy định trong BLHS do Toà án áp dụng theo trình tự, thủ tục tố tụng nhất định. Dựa trên nền tảng đặc điểm của TNHS Tác giả tập trung phân tích các đặc điểm của TNHS do NCTN phạm tội. Thứ nhất, TNHS của NCTN phạm tội là một phần của TNHS và nó mang các đặc điểm giống TNHS đã phân tích trên. Thứ hai, TNHS là trách nhiệm cá nhân của NCTN trƣớc Nhà nƣớc và cá nhân thực hiện thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là NCTN khi họ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật của mình và phải chịu sự trừng phạt của Nhà nƣớc. Căn cứ vào quy định về độ tuổi chịu TNHS, NCTN phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam chỉ bao gồm những ngƣời từ đủ 14 tuổi 15