Luận văn Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay

pdf 84 trang vuhoa 25/08/2022 7481
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_trach_nhiem_cua_nguoi_su_dung_lao_dong_doi_voi_nguo.pdf

Nội dung text: Luận văn Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay

  1. VIỆN HÀN2 LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MAI ANH TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Phạm Thị Thúy Nga Hà Nội, 2018
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi xin cam kết bằng danh dự và cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật. Các số liệu nêu trong luận văn là đúng sự thật, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin nghiên cứu trong luận văn là do tôi tự tìm tòi, nghiên cứu phù hợp với thực tế. Tác giả NGUYỄN THỊ MAI ANH
  3. LỜI CẢM ƠN Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã giảng dạy trong chương trình Cao học luật, những người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức hữu ích làm cơ sở cho tôi thực hiện tốt luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Phạm Thị Thúy Nga đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong thời gian thực hiện luận văn. Cô đã hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi rất nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy, cô, lãnh đạo Khoa luật - Học viện Khoa học xã hội (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè những người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên luận văn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến góp ý của Thầy/Cô và các bạn học viên để luận văn này có giá trị thực tiễn./. Hà Nội, tháng 3 năm 2018 Tác giả
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TAI NẠN LAO ĐỘNG VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG 7 1.1. Khái quát chung về tai nạn lao động, trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động 7 1.2. Nội dung các quy định pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động 14 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG 20 2.1. Các đối tượng được xác định là người lao động bị tai nạn lao động 20 2.2. Thực trạng nội dung các quy định pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay 23 2.3. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động 35 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 57 3.1. Quan điểm, định hướng hoàn thiện các quy đinh pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động 57 3.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động 60 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ATLĐ An toàn lao động ATVSLĐ: An toàn, vệ sinh lao động BLLĐ: Bộ luật Lao động ILO: Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labor Organization) NLĐ: Người lao động NSDLĐ: Người sử dụng lao động TNLĐ: Tai nạn lao động
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “Lao động” không chỉ là nhân tố quan trọng trong quá trình tiến hóa của loài người mà còn là hoạt động quan trọng nhất của con người. Lao động tạo ra mọi của cải vật chất và các giá trị tinh thần cho xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước, xã hội, gia đình cũng như cá nhân mỗi người lao động. NSDLĐ muốn mua sức lao động của con người, cần hết sức chú trọng đến yếu tố con người, bởi lẽ con người chính là nguồn cung sức lao động, có chú trọng chăm sóc tốt cho sức khỏe, thể chất cũng như tinh thần cho người lao động (NLĐ) thì họ mới có thể làm việc chất lượng, hiệu quả. Trong quá trình làm việc, có rất nhiều nguy cơ, rủi ro có thể xảy ra đối với NLĐ. Nhất là trong ngành công nghiệp, nơi có các loại máy móc, môi trường làm việc độc hại, nguy hiểm có thể phát sinh tai nạn ngoài ý muốn, hoặc gây bệnh cho NLĐ Những rủi ro này không những gây tổn hại đến sức khỏe, tính mạng của NLĐ, mà còn làm đình trệ sản xuất, gây tổn hại cho NSDLĐ và một phần ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Trong quan hệ lao động, NLĐ luôn là bên yếu thế hơn, bởi họ không nắm giữ tư liệu sản xuất, hơn nữa số lượng NLĐ trong xã hội luôn ở mức nhiều hơn nhu cầu sử dụng lao động nên họ dễ dàng bị thay thế, bị chèn ép. Nhận thức sâu sắc được vấn đề này, các nhà làm luật trên thế giới nói chung và các nhà làm luật Việt Nam nói riêng đều hết sức chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện nhằm bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của những NLĐ bị tai nạn lao động (TNLĐ). Các công ước quốc tế về bảo vệ NLĐ hình thành và được sự gia nhập của nhiều quốc gia trên thế giới như công ước số 121 năm 1964 về trợ cấp TNLĐ; công ước số 155 năm 1981 về An toàn và vệ sinh lao động; công 1
  7. ước số 174 năm 1993 về phòng ngừa những TNLĐ nghiêm trọng; công ước số 187 năm 2006 về cơ chế thúc đẩy an toàn vệ sinh lao động Ở Việt Nam, Nhà nước ta cũng chú trọng đến quyền nhân thân của NLĐ từ rất sớm, ngay từ sắc lệnh số 29/SL ngày 12 tháng 3 năm 1947 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy định về vấn đề an toàn lao động, vệ sinh lao động. Đến bộ luật lao động đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Bộ luật Lao động năm 1994 (được sửa đổi các năm 2002, 2006, 2007) và hiện hành là Bộ luật lao động 2012, tất cả đều quy định hết sức chặt chẽ và cụ thể về các vấn đề đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động. NSDLĐ có trách nhiệm cung cấp các trang thiết bị bảo hộ lao động, lập phương án bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động, và có các nghĩa vụ tài chính cần thiết khi xảy ra TNLĐ Tất cả những quy định này nhằm một mục tiêu cụ thể, đó là bảo vệ tối đa quyền và lợi ích của NLĐ. Ngoài ra, pháp luật cũng đặt ra những chế tài cụ thể để xử lý những trường hợp không tuân thủ pháp luật trong vấn đề này. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện các trách nhiệm của NSDLĐ trong việc phòng ngừa và khắc phục hậu quả TNLĐ vẫn chưa thực sự hiệu quả, cũng bởi một phần do cơ chế quản lý, kiểm soát của nhà nước ta hiện tại còn nhiều bất cập, các chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe, hơn nữa nhận thức của phần đông NLĐ về quyền và lợi ích của mình chưa đầy đủ. Xuất phát từ lý do trên, học viên xin được lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay ” làm đề tài Luận văn của mình với mong muốn thông qua việc tìm hiểu và phân tích các quy định cụ thể của pháp luật để đưa ra một vài nhận định cũng như đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của việc thực thi pháp luật trên thực tiễn. 2
  8. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật lao động trong nước và một số quốc gia trên thế giới về vấn đề trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ khi xảy ra vấn đề TNLĐ. Trên thực tế, số lượng các bài viết, công trình nghiên cứu về nội dung này tuy có nhưng không nhiều, các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những bài viết tạp chí hay luận văn thạc sĩ ở một số khía cạnh khác nhau xoay quanh vấn đề TNLĐ như: Luận văn thạc sĩ với đề tài: “Chế độ tai nạn lao động -Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” của Phạm Thị Phương Loan, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2011; Luận văn thạc sĩ với đề tài: “Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” của Vũ Tuấn Đạt, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2014; Bài viết: “Vấn đề bồi thiệt hại do bị tai nạn lao động” của tác giả Đỗ Ngân Bình đăng trên Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 6/2000; ; Bài viết: “Tiêu chí của pháp luật bồi thường tai nạn lao động” của tác giả Lê Kim Dung đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 5/2011; Bài viết: “Một số ý kiến nhằm hoàn thiện các quy định về tai nạn lao động theo quy định của pháp luật hiện hành” của Nguyễn Thị Bích đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân. Số 23/2017; Các công trình nghiên cứu này đã đề cập đến những khía cạnh khác nhau có liên quan nhất định về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ khi xảy ra TNLĐ, tuy nhiên các công trình nghiên cứu về vấn đề này còn tương đối hạn chế cả về số lượng cũng như tính mới. Đồng thời những đề tài khoa học được nghiên cứu trực tiếp về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ hiện tại chưa thực sự phổ biến. Hơn nữa phần lớn các công trình nghiên cứu trước đây đã có những “độ trễ” nhất định bởi quá trình thay đổi pháp luật diễn ra liên tục, đặc biệt khi Quốc hội ban hành Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015. 3
  9. Để phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, đồng thời cung cấp một góc nhìn khái quát đối với vấn đề trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ khi xảy ra TNLĐ, Luận văn đi sâu phân tích các quy định hiện hành của Bộ luật lao động 2012, Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015, các văn bản hướng dẫn và pháp luật một số quốc gia khác để có cái nhìn khái quát nhất, đánh giá được ưu, nhược điểm và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận văn trước hết là nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về TNLĐ và trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ; đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ; từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề sau: - Làm rõ hơn một số vấn đề chung về TNLĐ và trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ như: Khái niệm, đặc điểm TNLĐ, NLĐ bị TNLĐ, trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ; nội dung pháp luật về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ. - Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ, chỉ ra những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thực hiện. - Chỉ ra các quan điểm, định hướng thực hiện pháp luật về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật lao động Việt Nam về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ. Trong một 4
  10. mức độ nhất định, Luận văn có đề cập đến một số quy định của tổ chức lao động thế giới (ILO) và pháp luật lao động của một số nước về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lenin và các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về trách nhiệm của NSDLĐ đối với vấn đề TNLĐ. Để làm rõ vấn đề nghiên cứu, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích khi đánh giá quy định pháp luật, liên hệ với quy định hiện hành và quy định trước đây của pháp luật lao động, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh được sử dụng triệt để khi nghiên cứu tình hình TNLĐ trên thực tiễn hiện nay 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Các nghiên cứu, đánh giá, đề xuất trong Luận văn này góp phần làm rõ nội dung, những thành tựu và hạn chế trong các quy định pháp luật lao động Việt Nam về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ đồng thời đánh giá tình hình thực thi các quy định trên trong thực tế tại các đơn vị. Luận văn đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và một số biện pháp bảo đảm thực thi các quy định của pháp luật về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ trên thực tế. Luận văn này có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu khoa học cho người học, những nhà sử dụng lao động, và những NLĐ cần tìm hiểu về pháp luật lao động về trách nhiệm của NSDLĐ đối với vấn đề TNLĐ. 5
  11. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn gồm có ba phần: phần Mở đầu, phần Nội dung và phần Kết luận. Trong đó, phần Nội dung kết cấu gồm có 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tai nạn lao động và pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động Chương 2: Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam hiện nay về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động ở Việt Nam hiện nay. 6
  12. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TAI NẠN LAO ĐỘNG VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG 1.1. Khái quát chung về tai nạn lao động, trách nhiệm của ngƣời sử dụng lao động đối với ngƣời lao động bị tai nạn lao động 1.1.1. Khái niệm tai nạn lao động 1.1.1.1. Định nghĩa tai nạn lao động Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, TNLĐ được hiểu là tai nạn bất ngờ xảy ra do lao động hay trong quá trình lao động, có thể gây tử vong hoặc gây cho cơ thể tổn thương hoặc một rối loạn chức năng vĩnh viễn hay tạm thời [1, tr.75]. Có rất nhiều loại TNLĐ: ngã, đụng dập, điện giật, cháy, bỏng, các trường hợp nhiễm hóa chất cấp tính do sự cố Có thể thấy cách định nghĩa này của Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam tập trung vào tính không lường trước của TNLĐ, hậu quả gây ra cho sức khỏe con người và nguyên nhân dẫn đến TNLĐ. Từ điển Sức khỏe môi trường và nghề nghiệp Lewis định nghĩa: TNLĐ là một sự kiện không được lập kế hoạch, không biết trước và không mong muốn có thể hoặc gây thiệt hại về thể chất và/hoặc phá hủy tài sản; hoặc bất kỳ sự kiện nào không mong muốn gây trở ngại hoặc cản trở quy trình sản xuất hoặc một quá trình [31, tr.78]. Từ điển Lewis khi định nghĩa về TNLĐ đã tập trung vào ý chí của các chủ thể khi TNLĐ xảy ra – “không mong muốn” và “không biết trước”, đồng thời cách định nghĩa này làm rõ hậu quả gây ra từ TNLĐ, có thể là thiệt hại cho con người hoặc tài sản, thiệt hại này có thể là thiệt hại thực tế hoặc “đe dọa” gây thiệt hại, thiệt hại này tác động trực tiếp tới quá trình làm việc và sản xuất. 7
  13. Trong các văn bản pháp lý của Việt Nam, cụ thể theo quy định tại Khoản 1 Điều 142 BLLĐ năm 2012, cùng với đó, tại khoản 8 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 cũng đưa ra định nghĩa thống nhất về TNLĐ giống quy định tại Khoản 1 Điều 142 BLLĐ 2012, theo đó: “Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động”. Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau về TNLĐ nhưng nhìn chung đều thống nhất cách hiểu TNLĐ là những tai nạn xảy ra bất ngờ, con người không thể dự báo trước về không gian và thời gian, gắn với quá trình làm việc của NLĐ trong một khoảng thời gian và không gian cụ thể, để lại hậu quả chết người hoặc làm tổn thương, hủy hoại chức năng hoạt động bình thườn00000g của một bộ phận nào đó trên cơ thể NLĐ. Có thể nói, so với quan điểm của thế giới thì cách định nghĩa về TNLĐ của Việt Nam trong văn bản pháp lý đã khá đầy đủ, chính xác và rõ ràng. 1.1.1.2. Đặc điểm của tai nạn lao động Trong phạm vi Luận văn này, phạm vi xem xét TNLĐ và NLĐ bị TNLĐ đặt trong quan hệ lao động làm công, ăn lương nên có thể xác định TNLĐ có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, người bị TNLĐ phải là NLĐ làm việc theo chế độ hợp đồng lao động trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc cho cá nhân; người thử việc, người học nghề, tập nghề để làm việc cho NSDLĐ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 BLLĐ năm 2012: “NLĐ là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và làm việc theo hợp đồng lao động được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của NSDLĐ”. Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau: hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng, hợp đồng 8
  14. lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng (Điều 22 BLLĐ). Hình thức của hợp đồng lao động được thể hiện bằng văn bản hoặc bằng lời nói (Điều 16 BLLĐ). Thứ hai, hậu quả do TNLĐ gây ra làm ảnh hưởng tới các bộ phận, chức năng của cơ thể NLĐ như tổn thương gây ra gãy tay, gãy chân, mù mắt hoặc bản thân NLĐ tử vong. Ngoài ra, TNLĐ còn có thể dẫn tới sự thiệt hại về của cải, vật chất của NSDLĐ như sập nhà, hỏng máy móc, thiết bị Có thể thấy rằng hậu quả của TNLĐ là những rủi ro mà NSDLĐ và NLĐ đều không mong muốn xảy ra. Việc xảy ra TNLĐ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ, tính mạng của NLĐ, mở rộng ra đó là ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị sử dụng lao động. Thứ ba, địa điểm xảy ra TNLĐ thường được xác định tại một trong ba nơi: (1) tại nơi làm việc theo quy định và thỏa thuận trong hợp đồng lao động; (2) ngoài nơi làm việc theo yêu cầu của NSDLĐ; (3) trên tuyến đường đi và về hợp lý từ nơi ở đến nơi làm việc và ngược lại . Việc xác định địa điểm xảy ra TNLĐ là căn cứ quan trọng để NSDLĐ cũng như cơ quan chức năng có thẩm quyền thực hiện các trách nhiệm của mình. Việc xác định địa điểm xảy ra TNLĐ có yếu tố gắn với việc thực hiện công việc mà NSDLĐ giao cho mang tính chất tiên quyết, trên cơ sở tình hình thực tế thì địa điểm này có thể xác định một cách linh hoạt như trên tuyến đường đi và về hợp lý từ nơi ở đến nơi làm việc và ngược lại. Điều này góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho NLĐ khi xảy ra các sự kiện TNLĐ không mong muốn. Thứ tư, thời gian xảy ra TNLĐ được xác định gắn liền với địa điểm xảy ra TNLĐ, đó là trong giờ làm việc hoặc ngoài giờ làm việc. Việc xác định “trong giờ làm việc” căn cứ vào sự thỏa thuận giữa NLĐ và NSDLĐ trên cơ sở quy định của pháp luật, quy định của thỏa ước lao động tập thể (nếu có), 9
  15. hoặc trong nội quy lao động. Thời giờ làm việc có thể là ban ngày hoặc ban đêm, không quá 8 giờ/ngày và 48 giờ/tuần [40, tr.79], chưa kể thời gian làm thêm khác (nếu có). Thời giờ làm việc cũng được xác định đối với các loại thời giờ như: nghỉ giải lao theo tính chất của công việc, nghỉ cần thiết trong quá trình lao động cho nhu cầu sinh lý tự nhiên của con người, thời giờ nghỉ mỗi ngày 60 phút đối với lao động nữ nuôi con dưới 12 tháng tuổi, nghỉ mỗi ngày 30 phút đối với lao động nữ trong thời gian hành kinh [20, tr.77] Thời gian xảy ra tai nạn cũng được tính là thời điểm xảy ra TNLĐ là thời gian ngoài giờ làm việc khi NLĐ đang làm công việc theo yêu cầu của NSDLĐ và thời điểm NLĐ bị tai nạn khi đang trên đường đi làm hoặc đang trên đường về trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý [20, tr.77]. Thứ năm, TNLĐ xảy ra do sự tác động bởi những yếu tố nguy hiểm, độc hại trong quá trình thực hiện công việc, nhiệm vụ mà NSDLĐ giao. Bên cạnh đó, trường hợp NLĐ bị tai nạn khi đang làm việc do tác động bởi những yếu tố khách quan, không phải do công việc gây ra như lũ lụt, động đất, hỏa hoạn cũng được coi là TNLĐ, miễn là tai nạn xảy ra khi họ đang làm nhiệm vụ và thực hiện công việc theo yêu cầu của NSDLĐ, không nhất thiết tai nạn đó phải do chính công việc họ đang thực hiện gây nên. Như vậy, có thể nói dấu hiệu quan trọng nhất để xác định TNLĐ là tai nạn đó luôn gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ của NLĐ. Chỉ được coi là TNLĐ khi tai nạn đó xảy ra trong quá trình NLĐ thực hiện các nghĩa vụ lao động được pháp luật quy định; theo nội quy, quy chế của đơn vị sử dụng lao động hoặc theo sự thỏa thuận của hai bên trong thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động Những trường hợp khác đều được coi là tai nạn rủi ro và từ đó việc giải quyết tai nạn đặt ra đối với NLĐ sẽ được thực hiện với những quyền lợi và chế độ khác. 10
  16. 1.1.2. Nguyên nhân tai nạn lao động Trong quá trình làm việc, có rất nhiều rủi ro tiềm ẩn có thể gây ra TNLĐ cho NLĐ. Với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, các loại máy móc thay thế sức lao động của con người ngày càng nhiều; môi trường lao động ngày càng đa dạng và phức tạp. Về mặt tiêu cực, điều này làm tăng các yếu tố nguy hiểm, độc hại cho NLĐ. Bởi NLĐ là những người trực tiếp tiếp xúc với các loại máy móc, tiếng ồn; làm việc trong môi trường nhiều khói bụi, nhiều chất độc hại Thực tế cũng cho thấy trong số liệu thống kê của ILO cứ mỗi 15 giây lại có một NLĐ chết vì tai nạn liên quan đến lao động hay bệnh nghề nghiệp; mỗi 15 giây lại có 153 NLĐ bị tai nạn liên quan đến lao động. Mỗi ngày có tới 6300 người chết vì nguyên nhân TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp, nghĩa là nhiều hơn 2,3 triệu người trong một năm [48, tr.80]. TNLĐ và bệnh nghề nghiệp có thể xảy ra với bất cứ ai, bất cứ lúc nào bởi các nguyên nhân sau đây: Nguyên nhân kỹ thuật: các thao tác kỹ thuật không đúng, không thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về kỹ thuật an toàn, sử dụng máy móc không đúng đều có thể dẫn đến TNLĐ. Ngoài ra, việc các máy móc, thiết bị bị hư hỏng, các trang thiết bị bảo hộ bị hỏng hoặc không đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng cũng là một trong những nguyên nhân phổ biến. Trong những môi trường làm việc yêu cầu hệ thống che chắn, hệ thống tín hiệu, cơ cấu an toàn nếu những yếu tố này không được đảm bảo thì nguy cơ TNLĐ cũng rất lớn. Nguyên nhân tổ chức: TNLĐ có thể xảy ra do NLĐ không được hướng dẫn đầy đủ về công việc được giao từ phía người quản lý, sử dụng lao động; sử dụng NLĐ không đúng nghề nghiệp và trình độ nghiệp vụ của họ; hoặc thiếu giám sát và giám sát kỹ thuật không đầy đủ, làm các công việc không đúng quy tắc an toàn lao động, vệ sinh lao động; hoặc vi phạm chế độ lao động. 11
  17. Nguyên nhân vệ sinh môi trƣờng: Đây là nhóm nguyên nhân chủ yếu gây ra các bệnh nghề nghiệp và phần nào là nguyên nhân gây TNLĐ. Đối với nhóm nguyên nhân này, môi trường không khí bị ô nhiễm hơi, khí độc, có tiếng ồn và rung động mạnh; nơi làm việc có ánh sáng không đủ hoặc ánh sáng quá mạnh đối với mắt thường; không thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu về vệ sinh lao động đều có thể gây TNLĐ. 1.1.3. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động Khi TNLĐ xảy ra, một trong những nội dung quan trọng đó là việc giải quyết TNLĐ đó. Giải quyết TNLĐ được hiểu là việc các chủ thể thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình khi có TNLĐ xảy ra, với mục đích đảm bảo quyền lợi của NLĐ bị ảnh hưởng do TNLĐ, hạn chế thấp nhất hậu quả xảy ra cho các bên trong quan hệ lao động và bên thứ ba, đồng thời để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực lao động. Để giải quyết TNLĐ, trước hết, cần xác định được tai nạn xảy ra có là tai nạn lao động hay không, với những biểu hiện và đặc điểm về người bị nạn, về hậu quả của tai nạn, về địa điểm, thời gian xảy ra tai nạn và nguyên nhân dẫn tới tai nạn. Khi xác định được tai nạn xảy ra là tai nạn lao động, quá trình giải quyết luôn cần sự tham gia của nhiều chủ thể với từng vai trò và trách nhiệm khác nhau. Cụ thể: Trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ khi xảy ra TNLĐ: - Sơ cứu, cấp cứu kịp thời: NSDLĐ phải kịp thời sơ cứu, cấp cứu NLĐ, tạm ứng chi phí sơ cứu, cấp cứu và điều trị NLĐ bị TNLĐ; - Thanh toán các chi phí điều trị cho người bị TNLĐ: NSDLĐ có trách nhiệm thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định cho NLĐ bị TNLĐ; 12
  18. - Trả đủ tiền lương trong thời gian điều trị, phục hồi chức năng lao động: Việc bảo đảm tiền lương cho NLĐ trong thời gian này có ý nghĩa rất quan trọng, giúp NLĐ bảo đảm cuộc sống của bản thân và gia đình họ. - NSDLĐ có trách nhiệm bồi thường cho NLĐ bị TNLĐ theo quy định của pháp luật hoặc trợ cấp cho NLĐ bị TNLĐ do lỗi của chính họ; - NSDLĐ còn có trách nhiệm giới thiệu để NLĐ bị TNLĐ được giám định y khoa, đồng thời sắp xếp công việc phù hợp sức khoẻ NLĐ sau khi điều trị, phục hồi chức năng nếu còn tiếp tục làm việc; - NSDLĐ có trách nhiệm lập hồ sơ hưởng chế độ về TNLĐ từ quỹ bảo hiểm TNLĐ theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, một số trách nhiệm có liên quan của NSDLĐ khi xảy ra TNLĐ đó là phải thành lập Đoàn điều tra về TNLĐ; xác định yếu tố lỗi của NLĐ trong việc xảy ra TNLĐ, là cơ sở để bồi thường hoặc trợ cấp cho NLĐ. Đồng thời, NSDLĐ phải thực hiện việc khai báo, lập hồ sơ vụ tai nạn lao động, thống kê, báo cáo về TNLĐ [22, tr.77]. Với những vụ TNLĐ chết người hoặc tai nạn nặng phải giữ nguyên hiện trường; cung cấp tài liệu, đồ vật, phương tiện có liên quan đến vụ tai nạn theo yêu cầu của Đoàn điều tra tai nạn lao động cấp trên; đồng thời thanh toán các khoản chi phí phục vụ cho việc điều tra TNLĐ [25, tr.77]. Trong trường hợp có khiếu nại, tố cáo đối với quyết định, hành vi của NSDLĐ, chính chủ thể này sẽ giải quyết lần đầu đối với khiếu nại, tố cáo đó. Với tính chất nghiêm trọng của TNLĐ xảy ra đối với NLĐ mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan như cơ quan bảo hiểm, cơ quan có thẩm quyền liên quan khác cũng có những trách nhiệm nhất định trong quá trình giải quyết hậu quả TNLĐ xảy ra đối với NLĐ. Tuy nhiên, nội dung này không nằm trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn, chính vì vậy chúng tôi không đề cập cụ thể ở đây. 13
  19. 1.2. Nội dung các quy định pháp luật về trách nhiệm của ngƣời sử dụng lao động đối với ngƣời lao động bị tai nạn lao động Pháp luật về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bí TNLĐ được xây dựng và nghiên cứu với những nội dung cơ bản sau: - Trách nhiệm về sơ cứu, cấp cứu NLĐ bị TNLĐ, thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định cho NLĐ bị TNLĐ: NSDLĐ còn có trách nhiệm trả chi phí sơ cứu, cấp cứu kịp thời; thanh toán các chi phí điều trị; trả đủ tiền lương trong thời gian điều trị cho NLĐ; khai báo, lập hồ sơ vụ TNLĐ; thanh toán các khoản chi phí phục vụ cho việc điều tra tai nạn lao động; thành lập Đoàn điều tra về tai nạn lao động cấp cơ sở; giải quyết khiếu nại của NLĐ đối với quyết định, hành vi của mình Theo ILO, về các chế độ mà NLĐ bị TNLĐ sẽ được hưởng, gồm: chăm sóc sức khỏe và các trợ cấp đi kèm cho người sức khỏe yếu như khám đa khoa, chuyên khoa, khám nha khoa, chăm sóc sức khỏe tại nhà, tại bệnh viện, cung cấp thuốc men, trang thiết bị y tế (Điều 10, 11, 12 Công ước 121 năm 1964); trợ cấp bằng tiền theo các chế độ nêu trong Điều 6, khoản b, c và d (Điều 13 đến Điều 22 Công ước 121 năm 1964). Quyền được hưởng trợ cấp không phụ thuộc vào thời gian làm việc, thời gian đóng bảo hiểm. Trợ cấp được trả trong suốt thời gian hưởng: trong trường hợp mất khả năng lao động thì không cần trả trợ cấp bằng tiền mặt trong 3 ngày đầu tiên nếu luật pháp của một nước thành viên quy định một khoảng thời gian chờ hưởng trợ cấp vào ngày Công ước này có hiệu lực, nhưng nước đó phải trình bày lý do thực hiện điều khoản này vào báo cáo Công ước nộp cho Tổ chức Lao động quốc tế theo Điều 22 của Điều lệ Tổ chức hoặc khi nước thành viên đó thực hiện một tuyên bố ngoại lệ. Công ước 121 năm 1964 cũng quy định cụ thể quyền khiếu nại của NLĐ trong trường hợp bị từ chối trợ cấp hoặc chất lượng, số lượng trợ cấp không đúng quy định (Điều 23 Công ước). 14
  20. Có thể thấy hệ thống pháp luật của ILO liên quan đến trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ là tương đối đầy đủ, hoàn chỉnh, góp phần giúp NLĐ có được cơ sở pháp lý mang tầm vóc quốc tế trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. - Trả lương cho NLĐ bị TNLĐ phải nghỉ việc trong thời gian điều trị, phục hồi chức năng lao động; bồi thường, trợ cấp cho NLĐ bị TNLĐ Quy định về trách nhiệm của NSDLĐ về việc bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động cho NLĐ. Theo ILO, về đối tượng được hưởng chế độ TNLĐ: Là người lao động, bao gồm cả công chức, người học việc. Điều 3 Công ước 155 năm 1981 có nêu “người lao động” bao gồm tất cả những người đang được sử dụng, kể cả công chức; Công ước 121, Điều 4 quy định “Luật pháp quy định quốc gia về trợ cấp TNLĐ cần bảo vệ tất cả NLĐ kể cả những người học việc trong khu vực tư nhân và nhà nước, bao gồm các hợp tác xã và khi NLĐ chính trong gia đình chết thì phải quy định rõ những người được hưởng trợ cấp”. Như vậy, phạm vi áp dụng chế độ trợ cấp TNLĐ cho người lao động theo ILO là rất rộng, bao gồm tất cả NLĐ, không phân biệt NLĐ đó đang làm việc cho doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân, cá nhân hay tổ chức. Tuy nhiên Công ước cũng có sự linh hoạt đối với những quốc gia thành viên có hệ thống kinh tế và y tế chưa phát triển đầy đủ có thể đề cập trong tuyên bố phê chuẩn Công ước áp dụng ngoại lệ đối với một số điều khoản hoặc đối với NLĐ trên biển và công chức trong trường hợp quốc gia đó phải bảo đảm quyền lợi tối thiểu của nhóm NLĐ đó tương đương với chế độ quy định trong Công ước. Về điều kiện hưởng trợ cấp TNLĐ: Theo Công ước 121 năm 1964, người lao động bị TNLĐ được hưởng trợ cấp TNLĐ khi thuộc một trong các trường hợp sau: (1) tình trạng sức khỏe kém; (2) do sức khỏe kém nên không thể làm việc nên không có thu nhập, như đã định nghĩa trong luật pháp và quy 15
  21. định quốc gia; (3) mất hoàn toàn hoặc một phần khả năng tạo thu nhập trên mức độ thương tật đã được pháp luật quy định, có thể trở thành thương tật vĩnh viễn hoặc mất một khả năng nào đó; (4) người trong gia đình mất đi sự hỗ trợ do NLĐ chính chết [44, tr.79]. Trong đó Điều 7 Công ước cũng nêu: mỗi nước thành viên phải đưa ra định nghĩa về TNLĐ, trong đó nêu các điều kiện để tai nạn giao thông được coi là TNLĐ. Theo đó, tùy vào việc xác định yếu tố lỗi của NLĐ, NSDLĐ sẽ có trách nhiệm chi trả bồi thường hoặc trợ cấp cho họ. Cơ quan BHXH tùy từng trường hợp, có trách nhiệm chi trả các khoản trợ cấp: trợ cấp một lần, trợ cấp hàng tháng, trợ cấp phục vụ, trợ cấp một lần khi chết do TNLĐ. - Trách nhiệm giới thiệu để NLĐ bị TNLĐ được giám định y khoa - Trách nhiệm sắp xếp công việc phù hợp sức khoẻ NLĐ sau khi điều trị, phục hồi chức năng nếu còn tiếp tục làm việc - Trách nhiệm lập hồ sơ hưởng chế độ về TNLĐ từ quỹ bảo hiểm TNLĐ theo quy định pháp luật: Theo pháp luật Thái Lan: Về đối tượng được giải quyết chế độ TNLĐ: Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội Thái Lan thì đối tượng được giải quyết chế độ TNLĐ là tất cả NLĐ được thuê mướn làm việc thường xuyên, làm việc tạm thời, làm việc thay thế, làm việc theo mùa vụ hay theo từng công việc cụ thể có hợp đồng hoặc không có hợp đồng ở độ tuổi không quá 60. Quyền lợi của NLĐ bị TNLĐ: được bồi thường ở tất cả các mức thương tật, được trả các chi phí về y tế; được hưởng trợ cấp một lần hoặc hàng tháng khi bị thương tật tạm thời hoặc bị thương tật vĩnh viễn; được hưởng các dịch vụ phục hồi chức năng bao gồm điều trị y tế, mổ, nằm viện; được đào tạo nghề; được bồi thường khi bị chết bao gồm tiền mai táng phí, trợ cấp một lần và thân nhân người bị TNLĐ nhận trợ cấp hàng tháng. Người lao 16