Luận văn Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 67 trang vuhoa 24/08/2022 5120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_tra_ho_so_de_dieu_tra_bo_sung_trong_giai_doan_xet_x.pdf

Nội dung text: Luận văn Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI   TRẦN NGỌC PHƯƠNG TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI   TRẦN NGỌC PHƯƠNG TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS NGUYỄN ĐỨC PHÚC Hà Nội, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN TRẦN NGỌC PHƯƠNG
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 6 1. Nhận thức chung về trả hồ sơ điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự. 6 1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự 6 1.2 Quy định của pháp luật về trả hồ sơ điều tra bổ sung 11 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, TP HỒ CHÍ MINH 26 2.1 Thực tiễn trả hồ sơ điều tra bổ sung tại Tòa Án quận Tân Phú từ năm 2015-2020 26 2.2 Căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung 37 2.3 Những bất cập trong hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung 41 2.4 Nguyên nhân trả hồ sơ đề điều tra bổ sung 44 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG 48 3.1 Hoàn thiện pháp luật và về trả hồ sơ đề điều tra bồ sung 48 3.2 Giải pháp đảm bảo hạn chế trả điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ở quận tân phú. 49 KẾT LUẬN 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong các giai đoạn tố tụng hình sự thì giai đoạn điều tra, giai đoạnvtruy tố và xét xử đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi chỉ khi Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát, điều tra truy tố đúng người, đúng tội thì mới tạo điều kiện cho Tòa án tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, công tác điều tra cũng như đánh giá về vụ án là điều không dễ dàng khi tình hình tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhiều thủ đoạn mới. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành còn nhiều bất cập, đạo đức nghề nghiệp, trình độ năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ tư pháp còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Để khắc phục tình trạng đó, pháp luật tố tụng hình sự đã quy định cụ thể về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung đã được quy định từ khi ban hành BLTTHS năm 1988, được hoàn thiện hơn ở BLTTHS năm 2003 và cho đến BLTTHS năm 2015 thì đã quy định chi tiết, đầy đủ hơn. Mặc dù chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung được quy định sớm như vậy nhưng hiện nay những vấn đề lý luận về vấn đề này còn chưa được nhận thức thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này đã dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau trong thực tiễn áp dụng pháp luật và tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung tràn lan, không có căn cứ. Hơn nữa, thực tiễn áp dụng những quy định của BLTTHS năm 2015 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung đã chi tiết, đầy đủ, hợp lý hơn nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Vì vậy, để khắc phục tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung không đúng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ 1
  6. án, kịp thời bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân theo yêu cầu cải cách tư pháp đã thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, thì các cơ quan tiến hành tố tụng cần tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, ban hành kịp thời những hướng dẫn nghiệp vụ, lấy tư tưởng, tinh thần của các Nghị quyết của Đảng làm kim chỉ nam cho công tác tư pháp nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp, bảo đảm tốt hơn quyền tự do dân chủ của công dân, bảo đảm sự thống nhất và đồng bộ giữa các văn bản pháp luật, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay. Xuất phát từ thực trạng và tinh thần đó, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ luật học là cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là một trong những vấn đề bức xúc và nhạy cảm đã được một số nhà khoa học và những người làm công tác thực tiễn nghiên cứu dưới dạng luận văn thạc sĩ, các bài báo, bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, có thể kể đến một số côngtrình như: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự Việt Nam - Luận văn thạc sĩ của tác giả Dương Phạm Anh Khoa(2014): Luận văn đã nêu lên một số tồn tại và vướng mắc giữa quy định của chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và thực tiễn áp dụng, phân tích thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, chỉ ra được một số nguyên nhân của tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều trong tố tụng hình sự và đưa ra các giải pháp, kiến nghị để hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung, 2
  7. đáp ứng yêu cầu đặt ra đối với hoạt động tố tụng hình sự; Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - Luận văn thạc sĩ của tác giả Dương Thị Thùy Trang (2016): Luận văn đã trình bày được một số vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung như khái niệm, căn cứ, mối quan hệ chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, nêu và đánh giá được thực trạng trả điều tra bổ sung của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ đó rút ra những nguyên nhân của thực trạng trên và đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong cải cách tư pháp; Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự của tác giả Đỗ Kha, Tạp chí Kiểm sát số 01/2007: Bài viết đã nêu lên thực trạng về trả hồ sơ đề điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trên toàn quốc từ năm 2002 đến 2005, từ đó rút ra được một số nguyên nhân cơ bản và đưa ra những biện pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự; Bàn về quy định “Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung” trong điều kiện cải cách tư pháp của tác giả Mai Văn Lư, tạp chí Kiểm sát số 11/2010: Bài viết chỉ ra một số hạn chế, bất cập trong việc điều tra, truy tố và xét xử và từ đó đưa ra những giải pháp cơ bản khi bỏ quy định về “Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung”; Hoàn thiện quy định của BLTTHS về việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung của tác giả Vũ Gia Lâm, tạp chí Tòa án nhân dân số 8/2013: Bài viết trao đổi một số bất cập, vướng mắc của các quy định BLTTHS năm 2003 về việc Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, trên cơ sở đó, đề xuất việc tiếp tục hoàn thiện quy định của BLTTHS về vấn đề này; 3
  8. Ngoài ra còn rất nhiều đề tài, bài viết, bài nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Dân chủ và pháp luật Trong các công trình trên, ở mức độ này hay mức độ khác vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung đã được đề cập đến, nhất là các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thậm chí có người đặt vấn đề xem xét tính hợp lý, cần thiết của chế định này trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền. BLTTHS 2015 ban hành đã lâu nhưng vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung vẫn chưa được hoàn thiện và còn nhiều vướng mắc trong thực tế. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung; thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung và đánh giá thực trạng đó, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện tốt hơn nữa quy định của pháp luật và hạn chế trả hồ sơ để điều tra bổ sung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung và thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự Việt Nam; Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân trong phạm vi quận Tân Phú. Luận văn không nghiên cứu việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tố tụng trong quân đội. Tư liệu và số liệu để nghiên cứu trong luận văn được khai thác từ các báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân từ năm 2015 đến năm 2020. 4
  9. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật. Phương pháp phân tích tổng hợp vừa đảm bảo tính khái quát của vấn đề được nghiên cứu vừa đảm bảo tính chuyên sâu ở mỗi nội dung liên quan đến trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Phương pháp thống kê được sử dụng để nêu rõ số liệu thực tiễn về thực hiện quy định pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung; 6. Ý nghĩa và lý luận thực tiễn - Về ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần bổ sung vấn đề lý luận trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự Việt Nam. - Về ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dung làm tài liệu tham khảo trong việc học tập và nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự nói chung cũng như vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Luận văn cũng có giá trị tham khảo đối với những người làm công tác thực tiễn góp phần hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm ba chương: Chương 1: Lý luận chung về trả hồ sơ để điều tra bổ sung Chương 2: Thực trạng áp dụng trả hồ sơ điều tra bổ sung trên địa bà quận Tân Phú Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung 5
  10. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1. Nhận thức chung về trả hồ sơ điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự. 1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động trả hồ sơ điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự. -Khái niệm, đặc điểm Trả hồ sơ điều tra bổ sung không phải là một chế định mới trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nhưng đến nay chế định này vẫn chưa có khái niệm cụ thể theo quy định của pháp luật. Chỉ được đưa ra theo nhiều cách khác nhau như trong giáo trình, luận văn hoặc tạp chí về luật pháp. Ví dụ như khái niệm như sau: - “Điều tra bổ sung là hoạt động điều tra thêm về vụ án hình sự của Cơ quan điều tra theo yêu cầu của Viện kiểm sát hay Tòa án nhằm phát hiện, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án được đúng đắn, khách quan.” [21] - Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một hoạt động tố tụng được quy định tại Điều 168 và Điều 179 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 nhằm khắc phục những tồn tại, thiếu sót của các cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, triệt để, chính xác và đúng pháp luật. - Điều tra bổ sung là một hoạt động được quy định trong Bộ luật Tốtụng hình sự do cơ quan có thẩm quyền thực hiện nhằm bảo đảm việc xử lý vụ án hình sự đúng đắn và có căn cứ pháp luật. Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung chỉ được thực hiện khi vụ án còn thiếu chứng cứ quan trọng mà Viện 6
  11. kiểm sát không tự điều tra được hoặc Tòa án không thể làm rõ được khi xét xử vụ án, do đó mục đích trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm bảo đảm việc truy tố, xét xử vụ án hình sự khách quan, toàn diện, xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. - Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là chế định của luật tố tụng hình sự quy định Viện kiểm sát hoặc Tòa án chuyển trả hồ sơ cho Viện kiểm sát hoặc Cơ quan điều tra để điều tra thêm về vụ án hình sự theo các căn cứ được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm mục đích làm sáng tỏ vụ án hình sự, để Tòa án xét xử vụ án một cách công minh, chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Có thể nói, các khái niệm trên đã đưa được những luận điểm hợp lý về thẩm quyền, căn cứ, trình tự, thủ tục và mục đích của trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Về thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung, chúng ta biết rằng việc giải quyết vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn tố tụng, trong đó ba giai đoạn quan trọng nhất là điều tra, truy tố, xét xử. Mỗi giai đoạn được pháp luật tố tụng hình sự quy định những nhiệm vụ, quyền hạn riêng nhưng có liên quan mật thiết với nhau, giai đoạn trước làm tiền đề cho việc thực hiện giai đoạn sau. Vì vậy, nếu trong giai đoạn điều tra vụ án có thiếu sót, các chứng cứ chưa rõ ràng và còn có những mâu thuẫn, phát sinh những chứng cứ mới có ý nghĩa đối với việc đánh giá bản chất của vụ án, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội, có biểu hiện vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc thiếu các thủ tục tố tụng và một số các lý do khác như có sự khác nhau về quan điểm đánh giá vụ án giữa các cơ quan và người tiến hành tố tụng mà không tự mình làm rõ được thì trong giai đoạn truy tố hoặc giai đoạn xét xử, 7
  12. các cơ quan tiến hành tố tụng có thể tự khắc phục được hoặc trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra bổ sung. Do đó, Viện kiểm sát, Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một yêu cầu khách quan của quá trình tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo việc điều tra, truy tố và xét xử được đầy đủ, toàn diện, khách quan, chính xác, tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm. Khi thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Viện kiểm sát, Tòa án phải đảm bảo căn cứ, không phải trường hợp nào cũng có thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Pháp luật tố tụng hình sự đã quy định cụ thể về các căn cứ này nhằm ngăn chặn tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng trả hồ sơ để điều tra bổ sung tràn lan, không cần thiết. Đồng thời, Viện kiểm sát, Tòa án còn phải tuân thủ trình tự, thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Mọi hoạt động tố tụng hình sự đều phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa để quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được khách quan, chính xác và hợp pháp. Do vậy, pháp luật tố tụng hình sự cũng đã ban hành một trình tự, thủ tục hợp lý về việc ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thời hạn và số lần trả hồ sơ, việc thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung và những hậu quả pháp lý của trả hồ sơ để điều tra bổ sung để các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện thống nhất trong thực tiễn. Bên cạnh đó, còn phải kể đến mục đích của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đối với bất cứ hoạt động tố tụng hình sự nào luôn được các chủ thể thực hiện với một mục đích nhất định, có một ý nghĩa nhất định. Từ giai đoạn điều tra, truy tố cho đến giai đoạn xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng luôn hướng tới việc chứng minh tội phạm và sự thật khách quan. Nếu quá trình giải 8
  13. quyết vụ án được thực hiện đầy đủ, khách quan thì việc chứng minh tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội sẽ đúng đắn, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Đây là mục đích xuyên suốt, là kim chỉ nam cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Do đó, chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung ra đời nhằm mục đích khắc phục những thiếu sót trong quá trình chứng minh tội phạm và đi tìm sự thật khách quan của các cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo cho công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm được thực hiện hiệu quả hơn. Từ sự phân tích trên, có thể rút ra các đặc điểm của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung như sau: Thứ nhất, trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một hoạt động tố tụng do các cơ quan tiến hành tố tụng (Viện kiểm sát, Tòa án cấp sơ thẩm) thực hiện. Hình thức của hoạt động tố tụng này chính là quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nội dung của quyết định phải thể hiện rõ thẩm quyền, căn cứ, số, ngày tháng năm, địa điểm ban hành và quan trọng nhất là phải ghi rõ những vấn đề cần điều tra bổ sung. Cơ quan điều tra là cơ quan có trách nhiệm thực hiện quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát. Tương tự, Viện kiểm sát là cơ quan có trách nhiệm thực hiện quyết định của Tòa án,Viện kiểm sát có thể tự mình điều tra bổ sung hoặc trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra những vấn đề Tòa án yêu cầu trong trường hợp không thể tự mình bổ sung được; Thứ hai, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung chỉ do Viện kiểm sát và Tòa án tiến hành (trong giai đoạn truy tố và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự) trên cơ sở tuân thủ các quy định của BLTTHS về căn cứ, trình tự, thủ tục Ngoài 9
  14. Viện kiểm sát và Tòa án, các cơ quan khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng không có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Thứ ba, mục đích của việc quy định chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự là nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử phải thật sự đầy đủ, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung chính là cơ hội để cơ quan tiến hành tố tụng được sửa sai, bổ sung những thiếu sót còn tồn tại trong quá trình thu thập, đánh giá chứng cứ và bảo đảm thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đó vừa là quyền nhưng cũng là nghĩa vụ pháp lý mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện, cũng là một yêu cầu khách quan trong hoạt động tố tụng hình sự để đảm bảo các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ của mình. Từ những đặc điểm cơ bản trên, có thể hiểu: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là hoạt động tố tụng do Viện kiểm sát, Tòa án thực hiện trong giai đoạn truy tố hoặc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự khi có các căn cứ và được tiến hành theo trình tự, thủ tục mà Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự đầy đủ, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. -Vai trò Trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm đảm bảo việc xác định sự thật khách quan của vụ án, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như làm oan người vô tội. Qua hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng có điều kiện đánh giá, tìm ra được những 10
  15. nguyên nhân của những việc đã làm được cũng như những tồn tại trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ đó có biện pháp để kịp thời sửa chữa, khắc phục những sai sót, đồng thời tích lũy thêm được những kinh nghiệm thực tiễn quý báu từ hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Nguyên tắc này được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 10 BLTTHS: “Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo” [4, tr.13]. Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong việc giải quyết vụ án hình sự của Tòa án nhân dân có vai trò trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Sau nhiều lần sửa đổi đã phát huy hiệu quả trong thực tế. Tuy nhiên, vẫn có những quy định chưa phản ánh đầy đủ, có những quy định đã trở nên lạc hậu, có những quy định chưa đầy đủ làm cho người áp dụng pháp luật lúng túng. 1.2 Quy định của pháp luật về trả hồ sơ điều tra bổ sung 1.2.1 Khái quát quy định của pháp luật tố tụng hình sự về THSĐTBS Trả hồ sơ điều tra bổ sung được BLTTHS năm 1988 quy định tại các Điều 154 và Điều 173. [21] Điều 154. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. 1. Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung trong những trường hợp sau đây: a) Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên toà được; 11
  16. b) Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; c) Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Những vấn đề cần điều tra bổ sung phải được nói rõ trong quyết định yêu cầu điều tra bổ sung. 2. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới đình chỉ vụ án thì Viện Kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và báo cho Toà án biết. Trong trường hợp Viện Kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Toà án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Toà án vẫn tiến hành xét xử. Điều 173. Việc ra bản án và các quyết định của Toà án. 1. Bản án của Toà án quyết định việc bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Bản án phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. 2. Quyết định về việc thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch, thư ký phiên toà; chuyển vụ án, yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải được viết thành văn bản. 3. Quyết định về vấn đề khác được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án, không phải viết thành văn bản, nhưng phải được ghi vào biên bản phiên toà. 12
  17. Theo quy định tại điểm c khoản 5 mục IV của Thông báo số 61/KT-LN giữa Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ nội vụ Hướng dẫn về thời hạn điều tra bổ sung thì thời hạn trả hồ sơ để điều tra bổ sung không quá 01 tháng. Trả hồ sơ điều tra bổ sung được BLTTHS năm 2003 quy định tại các Điều 179 và Điều 199. [22] Điều 179. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung trong các trường hợp sau đây: a) Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên toà được; b) Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác. c) Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Những vấn đề cần điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu cầu điều tra bổ sung. 2. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện Kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Toà án biết. Trong trường hợp Viện Kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án". Điều 199. Việc ra bản án và các quyết định của Tòa án 13
  18. 1. Bản án của Tòa án quyết định việc bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Bản án phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. 2. Quyết định về việc thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, yêu cầu điều ra bổ sung, tạm đình hoặc đình chỉ vụ án và việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản. Theo quy định tại khoản 2 Điều 121 BLTTHS năm 2003 thì thời hạn Tòa án trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung là không quá 01 tháng. Nhìn chung, việc trả hồ sơ điều tra bổ sung của BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003 không có sự thay đổi gì về các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tuy nhiên BLTTHS 2015 lại có những thay đổi đáng kể so với BLTTHS 2003. Những thay đổi này càng phù hợp và góp phần tạo ra sự thống nhất giữa Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, phù hợp với mô hình tố tụng thẩm vấn của nước ta và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam hiện nay. Tòa án trả điều tra bổ sung được quy định tại điều 245 và điều 280 BLTTHS 2015. [23] Điều 245 Trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung 1. Viện Kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ vụ án, yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp: 14
  19. a) Còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà Viện Kiểm sát không thể tự mình bổ sung được; b) Có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác; c) Có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can; d) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. 2. Quyết định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung phải ghi rõ vấn đề cần điều tra bổ sung quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này. 3. Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện đầy đủ yêu cầu nêu trong quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung của Viện Kiểm sát; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà không thực hiện được thì phải nêu rõ lý do bằng văn bản. Kết thúc điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra phải có bản kết luận điều tra bổ sung. Bản kết luận điều tra bổ sung phải ghi rõ kết quả điều tra bổ sung, quan điểm giải quyết vụ án. Nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản kết luận điều tra trước đó thì Cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra mới thay thế. Việc chuyển hồ sơ vụ án kèm theo kết luận điều tra bổ sung cho Viện Kiểm sát; việc giao, nhận, gửi thông báo kết quả điều tra bổ sung được thực hiện theo quy định tại Điều 232 và Điều 238 của Bộ luật này. Điều 280. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung 1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp: 15
  20. a) Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; b) Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện Kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm; c) Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can; d) Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng. 2. Trường hợp Viện Kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện Kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ. 3. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi rõ những vấn đề cần điều tra bổ sung và gửi cho Viện Kiểm sát kèm theo hồ sơ vụ án trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện Kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới phải thay đổi quyết định truy tố thì Viện Kiểm sát ban hành bản cáo trạng mới thay thế bản cáo trạng trước đó. Trường hợp Viện Kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. 16
  21. 1.2.2 Quy định của BLTTHS hiện hành về THSĐTBS So sánh trả điều tra bổ sung giữa bộ luật tố tụng hình sự 2003 và bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tiêu chí Bộ luật tố tụng hình Bộ luật tố tụng hình sự 2015 sự 2003 Điều luật 179 280 Căn cứ 3 trường hợp 4 trường hợp Them 1 trường hợp mới là bị can thực hiện hành vi khác mà bộ luật hình sự quy định là tội phạm. Số lần trả 2 lần Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ hồ sơ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần Viện Không có Được quy định tại khoản 2 điều 280 Kiểm sát Có thể tự điều tra mà chủ động không cần trả hồ sơ yêu cầu cho cơ quan điều tra trả hồ sơ Kỹ thuật BLTTHS 2003 dùng Quy định rõ những chứng cứ trong xây dựng cụm từ” Chứng cứ điều 85 là quan trọng cần thiết để xét văn bản quan trọng đối với vụ xử vụ án. án” nhưng không nêu rõ là chứng cứ gì. 17
  22. Ngoài ra việc khắc phục lỗi về trả hồ sơ điều tra bổ sung của BLTTHS 2003 trong BLTTHS 2015 dẫn đến việc thay thế Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC bằng Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 22/12/2017. Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC đã được sửa đổi, bổ sung về nội dung, hình thức cho phù hợp với những quy định mới [27]. Cụ thể là những sửa đổi sau: Thứ nhất, Thông tư 02 đã sửa đổi các thuật ngữ, điều khoản trích dẫn trong Thông tư cho phù hợp với quy định BLTTHS năm 2015, ví dụ như BLTTHS năm 2015 đã sử dụng những cụm từ mới như “chứng cứ để chứng minh”, “người dưới 18 tuổi”, “thực hiện hành vi khác mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm” Thứ hai, về căn cứ còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 BLTTHS năm 2015 mà Viện kiểm sát, Tòa án không thể tự mình bổ sung được. Theo quy định tại Điều 85 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một số vấn đề mới mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh trong vụ án hình sự như: Nguyên nhân và điều kiện phạm tội là chứng cứ xác định người thực hiện hành vi phạm tội do những nguyên nhân chủ quan, khách quan nào, những điều kiện cụ thể nào dẫn đến việc phạm tội. Khi chứng minh được nguyên nhân và điều kiện phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng một mặt sẽ áp dụng những biện pháp cải tạo, giáo dục người phạm tội có hiệu quả hơn, giúp họ tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong hình phạt, mặt khác đề xuất hoặc áp dụng các biện pháp đấu tranh, phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. 18
  23. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt là những vấn đề được quy định tại BLHS năm 2015, đó là Chương IV về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, Điều 29 về các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự, Điều 59 về miễn hình sự. Những chứng cứ để chứng minh về các vấn đề trên cần được Thông tư hướng dẫn rõ về nội dung, căn cứ áp dụng để làm cơ sở cho yêu cầu điều tra bổ sung. Ngoài ra, trong vấn đề cần phải chứng minh “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định một con người, một pháp nhân cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó thì Thông tư 02 đã hướng dẫn bổ sung về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong trường hợp pháp nhân phạm tội tại điểm n khoản 2 điều 3 theo quy định mới của BLHS năm 2015. Thứ ba, về căn cứ ngoài hành vi mà Viện Kiểm sát đã truy tố bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm. tách điểm b điều 179 BLTTHS 2003 thành điểm b và c của điều 280 BLTTHS 2015 nên các quy định của Thông tư 02 đã sửa đổi, bổ sung các trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo căn cứ này cho phù hợp với quy định của BLTTHS năm 2015, cụ thể là các trường hợp: - Khởi tố và điều tra về một hay nhiều tội nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can đó thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác; - Ngoài tội phạm đó khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy có căn cứ để khởi tố bị can về một hay nhiều tội khác; - Ngoài bị can đó bị khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác có liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can. 19