Luận văn Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 12 Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 76 trang vuhoa 25/08/2022 8281
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 12 Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_tra_ho_so_de_dieu_tra_bo_sung_trong_giai_doan_xet_x.pdf

Nội dung text: Luận văn Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 12 Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN THANH NGUYỄN TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 12 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN THANH NGUYỄN TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 12 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI - 2017
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM 8 1.1._Những vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm 8 1.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm . 21 Chƣơng 2: THỰC TIỄN TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM TẠI QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 34 2.1. Khái quát về thực trạng xét xử hình sự sơ thẩm tại Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh . 34 2.2. Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm tại Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh 35 2.3. Đánh giá thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm tại Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh 41 Chƣơng 3: BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ĐÚNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM 50 3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự 50 3.2. Tổ chức thực hiện đúng các quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm . 53 3.3. Tăng cường mối quan hệ giữa Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân 60 3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ 61 KẾT LUẬN . . 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . .67
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật Hình sự BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra TAND: Tòa án nhân dân TTHS: Tố tụng hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
  5. MỞ ĐẦU 1._Tính cấp thiết của đề tài Đất nước ta đang trên đường đổi mới toàn diện với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do vậy, mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân luôn được coi là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Yêu cầu đặt ra đối với pháp luật trước hết phải có những quy định chặt chẽ về bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Việc quy định này chỉ là hình thức nếu nó không được thực hiện trong thực tế. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân là mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm của các thiết chế nhà nước và pháp luật dân chủ. Bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quyền công dân đã được pháp luật quy định là tiêu chí để đánh giá sự văn minh, tiến bộ của một xã hội hiện đại. Mục tiêu đối với các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự là đảm bảo cho việc xét xử đúng người, đúng tội và không làm oan người vô tội. Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng là một phần của quá trình thực hiện mục tiêu này. Thực tiễn việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm tại Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua có nhiều khó khăn vướng mắc. Hàng năm Tòa án nhân dân Quận 12 đều trả hồ sơ để điều tra bổ sung, có năm trả để điều tra bổ sung trên 50 vụ án hình sự. Có những vụ trả hồ sơ điều tra bổ sung để điều tra thêm chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung làm rõ tại phiên tòa được; cũng có những 1
  6. vụ án trả hồ sơ vì có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; có vụ trả hồ sơ điều tra bổ sung khi phát hiện vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên có trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung thì được Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp chấp nhận, có vụ không được chấp nhận và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Những lý do điều kiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung thực hiện theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 176, khoản 1 Điều 179, khoản 2 Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và mới đây là quy định tại Điều 85, Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 thì “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ” Để góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi việc áp dụng pháp luật phải đúng đắn và phù hợp là một yêu cầu tất yếu trong các biện pháp hoàn thiện pháp luật. Do đó để khắc phục được những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật chính xác đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và cũng không làm oan người vô tội, để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì việc nghiên cứu việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm dưới góc độ lý luận và thực tiễn để thông qua đó có những kiến nghị hoàn thiện pháp luật, có những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh là cần thiết. 2
  7. Từ những lý do trên mà tác giả chọn đề tài “Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn Thạc sỹ Luật. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thực tế từ trước đến nay đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung với những quy mô, phương diện khác nhau. Chẳng hạn như: “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự” năm 2003 của GS.TS Võ Khánh Vinh; “Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay” của PGS.TS Trần Văn Độ; “Hoàn thiện chế định Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” tác giả Nguyễn Ngọc Kiện, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 7/2012; “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung” của tác giả Vũ Gia Lâm, Tạp chí Tòa án nhân dân số 3/2013 luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Văn Hải với đề tài “Trả hồ sơ điều tra điều tra bổ sung theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” (Học viện khoa học xã hội – năm 2014; gần đây là luận văn thạc sỹ của tác giả Dương Thị Thùy Trang với đề tài “Trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” (Học viện Khoa học xã hội – năm 2016”. Các công trình khoa học, luận văn của các tác giả đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu chỉ nghiên cứu một số khía cạnh, tình tiết cụ thể đang còn tranh cãi trong thực tiễn. Chưa có nhiều nghiên cứu một cách toàn diện về nguyên nhân và hạn chế trong việc áp dụng các quy định về việc trả hồ sơ để điều tra 3
  8. bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm dẫn đến tình trạng hiểu và áp dụng pháp luật còn chưa thống nhất; gặp nhiều vướng mắc khi áp dụng và hiện tại vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết triệt để. Thực tiễn cho thấy có nhiều vấn đề trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung chưa thống nhất với lý luận khoa học. Vì các lý do nêu trên và để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của tình hình hiện nay tác giả lựa chọn đề tài “Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm từ thực tiễn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh” để thực hiện Luận văn Thạc sỹ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của Luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh mà tác giả có những kiến nghị hoàn thiện pháp luật, đề xuất nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu + Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm. + Nghiên cứu thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm tại Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Khái quát về thực trạng xét xử hình sự sơ thẩm tại Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm tại Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. 4
  9. Đánh giá thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm tại Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. + Các giải pháp bảo đảm trả hồ sơ để điều tra bổ sung đúng trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự. Tổ chức thực hiện đúng các quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm. Tăng cường mối quan hệ giữa Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan cảnh sát điều tra Nâng cao năng lực của cán bộ 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Các quan điểm khoa học pháp lý hình sự, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm ở địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ khoa học luật hình sự và tố tụng hình sự, các số liệu phục vụ nghiên cứu đề tài được tác giả luận văn thu thập thống kê trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015 và một phần của năm 2016. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phƣơng pháp luận nghiên cứu: Đề tài này được nghiên cứu trên dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin với phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước ta 5
  10. về đấu tranh phòng chống tội phạm, về chiến lược cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay của nước ta. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Thống kê tội phạm, tổng kết kinh nghiệm, phân tích, diễn giải, tổng hợp, so sánh, đánh giá để giải quyết những vấn đề khoa học đặt ra từ nội dung yêu cầu của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn: Với kết quả đạt được của luận văn có thể góp vào lý luận về việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm dưới góc độ pháp lý tố tụng hình sự và đưa ra cơ sở của hoạt động hoàn thiện pháp luật về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo đối với những người làm công tác thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu cho những người làm công tác pháp luật, cho việc học tập, giảng dạy môn Luật tố tụng hình sự và làm tài liệu trong hoạt động lập pháp, hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm. 7. Cơ cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn có 03 chương; danh mục tài liệu tham khảo. Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm 6
  11. Chương 2: Thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm tại Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Biện pháp bảo đảm trả hồ sơ để điều tra bổ sung đúng trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm 7
  12. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM 1.1. Những vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm 1.1.1. Khái niệm hồ sơ vụ án hình sự Để hiểu rõ chế định trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung [37, Điều 121, Điều 179] thì trước tiên cần nhận biết được khái niệm hồ sơ vụ án hình sự. Cho đến nay thì vẫn chưa có khái niệm cụ thể về khái niệm hồ sơ vụ án hình sự. Tuy nhiên dựa trên cơ sở tố tụng hình sự thì hồ sơ vụ án hình sự được lập theo đúng thủ tục tố tụng hình sự, nội dung của hồ sơ vụ án chính là nội dung các văn bản, các tài liệu được tập hợp trong hồ sơ. Mỗi tài liệu sẽ phản ánh một hoặc nhiều vấn đề trong vụ án. Và các tài liệu này có quan hệ mật thiết với nhau để phản ánh nội dung vụ án. Khi đã được đưa vào hồ sơ vụ án thì các văn bản tài liệu sẽ là căn cứ pháp lý để cơ quan có thẩm quyền áp dụng giải quyết vụ án. Các văn bản tài liệu thu thập được của hồ sơ vụ án hình sự được hình thành từ thời điểm có quyết định khởi tố vụ án hình sự được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn [37, Điều 104]. Khi tiếp nhận thông tin về tội phạm, hoặc phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm, cơ quan có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, xác minh và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu xác định có dấu hiệu cấu thành tội phạm. Sau đó tiến hành các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để chứng minh tội phạm và người phạm tội. Nếu có đủ chứng cứ để xác định có hành vi phạm tội xảy ra và người đã thực hiện hành vi phạm tội, cơ quan có thẩm quyền điều tra ra bản kết luận điều tra, hoàn thành hồ sơ vụ án chuyển sang cho Viện kiểm sát đề nghị truy tố. Nếu xét 8
  13. thấy việc khởi tố vụ án không có căn cứ hoặc hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền điều tra ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Nếu bị can bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y hoặc không xác định được bị can, hay không biết bị can đang ở đâu thì cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sẽ thấy rõ các hoạt động của cơ quan điều tra đã tiến hành như việc ban hành các quyết định như: Quyết định khởi tố vụ án, quyết định tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ điều tra, lệnh truy nã .; xác minh lý lịch bị can; bản kết luận điều tra. Và cũng chỉ có cơ quan có thẩm quyền điều tra mới xác định việc khởi tố vụ án hình sự, xác định người bị khởi tố và người được hỏi cung thể hiện trong hồ sơ là người được nhận bản kết luận điều tra. Khi hoàn tất hồ sơ thì cơ quan điều tra giao hồ sơ và đề nghị Viện kiểm sát truy tố. Tùy từng trường hợp mà Viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định như đình chỉ vụ án, trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc ra bản cáo trạng truy tố bị can ra trước Tòa án. Tất cả các quyết định này đều dựa trên cơ sở là những gì mà cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án ở giai đoạn điều tra trước đó. Khi chuyển hồ sơ quan Tòa án để xét xử thì mọi thủ tục tố tụng cũng chỉ căn cứ vào hồ sơ vụ án. Tòa án nghiên cứu hồ sơ và có thể ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án hình sự hoặc ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và mở phiên tòa xét xử vụ án. Để đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa theo Điều 3 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015), đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật chính xác, không tạo kẽ hở cho người phạm tội có cơ hội lợi dụng thì khi thiết lập hồ sơ vụ án hình sự, xác minh lý lịch bị can, cơ quan điều tra cần phải dán ảnh vào lý lịch, lập danh chỉ bản của bị can để khi chuyển hồ sơ qua cơ quan 9
  14. Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng còn có căn cứ để nhận diện đúng người được đưa ra xét xử và có tên trong hồ sơ cùng là một, nhằm tránh nhầm lẫn oan sai. Hồ sơ vụ án là nguồn cơ bản cung cấp những thông tin, diễn biến của vụ án. Dựa vào hồ sơ vụ án, Tòa án kịp thời phát hiện ra những thiếu sót trong quá trình điều tra, truy tố của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát để yêu cầu điều tra bổ sung. Nếu hồ sơ đã thu thập đầy đủ chứng cứ, tài liệu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án. Đây là cơ sở để Tòa án ra bản án công minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Như vậy, hồ sơ vụ án hình sự là tập hợp các hệ thống các văn bản, tài liệu, chứng cứ được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và được sắp xếp theo một trình tự nhất định phục vụ cho việc giải quyết vụ án và lưu trữ. 1.1.2. Khái niệm điều tra bổ sung Điều tra là hoạt động tìm tòi xét hỏi người, việc [62, tr.204] để tìm cho ra sự thật. Khái niệm về điều tra mang tính pháp lý là [Điều tra là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án]. Hoạt động điều tra là cần thiết đối với các vụ án hình sự. Tòa án chỉ có thể xét xử vụ án trên cơ sở vụ án đã được điều tra, lập hồ sơ và có quyết định truy tố bằng bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Thiếu hoạt động điều tra, không có hồ sơ vụ án thì Tòa án không có cơ sở để xét xử. Bản chất của hoạt động điều tra là hoạt động phát hiện, thu thập, củng cố, ghi nhận, thu giữ những thông tin của vụ án. Có quan điểm cho rằng điều tra là hoạt động của cơ quan điều tra trong vụ án hình sự. Điều tra là tổng hợp tất cả các hành vi thực hiện trong giai 10
  15. đoạn điều tra và [37, Chương IX] do một cơ quan điều tra thực hiện. Ví dụ: Điều tra là một giai đoạn của quá trình TTHS, trong đó cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động điều tra, quyết định truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án; hoặc điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS, trong giai đoạn này cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ luât tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người phạm tội. Cách hiểu này thể hiện ranh giới không rõ ràng giữa chức năng của cơ quan điều tra với hoạt động điều tra mang tính cục bộ, phiến diện, bó hẹp phạm vi hoạt động điều tra chỉ được tiến hành trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trên thực tế hoạt động điều tra được tiến hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự với những mục đích khác nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án. Quan điểm này chỉ thừa nhận cơ quan điều tra là một chủ thể duy nhất có thẩm quyền được phép thực hiện các hoạt động điều tra. Thực tế thì điều tra là hoạt tố tụng của Cơ quan điều tra và những cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm và người có hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Quan điểm này nhìn nhận điều tra dưới góc độ là hoạt động tố tụng hình sự, trong đó chủ thể có thẩm quyền thực hiện hoạt động điều tra là cơ quan điều tra và những cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên khái niệm này mang tính chi tiết và cụ thể không có tính khái quát cao. Điều tra là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Điểm 11
  16. khác biệt lớn nhất của quan điểm này là đã nhìn nhận chủ thể của hoạt động điều tra rộng hơn. Quan điểm này nhìn nhận hoạt động điều tra dưới góc độ là một giai đoạn tố tụng độc lập trong các giai đoạn tố tụng hình sự, gồm: điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.Quan điểm này đã đồng nhất giai đoạn điều tra với hoạt động điều tra, coi hoạt động điều tra gồm mọi hoạt động trong giai đoạn điều tra. Trên thực tế hoạt động điều tra được tiến hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự với những mục đích khác nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án. Cho đến nay ở Việt Nam chưa có một khái niệm pháp lý về hoạt động điều tra và cũng chưa được giải thích chính thức bởi các cơ quan có thẩm quyền. Trong Bộ luật TTHS chưa có điều luật nào giải thích hoặc định nghĩa về hoạt động điều tra. Hoạt động điều tra mang bản chất của hoạt động nhận thức. Nhận thức thông qua một quá trình từ trực quan sinh động (cảm giác, tri giác và biểu tượng) đến tư duy trừu tượng (khái niệm, phán đoán và suy lý) dựa vào hệ thống phương pháp nhận thức lý thuyết (trừu tượng hóa và khái quát; giả định – suy diễn; tiên đề - kết luận; thuật toán; hệ thống - cấu trúc; hình thức hóa và mô hình hóa) và phương pháp thực nghiệm (thí nghiệm, quan sát, đo đạc). Kết quả nhận thức đạt tới chân lý khách quan. Trong tố tụng hình sự, chân lý khách quan cần khám phá là sự thật khách quan của vụ án đã xảy ra. Trước hết tội phạm được phản ánh vào môi trường xung quanh thông qua các dấu vết, hình ảnh của nó để lại trên các khách thể của vật chất, trong trí nhớ của những người tham gia tố tụng. Dấu vết tội phạm là cơ sở thực tiễn khách quan cho hoạt động chứng minh tội phạm, cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng nghiên cứu, xem xét, tìm ra những quy luật hình thành chúng, để xây dựng nên bản đồ vụ án và từ đó kết luận về những sự kiện có liên quan đến chúng. Tuy nhiên, tự bản thân dấu vết tội phạm chưa phải là chứng cứ; 12
  17. mà muốn là chứng cứ, các dấu vết đó phải được các cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, thu thập và phản ánh nó trong hồ sơ vụ án theo đúng trình tự thủ tục luật định. Đây là quá trình hình thành chứng cứ. Khách thể nhận thức trong hoạt động điều tra là các dấu vết tội phạm cho nên chủ thể cần phải biết bản chất của dấu vết. Dấu vết có thuộc tính chung nhưng cũng có những thuộc tính riêng. Đây là cơ sở, tiêu chí khách quan để phân loại dấu vết. Thuộc tính quan trọng nhất của dấu vết là bản chất tín hiệu chuyển tải thông tin của nó. Ví dụ; có những dấu vết mà thông tin của nó được thể hiện, chuyển tải ra ngoài thông qua những dấu hiệu vật lý của khách thể vật chất (như hình thức, dung lượng, màu sắc, nhiệt độ và mùi vị); có loại dấu vết mà thông tin của nó không cảm nhận trực tiếp được, chẳng hạn như khi xem xét tài liệu giả, Điều tra viên – Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán không thể bằng mắt thường phát hiện được các dấu hiệu giả mạo của nó, hoặc trên những công cụ phạm tội để lại hiện trường chứng ta không thể dễ dàng nhìn thấy dấu vết vi mô. Trong những trường hợp này đòi hỏi phải có những phương pháp nhận thức chuyên môn. Hay nói cách khác, phương pháp nhận thức phải phù hợp với từng loại dấu vết. Mục đích của hoạt động điều tra là thu nhận được những dạng và nội dung thông tin nhất định từ khách thể - dấu vết tội phạm. Tùy thuộc và những mục đích khác nhau và những phương pháp tương ứng, hoạt động điều tra cho phép thu nhận được những thông tin khác nhau về nội dung và hình thức từ chính dấu vết đó. Từ những phân tích nêu trên cho thấy hoạt động điều tra là phương thức hoạt động của chủ thể nhằm cảm thụ, tiếp nhận và phản ánh thông tin chứa đựng các dấu vết tội phạm. Theo từ điển tiếng Việt “bổ sung” có nghĩa là thêm vào cho đầy đủ [27, tr. 69]. Nội dung hồ sơ đồng nghĩa với nội dung vụ án được xét xử. Để đảm bảo cho việc truy tố và xét xử đúng đắn, các chứng cứ trong hồ sơ vụ án phải 13
  18. đầy đủ và đảm bảo đúng thủ tục tố tụng. Nếu hồ sơ còn thiếu những chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội, vi phạm tố tụng nghiêm trọng thì Viện kiểm sát hoặc Tòa án sẽ yêu cầu điều tra bổ sung. Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Cảnh sát nhân dân thì “điều tra bổ sung là hoạt động điều tra thêm về vụ án hình sự của cơ quan Điều tra theo yêu cầu của Viện kiểm sát hay Tòa án nhằm phát hiện, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án được đúng đắn khách quan” như vậy trả hồ sơ để điều tra bổ sung là việc của Tòa án chuyển trả hồ sơ cho Viện kiểm sát hoặc Viện kiểm sát chuyển trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung. Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam thì điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự được hiểu là: “hoạt động điều tra thêm về vụ án hình sự sau khi kết thúc điều tra và thực hiện trong trường hợp Viện kiểm sát hoặc Tòa án, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án mà phát hiện thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án, hoặc có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hay có người đồng phạm khác, hoặc khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”. Từ đó có thể hiểu việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung là quá trình khắc phục những vi phạm về thủ tục tố tụng nếu có, làm rõ, bổ sung thêm những chứng cứ còn yếu, còn thiếu, chưa toàn diện chứ không phải là quá trình điều tra lại. Do đó, điều tra bổ sung khác với điều tra lại. Điều tra lại là hoạt động điều tra theo trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự, do cơ quan điều tra tiến hành đối với các vụ án đã được xét xử nhưng do Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hủy bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại theo thủ tục chung. Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại khi nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không 14
  19. thể bổ sung được. Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại khi nhận thấy có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra hoặc có những vi phạm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật hình sự. Khác với điều tra lại, hậu quả pháp lý của điều tra bổ sung là cơ quan bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải tiếp tục nhận lại hồ sơ vụ án và xem xét thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung của cơ quan đã ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung. Như vậy từ viện dẫn nêu trên và quy định tại Điều 176, Điều 179, Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và mới đây là quy định tại Điều 85, Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, chúng tôi cho rằng trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm là hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện sau khi kết thúc điều tra, đã có bản cáo trạng do Viện kiểm sát hoặc Tòa án tiến hành dựa trên các căn cứ được Bộ luật tố tụng hình sự quy định nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án chính xác, khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. 1.1.3. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Để giải quyết vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn phản ánh một hướng nhất định của hoạt động tố tụng, các giai đoạn tuy độc lập nhưng nằm trong mối quan hệ khăng khít với nhau và tạo thành một chuỗi thống nhất. Mỗi giai đoạn tố tụng hình sự có những nhiệm vụ riêng và mang đặc thù về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng, văn bản tố tụng. Căn cứ vào các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chia tố tụng hình sự thành bảy giai đoạn đó là: Khởi tố vụ án hình sự, điều tra vụ án hình sự, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, thi hành án và thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. 15
  20. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được coi là giai đoạn trọng tâm của quá trình tố tụng vì “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, để xác định một người có tội và phải chịu hình phạt hay không đòi hỏi phải đưa họ ra xét xử tại phiên tòa, trước hết là ở phiên tòa hình sự sơ thẩm. Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự năm 2013: “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật” [47, tr. 345]. Hay theo tác giả Mai Thanh Hiếu và Nguyễn Chí Công thì “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng, trong đó Tòa án cấp xét xử thứ nhất tiến hành giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật” [18, tr. 103]. Bên cạnh đó, các tác giả của cuốn “Sổ tay thẩm phán” cũng nhìn nhận xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, và trong đó bao gồm ba công đoạn chính , đó là nhận hồ sơ vụ án và thụ lý vụ án hình sự, chuẩn bị xét xử sơ thẩm, phiên tòa sơ thẩm. Mỗi công đoạn lại bao gồm những công việc và kỹ năng mà người tiến hành tố tụng cần phải thực hiện. Nhìn chung, chúng tôi đồng tình với nhìn nhận xét xử sơ thẩm vụ án hình sự dưới góc độ là một giai đoạn tố tụng hình sự và có thể nói việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được tiến hành ngay sau khi Tòa án nhận được cáo trạng, quyết định truy tố bị can và hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến. Tất cả những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập được trong giai đoạn điều tra, truy tố đều được đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa thông qua việc xét hỏi và tranh luận. Trên cơ sở những chứng cứ được kiểm tra công khai, Tòa án ra bản án xác định bị cáo có tội hay không có tội. Nếu bị cáo thực hiện hành vi phạm tội thì đó là tội gì, được quy định tại Điều 16
  21. khoản nào của Bộ luật Hình sự. Ngoài việc ra bản án, Tòa án còn có quyền ra các quyết định cần thiết khác nhằm giải quyết vụ án. Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, bản án và quyết định hình sự sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định thì có hiệu lực pháp luật nhưng nếu bị kháng cáo, kháng nghị thì phải được xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Như vậy, có thể nói xét xử sơ thẩm là xét xử ở cấp đầu tiên do Tòa án có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp xét xử sơ thẩm đều là xét xử lần đầu. Trường hợp Tòa án có thẩm quyền xem xét ra quyết định hủy bản án để điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại theo quy định tại Điều 250 BLHS 2003 “Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại”; Điều 287 BLHS 2003 “Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại” và Điều 300 BLHS 2003 “Điều tra lại hoặc xét xử lại vụ án” thì việc xét xử sơ thẩm lại không phải là xét xử lần thứ nhất. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động Nhà nước do Tòa án thực hiện nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ tài liệu của vụ án hình sự trên cơ sở đó ra bản án, quyết định xác định có hành vi phạm tội hay không, người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác trong vụ án hình sự. Theo quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự thì Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp quân khu. Các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự là những phương châm, những định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự được các văn bản pháp luật ghi nhận. Quá trình giải quyết vụ án được tiến hành thông qua các giai đoạn khác nhau, nhưng các giai đoạn đều có chung mục 17