Luận văn Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_toi_vu_khong_theo_phap_luat_hinh_su_viet_nam.pdf
Nội dung text: Luận văn Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HƯỚC TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HƯỚC TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN VĂN LUYỆN HÀ NỘI - 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Hước
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM VỀ TỘI VU KHỐNG 7 1.1. Khái niệm và ý nghĩa các dấu hiệu pháp lý của tội vu khống 7 1.2. Khái quát luật pháp hình sự Việt Nam về tội vu khống đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 12 1.3. Tìm hiểu quy định về tội vu khống theo bộ luật hình sự một số nước trên thế giới 28 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI VU KHỐNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở NƯỚC TA 37 2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về tội vu khống 37 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vu khống ở nước ta 44 2.3. Tình hình tội phạm tội vu khống và thực tiễn xét xử tội vu khống 47 Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VU KHỐNG 60 3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng áp dụng Hình sự Việt Nam 60 3.2. Các giải pháp nâng cao để hoàn thiện quy định Bộ luật hình sự Việt Nam về tội vu khống 61 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội vu khống 62 KẾT LUẬN 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Số án phải giải quyết hàng năm 48 Bảng 2.2: Phân tích số án đã giải quyết 51 Bảng 2.3: So sánh tội vu khống với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người 54 Bảng 2.4: So sánh tội vu khống với nhóm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người 56
- DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Về số vụ, số bị cáo tội vu khống trong 5 năm (2012-2016) 50 Biểu đồ 2.2: Về số vụ án tội vu khống trong năm năm (2012 - 2016) 50 Biểu đồ 2.3: Về tỷ lệ % số vụ án tội vu khống đã giải quyết trong 5 năm (2012 - 2016) 52 Biểu đồ 2.4: Về tỷ lệ % số bị can tội vu khống đã giải quyết trong 5 năm (2012-2016) 53 Biểu đồ 2.5: So sánh số vụ án tội vu khống với số vụ án các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người trong 5 năm (2012- 2016) 55 Biểu đồ 2.6: So sánh số bị cáo tội vu khống với số bị cáo các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người trong 5 năm (2012- 2016) 55 Biểu đồ 2.7: So sánh số vụ án tội vu khống với số các vụ án thuộc nhóm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người 56 Biểu đồ 2.8: So sánh số bị cáo tội vu khống với số bị cáo thuộc nhóm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người 57 Biểu đồ 2.9: Tỷ lệ % giữa tội vu khống và nhóm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người 57
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được Pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng, bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của họ vì đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”[27]. Trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con người và cho con người. Nhà nước Việt Nam không chỉ khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người nói chung, nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, mà còn làm hết sức mình để bảo đảm thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, do mặt trái của nền kinh tế thị trường nên trong thời gian qua đã nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó có nhiều vấn đề mới phát sinh có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp trên tất cả các lĩnh vực, trong đó tình hình tội vu khống, xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội, được dư luận rất quan tâm, theo dõi. Thực tiễn áp dụng 1
- những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vu khống cho thấy còn nhiều bất cập, vướng mắc, đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu giải quyết, trung bình mỗi năm xét xử 7,8 vụ với 11,6 bị cáo. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc những vấn đế lý luận về tội vu khống và thực tiễn xét xử tội phạm này không những có ý nghĩa lý luận-thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc tác giả quyết định chọn đề tài “Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội vu khống là tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức tạp, đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, tội vu khống được đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đề tài nghiên cứu như Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1997; Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm 1992, 1997); đề tài khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phục vụ xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, nghiệm thu năm 1998;v.v Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành, tội vu khống được đề cập trong công trình: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của PGS.TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001, tái bản 2003, 2007; Bình luận khoa học 2
- Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. Th.S. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, Th.S Nguyễn Sĩ Đại, Th.S Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, tập I (Bình luận chuyên sâu) của Th.S Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002. Tuy nhiên, các công trình nói trên mới chỉ dừng lại ở việc đề cập dấu hiệu cấu thành các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người nói chung, chưa có công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, độc lập và toàn diện về tội vu khống dưới góc độ luật hình sự Việt Nam, chưa có công trình nào nghiên cứu tổng thể lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm về nó từ thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, tổng kết đánh giá, thực tiễn xét xử, cũng như chỉ ra các tồn tại, vướng mắc trong thực tế để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống hoàn thiện pháp luật, áp dụng pháp luật và thực tiễn về tội vu khống theo luật hình sự Việt Nam, chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng quy định này trong thực tiễn, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng quy định pháp luật hình sự nước ta đối với tội phạm này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đặt ra cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: - Về mặt lý luận: Làm sáng tỏ những vấn đề chung về tội vu khống, lịch sử hình thành và phát triển của tội vu khống trong sự phát triển chung của pháp luật hình sự Việt Nam, ý nghĩa của việc ghi nhận tội vu khống trong luật hình sự nước ta. 3
- - Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử những quy định đối với tội vu khống, đồng thời phân tích những tồn tại, hạn chế, từ đó đề xuất hoàn thiện và đưa ra các giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả áp dụng quy định Bộ luật hình sự nước ta hiện nay về tội phạm này. 4. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của đề tài - tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu tội vu khống dưới góc độ pháp lý hình sự, trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng, chống về tội phạm nói chung, quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam, cũng như thành tựu của các ngành khoa học pháp lý như lý luận chung nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự và tội phạm học như: phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích và so sánh, phương pháp tổng hợp, thống kê đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn căn cứ vào những số liệu thống kê, tổng kết hằng năm trong các báo cáo của ngành Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân tối 4
- cao và địa phương và các tài liệu vụ án hình sự trong thực tiễn xét xử, cũng như thông tin trên mạng Internet Trong quá trình nghiên cứu các phương pháp này được vận dụng một cách linh hoạt và đan xen lẫn nhau để tạo ra kết quả nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Trong phạm vi của mình, đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội vu khống ở Việt Nam. 6.1 Ý nghĩa lý luận Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội vu khống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học. Luận văn cung cấp các luận cứ khoa học nhằm góp phần hoàn thiện quy định tại Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999 (về tội vu khống), đồng thời nó có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Từ những khó khăn, vướng mắc mà thực tiễn áp dụng pháp luật đang gặp phải, những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội vu khống nói riêng. Đồng thời cũng đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm pháp luật hình sự nước ta về tội vu khống ở khía cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng trong thực tiễn. Ngoài ra, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các lực lượng tham gia đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này ở Việt Nam. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học-luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình 5
- sự trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội ở nước ta hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về lịch sử Việt Nam về tội vu khống Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội vu khống và thực tiễn áp dụng ở nước ta Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng hình sự Việt Nam về tội vu khống 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM VỀ TỘI VU KHỐNG 1.1. Khái niệm và ý nghĩa các dấu hiệu pháp lý của tội vu khống 1.1.1. Khái niệm tội vu khống Để có thể làm rõ khái niệm tội vu khống thì cần phải làm rõ khái niệm vu khống. Theo Từ điển tiếng Việt, “Vu khống là bày điều không có để hại người” [21, tr.1419]. Như vậy, có thể hiểu vu khống là bịa đặt ra những chuyện không có thực để hãm hại người khác, làm cho danh dự của người khác bị xúc phạm, hay bị thiệt hại về tài sản, sức khoẻ Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người là vốn quý nhất, luôn được Nhà nước bảo vệ và đảm bảo bằng Hiến pháp và bằng pháp luật, điều này đã được ghi nhận tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [27]. Đối với con người quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm là một trong những quyền quan trọng nhất trong các quyền cơ bản của công dân, đặc biệt là quyền được tôn trọng về danh dự và nhân phẩm. Bởi vì nó tác động trực tiếp đến mặt tinh thần của mỗi con người. Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đưa ra khái niệm vu khống như sau: Thạc sỹ Đinh Văn Quế cho rằng, “Vu khống là hành vi bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi của người khác, hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo trước cơ quan có thẩm quyền” [24, tr.288]. Các tác giả của Bình luận khoa học, Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm) cũng cho rằng, “Vu khống là hành vi bịa đặt hoặc đưa tin một 7
- chuyện xấu xa, không có thật để làm mất danh dự, uy tín của người khác hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” [22, tr.145]. Tóm lại, dưới góc độ khoa học, theo chúng tôi khái niệm đang nghiên cứu được hiểu như sau: Vu khống là hành vi bịa đặt hoặc loan truyền những điều không có thật nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi ích hợp pháp của người khác, hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo trước cơ quan có thẩm quyền. Tiếp theo cần phải hiểu được thế nào là “danh dự” và “nhân phẩm”. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “danh dự là phạm trù đạo đức chỉ lòng tôn trọng của con người trong mọi cử chỉ, hành vi” [39, tr.647]. Người có danh dự biết tôn trọng lời mình đã hứa và có ý thức bảo vệ danh dự của mình, của dòng họ, của đoàn thể, Tổ quốc mình. Mất danh dự có nghĩa là mất sự tin yêu, mến phục của người khác và đối với người có danh dự, thì đó là tổn thất lớn nhất. Theo Đại từ điển tiếng Việt, "nhân phẩm là phẩm chất và giá trị con người" [46, tr.1762-323]. Nhân phẩm và danh dự là những giá trị nội tại, vốn có được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển và hoàn thiện của con người về mặt nhân tính. Đây là thuộc tính chung của tất cả các cá nhân trong cộng đồng nhân loại, không dựa trên bất kỳ sự phân biệt hay khác biệt nào về địa vị xã hội, kinh tế, chính trị, chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, giới tính, Nhân phẩm và danh dự của con người chính là những cái làm nên sự khác biệt và cũng là bước tiến vượt bậc của con người với phần còn lại của giới tự nhiên. Vì chúng là những giá trị chỉ thuộc tính chung của con người, do vậy, tôn trọng nhân phẩm, danh dự của mỗi cá nhân con người là sự tôn trọng đối với chính mình, đối với đồng loại. Tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con người là tôn trọng những giá trị của con người, nhờ đó con người thực hiện được sự công bằng và bình đẳng. Tiếp theo đó cần làm rõ khái niệm tội vu khống. 8
- Hiện nay vẫn chưa có nhà hình sự học nào đưa ra khái niệm về tội vu khống. Tuy vậy, tội vu khống là một trong mười tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, được quy định tại Điều 122 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Do đó, tội vu khống phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo GS.TSKH Lê Văn Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [4, tr.297]. Từ sự phân tích trên, theo chúng tôi dưới góc độ khoa học có thể đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như sau: Tội vu khống là hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam Qua nghiên cứu tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam chúng ta có thể rút ra một số ý nghĩa cơ bản của việc quy định tội vu khống trong Bộ luật hình sự như sau: Thứ nhất, biểu hiện cụ thể mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo đức và pháp luật hình sự. Đạo đức và pháp luật là những hình thái ý thức xã hội, có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi của con người. Pháp luật lấy đạo đức làm cơ sở, nhiều quy tắc, chuẩn mực đạo đức được Nhà nước thừa nhận đã trở thành quy phạm pháp luật và 9
- Nhà nước cũng sử dụng pháp luật để bảo vệ đạo đức. Bộ luật hình sự năm 1985, cũng như Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội vu khống, điều đó có nghĩa, các giá trị đạo đức như nhân phẩm, danh dự của con người được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Thông qua việc quy định hành vi bịa đặt những điều không có thực nhằm xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của con người là tội phạm và phải chịu hình phạt – biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, pháp luật hình sự đóng vai trò tác động mạnh mẽ đến sự hình thành, phát triển nền đạo đức mới, đạo đức hướng tới con người, tôn trọng con người và vì con người. Đạo đức nói chung, các giá trị đạo đức như nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, một mặt kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống, phản ánh những yêu cầu của sự phát triển kinh tế – xã hội, nhưng mặt khác, nó phải bảo đảm phù hợp với những yêu cầu của pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng, khuyến khích công dân tuân thủ pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự. Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và tội vu khống nói riêng. Cuộc đấu tranh phòng, chống tội vu khống là một bộ phận của cuộc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự của con người nói chung nhằm bảo vệ quyền cơ bản của con người ở Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân và vì dân nên mọi hoạt động của nhà nước là phải nhằm mục đích phục vụ nhân dân kể cả các quy phạm pháp luật cũng phải thể hiện được ý chí của nhân dân. Quy phạm pháp luật hình sự về tội vu khống vừa có tính chất cấm chỉ, vừa có tính chất bắt buộc. Quy phạm này, một mặt cấm người ta không được có hành vi bịa đặt hay loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền bằng sự 10
- răn đe áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, mặt khác, quy phạm pháp luật hình sự này cũng buộc các cơ quan có trách nhiệm khi phát hiện có dấu hiệu của tội vu khống, thì phải điều tra, truy tố, xét xử một cách nghiêm minh, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. Thứ ba, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với việc bảo vệ và phát triển quyền con người nói chung, nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhà nước ta khẳng định, con người là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hiện đại hóa đất nước. Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định tội vu khống, cũng như các quy định khác về quyền con người trong hệ thống pháp luật Việt Nam chứng tỏ, mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con người và cho con người. Thứ tư, bảo vệ danh dự, nhân phẩm của công dân, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định tội vu khống góp phần quan trọng trong việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người, đồng thời góp phần tích cực vào nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng đúng đắn những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm nói chung, tội vu khống nói riêng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội vu khống một cách tùy tiện, không đúng pháp luật, bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật 11
- nghiêm trọng, bởi nó không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, mà còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, việc quy định một cách chặt chẽ tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng đúng đắn nó trong thực tiễn, thể hiện sự tôn trọng quyền con người của Nhà nước ta, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội trong hoạt động điều tra truy tố, xét xử nói chung và điều tra, truy tố, xét xử về tội vu khống nói riêng. Việc quy định tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự, còn có ý nghĩa nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự cần thiết phải tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con người. Mặt khác, việc quy định cụ thể về tội vu khống trong pháp luật hình sự, còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó áp dụng đúng đắn quy phạm pháp luật hình sự này, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội vu khống, động viên quần chúng nhân dân tham gia tích vào cuộc đấu tranh này. 1.2. Khái quát luật pháp hình sự Việt Nam về tội vu khống đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 Pháp luật ra đời là để điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo những mục đích, đường lối phát triển phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị và những điều kiện khách quan của đất nước. Hay nói cách khác, pháp luật mang tính giai cấp sâu sắc. Mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau sẽ có một hệ thống pháp luật khác nhau. Do đó, nghiên cứu tội vu khống trong từng thời kỳ phát triển của đất nước thì cho ta thấy được kỹ năng lập pháp nói chung, luật hình sự nói riêng và quan điểm của nước ta về tội đó như thế nào. 12
- 1.2.1. Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt Nam đến trước Cách mạng tháng tám năm 1945 Trong thời kỳ phong kiến vấn đề xây dựng pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng đã được các triều đại quan tâm, đặc biệt thời kỳ nhà Lê Sơ và được tiến hành thành công nhất dưới thời Vua Lê Thánh Tông với sự ra đời Quốc triều hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng vào năm 1483. Theo Bộ luật Hồng Đức, tội phạm là việc xâm hại đến sự an toàn, bất khả xâm phạm của chế độ quân chủ triều Lê mà trước hết là sự an toàn của nhà vua và hoàng cung, xâm phạm đến trật tự kỷ cương, đạo đức xã hội theo quan điểm nho giáo, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, tài sản của con người. Do đó, Bộ luật Hồng Đức đã đề cập đến tội vu khống tại các Điều 501, 502, 503, 504, 505. Điều 502 quy định: Kẻ vu cáo cho người khác, thì bị xử như tội đã vu cáo nhưng giảm đi một bậc; đến như các quan giữ việc hạch tội lại vì tư tâm, tố giác không đúng sự thực, thì không được giảm tội. Nếu tố cáo người khác từ hai tội trở lên, việc nặng đúng sự thực hay là tố cáo mấy việc, chỉ một việc đúng sự thực, thì lấy việc này mà giảm tội cho việc khác là vu cáo. (Thí dụ tố giác hai việc, việc đáng phạt biếm một tư là có thật, việc đáng biếm ba tư lại là vu cáo, thì trừ cho một tư vào tội ba tư còn bị biếm hai tư. Trường hợp nặng cũng theo lệ này. Nếu như tố giác hai người lại có một người khống đúng sự thực, thì nguyên cáo vẫn bị tội vu cáo, chứ không được đem tội có sự thực ở người kia mà tính trừ để giảm tội cho. Dâng thư lên vua cáo tội người mà không có sự thực; thì cũng bị khép vào tội vu cáo; nếu việc nhẹ, thì bị khép vào tội dâng thư dối trá không thực [41, tr.138]. Như vậy, pháp luật hình sự thời kỳ nhà Lê Sơ rất nghiêm khắc và thể hiện được đặc trưng của pháp luật hình sự thời kỳ phong kiến trong việc xét xử đối với người phạm tội nói chung và đối với người có hành vi vu cáo cho người khác nói riêng. 13
- Hơn nữa, pháp luật thời kỳ nhà Lê dựa trên nguyên tắc đạo đức phong kiến nên con cháu mà vu cáo ông bà, cha mẹ không những không được giảm tội mà còn bị xử tăng thêm một bậc, như Điều 504: Con cháu tố cáo ông bà cha mẹ, nô tỳ tố cáo chủ có tội lỗi gì, đều xử tội lưu đi châu xa; vợ tố cáo tội chồng, cũng bị tội trên. Tố cáo ông bà ngoại, cha mẹ và ông bà cha mẹ về bậc tôn trưởng vào hàng cơ thân của chồng, cùng là nô tỳ tố cáo người vào bậc cơ thân của chủ, dẫu việc có thật, cũng phải tội biếm hay tội đồ; nếu là tội mưu phản, đại nghịch hay là mẹ đích, mẹ kế, mà giết cha, cha mẹ nuôi giết con đẻ, thì cho phép tố cáo. Nếu xâm phạm đến mình mà đi kiện cáo để giãi tỏ lẽ phải của mình, thì được; nếu vu cáo thì xử theo tội đã vu mà lại tăng thêm một bậc[41, tr.183] Năm 1802, sau khi đánh bại hoàn toàn lực lượng của triều đại Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu Gia Long, đặt kinh đô ở Phú Xuân (Huế ngày nay). Về mặt lập pháp nói chung, lập pháp hình sự nói riêng, sau khi lên ngôi hoàng đế, Vua Gia Long giao cho Tiền quân Bắc thành tổng trấn Nguyễn Văn Thành (1757-1817) là Tổng tài soạn thảo Bộ luật có tên Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long). Bộ luật được biên soạn trong một thời gian dài, đến năm 1811 thì hoàn tất và năm 1812 được khắc in lần đầu ở Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 1813 trên phạm vi toàn quốc. Bộ luật gồm hai phần, 22 quyển với 398 điều luật. Tương tự như pháp luật hình sự thời kỳ nhà Lê, pháp luật hình sự thời kỳ nhà Nguyễn một mặt chú trọng bảo vệ quyền thống trị của Nhà nước phong kiến tập quyền, mặt khác bảo vệ đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm của con người, trong đó có tội vu khống nhưng với chế tài hình sự nghiêm khắc hơn, tàn ác hơn. Bởi vì, nó ảnh hưởng của chính sách hình phạt nghiêm khắc của nhà Thanh nhằm đẩy mạnh việc thi hành chính sách áp bức cao độ về tư tưởng chính trị. 14
- Điều 305 quy định: Phàm vu cáo người khác bị xử tội đánh roi, thì bị xử nặng hơn tội vu cáo hai mức; bị xử tội lưu, đồ, đánh trượng (không kể là đã quyết phối hay chưa quyết phối), thì xử nặng hơn tội vu cáo ba mức. Các tội chỉ xử đến mức phạt 100 trượng, đày xa 3000 dặm (không xử nặng đến mức bị tội giảo). Nếu như người bị vu tội đồ đã phải đi hành dịch, người bị vu tội lưu đã bị phát phối, tuy đã được cải chính tha cho về, nhưng (cần phải) nghiệm xét số ngày (bị bắt, đưa đi phát phối, tha trở về) đối với tên của phạm nhân, truy thu số tiền lệ phí đã dùng, cấp trả lại (cho người bị vu cáo). Nếu như phải cấm bán ruộng đất, nhà cửa thì phải thu đủ số tiền của phạm nhân để chuộc lại. Nhân đó mà làm chết một người thân thuộc còn để tang đi theo người bị vu cáo, thì xử tội giảo giam hậu. Trừ số tiền phải bồi thường để chuộc lại tài sản ra, bắt phạm nhân phải chia một nửa gia sản cho người bị vu cáo. Nếu như vu cáo người khác bị xử tội tử hình, đã quyết án rồi (xử giảo, xử trảm theo luật), thì xử phản toạ (kẻ vu cáo) bằng mức án tử hình (tuy bị xử tử nhưng vẫn bắt bồi thường đầy đủ để chuộc lại tài sản và bắt chia một nửa số tài sản để nuôi dưỡng người thân). Trường hợp chưa quyết án, thì xử phạt 100 trượng, đày xa 3000 dặm, lại phạt thêm 3 năm tội đồ (ở ngay nơi bị phát phối) [45, tr.808]. Như vậy, pháp luật hình sự thời kỳ nhà Nguyễn quy định mức hình phạt đối với tội vu khống là rất hà khắc. Tuy nhiên, cũng chính tại Điều 305 Bộ luật gia Long cũng thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật như sau: Trường hợp phạm nhân nếu quả thực nghèo túng không đủ khả năng bồi thường tiền lệ phí và chuộc lại ruộng đất, nhà cửa cũng không có tài sản gì để chia cho, thì chỉ xử tội, không bắt bồi thường. Nếu như tố cáo từ hai việc trở lên, mà việc nặng tố cáo đúng thực, còn việc nhẹ là giả dối, hoặc là nhiều việc (mức độ khác nhau) phàm các tội phạm đều ngang hàng nhau, mà chỉ có một việc tố cáo đúng thực, thì cũng được miễn tội. (Luật danh lệ nói các tội ngang hàng nhau, thì xử theo một tội, 15
- không phải là dựa theo từng việc mà bắt tội, cho nên nếu tố cáo một việc đúng thực, thì đều được miễn tội). Nếu như tố cáo từ hai việc trở lên mà việc nhẹ tố cáo đúng thực còn việc nặng là giả dối, hoặc tố cáo một việc mà vu cáo việc nhẹ thành việc nặng (trừ số tội mà người bị vu cáo đáng phải chịu ra, số còn lại đều là thặng tội), thì đều bị phản toạ bằng thặng tội (số tội tố cáo không đúng thực). Trường hợp đã quyết án rồi (không kể là tội đánh roi, đánh trượng, đồ, lưu), thì bị xử bằng toàn bộ thặng tội. Nếu chưa quyết án, thì đối với tội đánh roi, đánh trượng (vu cáo) cho chuộc, đối với tội đồ, tội lưu thì xử tội chính phạt 100 trượng, dư tội thì cũng cho chuộc. (ý nói vu cáo từ nhẹ thành nặng đến tội đồ, tội lưu, thì mỗi mức tội đồ chiết trừ 30 trượng. Nếu như tội đồ vu cáo thành tội lưu, thì tội tạm lưu cho phép chuyển thành đồ 4 năm, đều coi 1 năm làm thặng tội, chiết trừ 40 trượng. Nếu như tội lưu gần vu cáo thành tội lưu xa, thì mỗi mức tội lưu cho phép chuyển sang số năm theo tội đồ, coi đó là thặng tội mà chiết trừ 20 trượng [45]. Pháp luật hình sự thời kỳ nhà Nguyễn mặc dù chịu ảnh hưởng của pháp luật hình sự phong kiến Trung Quốc rất nặng nề, nhưng cũng đã tiếp thu các giá trị lập pháp hình sự của thời kỳ nhà Lê và bên cạnh đó, có những sáng tạo nhất định, thể hiện kỹ thuật lập pháp hình sự ở trình độ cao so với các nước trong khu vực. Dưới thời Pháp thuộc, để bảo đảm thực hiện mục tiêu kinh tế thực dân, thu lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp thực hành chính sách chuyên chế về chính trị. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp, thẳng tay đàn áp, tuyệt đối không cho dân ta bất cứ quyền tự do, dân chủ nào. Pháp luật nói chung, pháp luật hình sự do thực dân Pháp đặt ra là để bảo vệ chế độ thực dân, phong kiến. Do đó, tội vu khống được đề cập trong pháp luật hình sự thời gian này cũng không nằm ngoài chính sách cai trị này của Thực dân Pháp. 16