Luận văn Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Ninh)

pdf 136 trang vuhoa 25/08/2022 8600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Ninh)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_toi_vi_pham_quy_dinh_ve_dieu_khien_phuong_tien_giao.pdf

Nội dung text: Luận văn Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Ninh)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ĐẮC DŨNG TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh bắc ninh) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ĐẮC DŨNG TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Ninh) Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt HÀ NỘI - 2011
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ 9 ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Sự cần thiết của việc bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công 9 cộng và quy định tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. An toàn công cộng, trật tự công cộng với tư cách là khách thể 9 được bảo vệ bằng luật hình sự Việt Nam 1.1.2. Sự cần thiết của việc quy định tội vi phạm quy định về điều 14 khiển phương tiện giao thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam 1.2. Khái niệm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện 16 giao thông đường bộ và phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác trong luật hình sự Việt Nam 1.2.1. Khái niệm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện 16 giao thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam 1.2.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện 20 giao thông đường bộ với một số tội phạm khác trong luật hình sự Việt Nam
  4. 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự 25 Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ 1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước 25 pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến 32 trước khi pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 Chương 2: TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN 35 GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH 2.1. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông 35 đường bộ theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự 35 2.1.2. Hình phạt 46 2.1.3. Nghiên cứu so sánh với Bộ luật hình sự của một số nước trên 51 thế giới 2.2. Thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển phương 56 tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 2.2.1. Khái quát chung về tình hình chính trị, an ninh - quốc phòng, 56 kinh tế - xã hội, văn hóa của địa bàn tỉnh Bắc Ninh 2.2.2. Tình hình xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển phương 58 tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 2.2.3. Một số tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn xét xử tội vi phạm 72 quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và
  5. những nguyên nhân cơ bản Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG 95 CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 3.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của 95 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ 3.1.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật 95 hình sự Việt Nam năm 1999 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ 3.1.2. Ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự 97 Việt Nam năm 1999 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ 3.2. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 98 1999 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ 3.2.1. Nhận xét chung 98 3.2.2. Nội dung kiến nghị sửa đổi, bổ sung 99 3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của 105 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ 3.3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh 105 vực giao thông đường bộ, an toàn công cộng, trật tự công cộng 3.3.2. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong lĩnh vực 106 giao thông đường bộ, an toàn công cộng, trật tự công cộng 3.3.3. Tổ chức mạng giao thông và điều khiển hoạt động giao thông 107 đường bộ, quản lý các phương tiện và người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, cấp giấy phép lái xe, đăng
  6. ký phương tiện giao thông đường bộ 3.3.4. Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch kết cấu hạ tầng giao 109 thông đường bộ 3.3.5. Tăng cường kiểm tra, tuần tra, giám sát và phát hiện, xử lý 111 kịp thời mọi vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, xét xử nghiêm minh tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông thường bộ 3.3.6. Tăng cường phương tiện, công cụ hỗ trợ cho cán bộ, chiến sĩ, 113 người thi hành công vụ làm công tác bảo đảm an ninh trật tự, an toàn giao thông đường bộ KẾT LUẬN 116 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 118
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 1.1 Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển 21 phương tiện giao thông đường bộ và tội đua xe trái phép 1.2 Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển 22 phương tiện giao thông đường bộ và tội giết người 1.3 Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển 23 phương tiện giao thông đường bộ và tội vô ý làm chết người 1.4 Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển 24 phương tiện giao thông đường bộ và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 2.1 Tổng số vụ, số bị cáo phải xét xử và tổng số vụ, số bị cáo 59 đã xử về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên tổng số vụ án, số bị cáo đưa ra xét xử thời gian từ năm 2005 - 2010 2.2 Tổng số vụ, số bị cáo bị Tòa án xét xử về tội vi phạm quy 60 định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thời gian từ năm 2005 - 2010 2.3 Tổng số vụ án, số bị cáo do Tòa án xét xử về tội vi phạm 63 quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong tương quan với các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng thời gian từ năm 2005 - 2010 2.4 Tổng số vụ án, số bị cáo do Tòa án xét xử về tội vi phạm 65 quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong tương quan với tội giết người, tội vô ý làm chết người, tội đánh bạc, tội vô ý gây thương tích trong thời
  8. gian từ năm 2005-2010 2.5 Về hình phạt và các biện pháp tha miễn trách nhiệm hình 66 sự và hình phạt áp dụng đối với bị cáo bị Tòa án xét xử về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thời gian từ năm 2005 - 2010 2.6 Phân tích đặc điểm nhân thân của các bị cáo bị Tòa án xét 67 xử về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thời gian từ năm 2005-2010 2.7 So sánh tổng số vụ, số bị cáo phải xét xử và tổng số vụ, 68 số bị cáo đã xử về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ với tổng số vụ án hình sự, số bị cáo được xét xử trong cả nước thời gian từ năm 2005-2010 2.8 So sánh mức độ gia tăng việc xét xử các vụ án vi phạm quy 69 định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của Bắc Ninh và toàn quốc trong thời gian từ năm 2005 - 2010 2.9 Loại tội và số vụ án thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 70 qua nghiên cứu ngẫu nhiên tổng số 268 bản án
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong những năm vừa qua, nền kinh tế của nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có những khởi sắc đáng mừng và đem lại nhiều sự chuyển biến trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Ở các thành phố lớn nói chung, tỉnh Bắc Ninh nói riêng, sự thay đổi khởi sắc thể hiện trên nhiều lĩnh vực đem lại đời sống vật chất và tinh thần ngày càng tốt đẹp cho nhân dân. Trong những sự chuyển biến trên thì giao thông vận tải thể hiện rõ nhất qua việc đường sá, cầu cống, xe cộ được xây dựng mới và mua sắm rất nhiều. Theo số liệu thống kê của Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bắc Ninh thì hàng tháng có hàng nghìn xe máy và ô tô đăng ký mới trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, đi đôi với sự phát triển hoạt động giao thông vận tải thì tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nói riêng và tình hình tai nạn giao thông đường bộ nói chung trong những năm gần đây tăng rất nhanh về cả số lượng vụ việc và mức độ nghiêm trọng đã gây ra những hậu quả lớn về người và tài sản, làm ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Theo thống kê của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia cho thấy những năm gần đây tình hình các vụ tai nạn giao thông xảy ra nhiều đột biến trên cả 3 tiêu chí (số vụ, số người chết và số người bị thương). Ví dụ: Trong năm 2009, cả nước đã xảy ra 12.492 vụ tai nạn giao thông, làm chết 11.516 người, bị thương 7.914 người. Trung bình mỗi ngày vẫn có 31 người chết do tai nạn giao thông. Trong 6 tháng đầu năm 2010 cả nước đã xảy ra hơn 6.500 vụ tai nạn giao thông, làm chết hơn 5.600 người và bị thương hơn 4.800 người. Điều rất đáng chú ý là ngoài những con số thống kê trên còn có hơn 1
  10. 18.000 vụ va chạm giao thông khiến 23.000 người bị thương. Ngoài những thiệt hại rất lớn về tính mạng, xã hội và mỗi gia đình còn phải gánh chịu hậu quả nặng nề do tai nạn giao thông gây ra [66]. Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu Á thì Việt Nam mất tới 885 triệu USD/năm cho chi phí tổn thất về người và vật chất do tai nạn giao thông gây ra. Đó là chưa kể đến nguồn nhân lực lớn của ngành Y tế dành cho việc cứu chữa, phục hồi chức năng cho các nạn nhân. Con số thiệt hại này còn cao hơn cả tổng giá trị tiền thuốc sử dụng cho 84 triệu dân trong năm 2009 là 817 triệu USD [64]. Còn xét riêng ở tỉnh Bắc Ninh trong năm 2009, trên địa bàn tỉnh xảy ra 125 vụ tai nạn giao thông, làm chết 135 người, bị thương 61 người, thiệt hại tài sản là rất lớn, tăng 13 vụ, 15 người chết, 34 người bị thương so năm 2008. Trong đó, tai nạn xảy ra trên các tuyến đường bộ là nhiều nhất với 118 vụ, làm 126 người chết, đường sông 1 vụ, làm 2 người chết, đường sắt 6 vụ, làm 7 người chết; v.v [63]. Tòa án các cấp của tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra xét xử 266 vụ án với 266 bị cáo đối với loại tội này trong khoảng thời gian từ năm 2005 - 2010 (xem cụ thể hơn: Bảng 2.5 Chương 2, thống kê về kết quả xét xử đối với các bị cáo phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ năm 2005-2010), còn tính trong địa bàn toàn quốc thì Tòa án các cấp đã đưa ra xét xử 30.206 vụ án với 31.579 bị cáo về tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong cùng thời gian trên [45]. Về thực trạng này, Nhà nước, xã hội và các cơ quan chức năng đã tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt và liên tục để ngăn chặn tình trạng này, tuy nhiên, một trong những nguyên nhân phát sinh là sự gia tăng tính chất và mức độ của hành vi vi phạm nói chung, tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ như: phóng nhanh, vượt ẩu, cẩu thả khi thực hiện các quy định khác về an toàn trong điều khiển phương tiện nhưng không có giấy phép hoặc không có bằng lái theo quy định, trong khi say rượu hoặc say do dùng chất kích thích mạnh khác hay gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn, không 2
  11. chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông gây ra hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản cho người khác. Vì vậy, để làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay và thực tiễn xét xử loại tội phạm này ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian vừa qua (2005 - 2010) để trên cơ sở đó, tìm giải pháp hoàn thiện trên phương diện lập pháp hình sự và giải pháp về mặt thực tiễn nhằm góp phần phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, góp phần phục vụ thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có ý nghĩa chính trị - xã hội và lý luận - thực tiễn quan trọng. Hơn nữa, là thẩm phán có trực tiếp tham gia xét xử một số vụ án liên quan đến tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nên tác giả muốn có nghiên cứu tổng quan để phục vụ công tác của mình. Đây cũng là lý do để tác giả quyết định lựa chọn đề tài: "Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Ninh)" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, luật gia hình sự và cán bộ thực tiễn. Đến nay, ở các mức độ khác nhau, trực tiếp và gián tiếp đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố, đồng thời thể hiện trên ba bình diện - ở một số luận văn, luận án, sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận, cũng như giáo trình dành cho hệ đại học và một số bài viết bình luận án như: 3
  12. * Nhóm thứ nhất (các luận văn, luận án tiến sĩ luật học) bao gồm: 1) Ngô Huy Ngọc, Những biện pháp phòng ngừa tội phạm xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ tại thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, 1996; 2) Phan Huy Thái, Điều tra các vụ án vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải đường bộ trên địa bàn thành phố Hà Nội - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, 1998; 3) Bùi Kiến Quốc, Các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ở Thủ đô Hà Nội, Luận văn tiến sĩ luật học, 2001. * Nhóm thứ hai (các sách chuyên khảo, tham khảo) bao gồm: 1) TS. Trần Minh Hưởng (chủ biên), TS. Đỗ Đức Hồng Hà, TS. Trịnh Tiến Việt và tập thể tác giả, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Lao động, Hà Nội, 2010; 2) TS. Trần Minh Hưởng, Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002; 3) TS. Nguyễn Đức Mai, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 4) ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm, Tập VI - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2005; 5) ThS. Hoàng Đình Ban, Hoạt động phòng ngừa tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2008. * Nhóm thứ ba (sách giáo trình, bài viết) bao gồm: 1) GS.TS. Đỗ Ngọc Quang, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 (tái bản năm 2003 và 2007); 2) GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chương X - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình Luật 4
  13. hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 3) GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chương XXV - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Tập II) do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; 4) TS. Phạm Văn Beo, Bài 10 - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 - Phần các tội phạm), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Ngoài ra, đó là một số bài viết đi sâu vào tranh luận tội danh cụ thể, xác định lỗi của tội phạm này như: 1) Lê Văn Luật, Xác định lỗi trong các vụ án tai nạn giao thông, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2005; 2) Huỳnh Quốc Hùng, Một số vấn đề về định tội và định khung tăng nặng trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2007; v.v Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy: một số công trình có phạm vi nghiên cứu rộng, trong đó vấn đề về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các tác giả nên chưa được phân tích sâu về mặt lý luận và thực tiễn; có công trình chỉ xem xét tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ với ý nghĩa là một tội phạm để bình luận các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt hoặc chỉ xem xét dưới góc độ tội phạm học - phòng ngừa cả nhóm tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999; có công trình nghiên cứu về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nhưng đã được tiến hành cách đây khá lâu (2001), do vậy giá trị về lý luận và thực tiễn không cao, lại đi sâu về vấn đề tội phạm học, phòng ngừa tội phạm này trên một địa bàn cụ thể là thủ đô Hà Nội khi chưa mở rộng địa bàn thủ đô, do đó, cho đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống và ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học dưới góc độ pháp lý 5
  14. hình sự về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và gắn với một địa bàn cụ thể là tỉnh Bắc Ninh. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội phạm này vẫn còn có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là phục vụ trực tiếp cho địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 3. Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ với một số tội phạm khác trong Bộ luật hình sự, đồng thời đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ từ năm 2005 - 2010 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, có so sánh, đối chiếu với số liệu xét xử trong toàn quốc. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn xét xử để đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về loại tội phạm này. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Ninh). 4. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phương pháp luận 6
  15. Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu, quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu, điều tra án điển hình để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học - thực tiễn cần nghiên cứu trong luận văn này. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 5.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Cụ thể, đã làm rõ các vấn đề chung về tội này trong luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự nước ta về tội phạm này từ năm 1945 đến nay, phân biệt với một số tội khác hay có sự nhầm lẫn trong thực tiễn; làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ; phân tích thông qua nghiên cứu thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2005 - 2010 và trên toàn quốc để so sánh, qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn, đặc biệt một số giải pháp gắn liền với việc phòng, chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 7
  16. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn Bên cạnh đó, luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội này hiện nay và sắp tới ở địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và cả nước nói chung. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. 8
  17. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC BẢO VỆ AN TOÀN CÔNG CỘNG, TRẬT TỰ CÔNG CỘNG VÀ QUY ĐỊNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. An toàn công cộng, trật tự công cộng với tƣ cách là khách thể đƣợc bảo vệ bằng luật hình sự Việt Nam Đấu tranh phòng, chống tội phạm và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, an toàn công cộng, trật tự công cộng được ổn định, giữ vững lại có ý nghĩa củng cố, tăng cường cho sự vững mạnh và tồn tại của chính quyền nhân dân, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ và tích cực hơn nữa trong công tác đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị, trách nhiệm của các Bộ, ngành, các cấp trong phòng, chống tội phạm có hiệu quả cao, qua đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện tốt nhiệm vụ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, yêu cầu này càng được đề cao trong thời kỳ Đảng và Nhà nước ta tiến hành đổi mới toàn diện theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra. Theo đó, vấn đề bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó gắn liền với sự nghiệp đổi mới toàn bộ nền kinh tế - xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngay từ khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đúng mức đến vấn đề bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng bằng việc ra một số văn bản như: Điều lệ tạm thời số 9
  18. 329-CP ngày 17/9/1954 của Thủ tướng chính phủ về việc quản lý các loại vũ khí; Nghị định số 23-CP ngày 24/02/1973 của Hội đồng Chính phủ về việc tàng trữ và sử dụng vật liệu nổ góp phần tạo ra môi trường xã hội lành mạnh, ổn định, đảm bảo nền tảng vững chắc để phát triển kinh tế xã hội. Để bảo đảm tốt công tác giữ gìn an toàn công cộng, trật tự công cộng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng đầu tư cơ sở, vật chất kỹ thuật, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ cao, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Quá trình giữ gìn bảo đảm an toàn công cộng, trật tự công cộng cũng chính là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản và nhiều quyền, lợi ích khác của công dân. Mặt khác, an toàn công cộng, trật tự công cộng còn là thước đo, tiêu chí để đánh giá sự ổn định, bình yên của xã hội, khả năng quản lý, điều hành, giám sát của các cơ quan, tổ chức, cũng như phản ánh ý thức pháp luật cao hay thấp của công dân trong xã hội. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng đều bị xử lý hình sự, việc xử lý phải trên cơ sở giáo dục, thuyết phục mọi công dân có ý thức chấp hành, nhắc nhở, cảnh cáo, xử lý hành chính, chúng ta chỉ xử lý hình sự đối với những trường hợp hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể hay gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Vì vậy, ranh giới xác định trách nhiệm hình sự với các trách nhiệm pháp lý khác (dân sự, hành chính ) được phân định rõ ràng trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, hậu quả tác hại mối quan hệ xã hội bị xâm hại, cũng như thái độ của người thực hiện hành vi Thực tế cho thấy các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng đã gây ra những thiệt hại không nhỏ về tài sản và tính mạng, sức khỏe của công dân, ảnh hưởng đến trật tự ở những nơi công cộng, đến hoạt động chung của xã hội. Do đó, khẳng định tầm quan trọng của việc bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng, Điều 78 Hiến pháp năm 1992 đã quy định: "Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng". Ngoài ra, Điều 79 Hiến pháp cũng quy định: "Công dân có nghĩa vụ tuân theo 10
  19. Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội chấp hành tốt những quy tắc sinh hoạt công cộng"; v.v Xuất phát từ tầm quan trọng của việc giữ gìn an toàn, trật tự công cộng trong đời sống xã hội, trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Bộ luật hình sự đã quy định Chương "Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng" để bảo vệ các lợi ích trên, qua đó bảo đảm mọi sinh hoạt, vui chơi, giải trí, hoạt động công cộng được an toàn, ổn định và tuân thủ các quy tắc xã hội và quy tắc của pháp luật. Vì vậy, tôn trọng và bảo vệ "an toàn công cộng, trật tự công cộng là một trong những thước đo, tiêu chí để đánh giá sự ổn định của xã hội, đánh giá sức mạnh của các cơ quan bảo vệ pháp luật, khả năng quản lý của các cơ quan, tổ chức, đồng thời nó cũng đánh giá được ý thức pháp luật, văn minh pháp lý của công dân" [13, tr. 439]. Với những hành vi vi phạm pháp luật ở mức độ cao, cần thiết phải ngăn chặn và xử lý bằng pháp luật hình sự, Bộ luật hình sự đã quy định các tội phạm thành một chương để xử lý một nhóm hành vi xâm phạm đến một nhóm quan hệ xã hội được luật hình sự Việt Nam bảo vệ, đó là - an toàn công cộng, trật tự công cộng. Tuy nhiên, trong phạm vi nội dung nghiên cứu của mục này, chúng tôi chỉ nêu khái niệm và những dấu hiệu pháp lý chung của nhóm tội để chứng minh rằng, cùng với các khách thể khác, an toàn công cộng, trật tự công cộng cũng là một trong những khách thể quan trọng được luật hình sự Việt Nam bảo vệ, tôn trọng và bất kỳ hành vi nào xâm phạm đến nhóm khách thể này được bị xử lý theo các quy định tương ứng của Bộ luật hình sự. Chính vì vậy, từ các quy định của Hiến pháp, Bộ luật hình sự, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng có thể định nghĩa như sau: Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm vào các quy định của Nhà nước về 11
  20. an toàn công cộng, trật tự công cộng, gây ra những thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, đồng thời còn xâm phạm đến hoạt động bình thường, ổn định xã hội ở những nơi công cộng. Từ khái niệm này, có thể chỉ ra các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng như sau: * Khách thể của tội phạm. Cùng với việc xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về an toàn, trật tự công cộng, các tội phạm ở chương này còn xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân. Song đây không phải là khách thể trực tiếp của loại tội này. Tùy theo từng tội mà khách thể trực tiếp của tội phạm là xâm phạm đến an toàn công cộng hay trật tự công cộng. Căn cứ vào khách thể bị xâm hại và đặc điểm pháp lý của các tội quy định trong Chương XIX Bộ luật hình sự, chúng ta có thể chia ra thành hai nhóm sau: - Nhóm 1: Các tội xâm phạm an toàn công cộng - Nhóm 2: Các tội xâm phạm trật tự công cộng Những quy định về an toàn công cộng rất đa dạng, phong phú trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội bao gồm những quy định, điều lệ, nội quy (những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa) ở những nơi công cộng trên các lĩnh vực giao thông vận tải (đường sắt, đường bộ, đường thủy, đường không), trong lao động sản xuất, trong quản lý vũ khí, chất cháy, chất nổ, chất độc những quy định này nhằm bảo đảm an toàn tài sản của Nhà nước, của tổ chức, an toàn về tính mạng, sức khỏe của công dân. Những quy định về trật tự công cộng được hiểu là những quy định (thành văn hoặc không thành văn) ở những nơi công cộng như nhà ga, bến tầu, đường phố đông người, công viên, quảng trường những nơi tập trung 12