Luận văn Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 86 trang vuhoa 24/08/2022 7801
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_toi_vi_pham_quy_dinh_ve_an_toan_thuc_pham_tu_thuc_t.pdf

Nội dung text: Luận văn Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI   ĐỖ THỊ THU THẢO TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI   ĐỖ THỊ THU THẢO TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THỊ THANH THÙY Hà Nội, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình. Tác giả Đỗ Thị Thu Thảo
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM 10 1.1. Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm 10 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm 17 1.3. Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm trong luật hình sự một số nước trên thế giới 30 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TẠI ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 36 2.1. Đặc điểm địa bàn và tình hình tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 36 2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 42 2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 49 2.4. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 54 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM 58 3.1. Yêu cầu áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm 58 3.2. Giải pháp áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm qui định về an toàn thực phẩm 60 KẾT LUẬN 76 TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
  5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ATTP An toàn thực phẩm BLHS Bộ luật hình sự DN Doanh nghiệp Nxb Nhà xuất bản TAND Tòa án nhân dân TNHS Trách nhiệm hình sự TpHCM Thành phố Hồ Chí Minh UBND Ủy ban nhân dân VSTP Vệ sinh thực phẩm VSATTP Vệ sinh an toàn thực phẩm
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1: Phân biệt tội vi phạm quy định về ATTP với tội giết người và tội vô ý làm chết người theo quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 14 Bảng 2.1: Thống kê tình hình ngộ độ thực phẩm trên địa bàn TpHCM 38 Bảng 2.2: Tổng hợp tình hình vi phạm ATTP trên địa bàn TpHCM các năm 2018-2020 40 Bảng 2.3: Tổng hợp tình hình vi phạm ATTP trên địa bàn TpHCM các năm 2018-2020 41 Bảng 2.4: Tổng số vụ án, bị cáo tòa án nhân dân thành phố xét xử các năm 2018-2020 42
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài An toàn thực phẩm (ATTP) là vấn đề ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến sức khỏe con người, được xã hội rất quan tâm. Trong thời gian qua, các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong quản lý, bảo đảm ATTP. Tuy nhiên tình trạng vi phạm về ATTP diễn biến ngày càng phức tạp. Theo thống kê của Cục ATTP – Bộ Y tế, trên toàn quốc có gần 90.000 cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, dịch vụ ăn uống. Từ năm 2015 đến tháng 3/2020, cơ quan chức năng đã thanh tra, kiểm tra và phát hiện 94.768/224.791 lượt cơ sở (chiếm 42,1%) không đạt tiêu chuẩn ATTP; kết quả xét nghiệm mẫu thực phẩm có 2.109/12.785 mẫu (chiếm 16,4%) không đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Trong giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 3/2020 trên địa bàn toàn quốc đã xảy ra 2.213 vụ ngộ độc thực phẩm tại bếp ăn tập thể với 7.653 nạn nhân; 297 vụ ngộ độc thực phẩm tại các khu công nghiệp, khu chế xuất với 4.498 nạn nhân; 118 vụ ngộ độc thực phẩm trong các trường học với 1.090 học sinh; 238 vụ ngộ độc thực phẩm do thức ăn đường phố với 4.980 nạn nhân. Qua kiểm tra, cơ quan chức năng đã xử lý 9.768 vụ vi phạm về an toàn thực phẩm; tiêu hủy trên 180 tấn thực phẩm không đảm bảo an toàn thực phẩm [2]. Tình trạng ngộ độc thực phẩm có xu hướng gia tăng và ảnh hưởng không nhỏ tới sức khoẻ cộng đồng. Để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con người, Nhà nước luôn chú trọng tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về ATTP, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm kịp thời điều chỉnh vấn đề ATTP; ban hành các quy chuẩn về kỹ thuật, chất lượng và các quy chuẩn cần thiết cho công việc sản xuất thực phẩm an toàn, quy định các hình thức kỷ luật, xử phạt, khen thưởng hợp lý làm cơ sở cho người dân thực hiện, cho nhà sản xuất làm theo, đồng thời tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc cho công tác quản lý. Nhằm răn đe và xử lý cũng như đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về ATTP ở nước ta. Pháp luật hình sự đã sớm quy định và nhiều lần điều chỉnh: Bộ luật Hình sự năm 1985 lần đầu tiên pháp điển hóa hành vi vi phạm quy định về vệ sinh thực phẩm gây hậu quả nghiêm trọng tại Điều 197. Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định trực tiếp về tội vi phạm quy 1
  8. định về vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) tại Điều 244. Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung Điều 244 trong Bộ luật Hình sự năm 1999 bằng Điều 317 – Tội vi phạm quy định về VSATTP. Mới đây, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định một số điểm mới, tiến bộ, khả thi, phù hợp với tình hình mới của xã hội. Các quy định pháp luật hình sự trên là cơ sở cho việc xét xử và quyết định các biện pháp xử lý hình sự đối với tội vi phạm quy định về ATTP. Tuy nhiên, trong thực tiễn, các quy định pháp luật hình sự về ATTP còn những điểm bất cập: một số quy định của Bộ luật Hình sự về tội vi phạm quy định về ATTP còn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn xã hội; việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về ATTP còn chậm, chưa được hệ thống hóa gây ảnh hưởng tới việc thực thi Luật Thành phố Hồ Chí Minh (TpHCM) là thành phố lớn, đông dân nhất cả nước. Các năm 2018-2020, tình hình ngộ độc và tình hình mất ATTP diễn biến nghiêm trọng và phức tạp. Các đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành phát hiện các vi phạm về điều kiện vệ sinh cơ sở, về trang thiết bị, dụng cụ, về việc ghi nhãn, quảng cáo thực phẩm, kinh doanh thực phẩm nhập lậu, thực phẩm giả, không đảm bảo chất lượng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ, quá hạn sử dụng, sử dụng hóa chất, phụ gia bị cấm trong sản xuất, chế biến Tòa án nhân dân (TAND) TpHCM đã tiến hành xét xử hình sự các vụ án vi phạm quy định về ATTP. Tuy nhiên, việc thực hiện áp dụng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về ATTP trên địa bàn TpHCM các năm 2018-2020 có điểm hạn chế: số vụ án xét xử hình sự về tội vi phạm quy định về ATTP còn rất ít; năng lực về áp dụng pháp luật đối với người phạm tội vi phạm quy định về ATTP chưa cao Vì vậy, việc nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm này trên địa bàn TpHCM là rất cần thiết nhằm tìm ra cơ sở lý luận và thực tiễn, những hạn chế, yếu kém trong quá trình thực hiện để đề xuất các giải pháp khắc phục. Xuất phát từ các lý do trên, tác giả chọn đề tài “Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. 2
  9. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tìm hiểu tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài “Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” cho thấy đây là một vấn đề khá mới mẻ nên chưa có ai quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện và chi tiết. Một số tác giả nghiên cứu, tiếp cận các vấn đề liên quan đến ATTP dưới góc độ chủ yếu là các quy định của pháp luật về ATTP hoặc một số vướng mắc trong xử lý các vi phạm về ATTP như: - Hoàng Trí Ngọc (2009), Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm trong luật hình sự Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả đã đưa ra khái niệm tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm; nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, qua đó làm nổi bật các đặc điểm có tính đặc thù của loại tội phạm này; phân tích thực trạng vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, thực tiễn xử lý dưới góc độ pháp luật phi hình sự và pháp luật hình sự, qua đó, nghiên cứu những vấn đề còn đang bất cập, tồn tại đối với quy định về loại tội này, cũng như làm sáng tỏ sự cần thiết phải hoàn thiện tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm trong pháp luật hình sự Việt Nam và đưa ra các phương hướng nhằm hoàn thiện quy định về tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm tại Bộ Luật hình sự năm 1999. [17] - Nguyễn Ngân Giang (2012), Trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc Gia Hà Nội. Tài liệu tổng thuật một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn pháp lý về an toàn thực phẩm. Rà soát các hành vi vi phạm về điều kiện an toàn thực phẩm. Đánh giá hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến an toàn thực phẩm. Xác định rõ trách nhiệm pháp lý của các đối tượng trong xã hội đối với các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm. Nâng cao kiến thức về quản lý an toàn thực phẩm. [12] 3
  10. - Nguyễn Văn Nhật (2013), “Bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm: khi người dân mất cảnh giác”, Tạp chí Nông thôn mới, số 354, tr.26-28. Tác giả trình bày thực trạng, tình hình vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm trên toàn quốc và địa bàn tỉnh Quảng Bình vẫn là vấn đề khá phổ biến, việc bảo đảm cho người dân có nguồn thực phẩm sạch còn gặp nhiều khó khăn. Trong khi người dân mất cảnh giác trong việc sử dụng thực phẩm không an toàn, đảm bảo cho sức khỏe, đã có nhiều kha bị ngộ độc do ăn những loại thực phẩm mất vệ sinh này. Phân tích những khó khăn, chồng lên khó khăn trong việc quản lý ở lĩnh vực này. [18] - Nguyễn Thùy Dương, Trần Ngọc Tụ, Hoàng Đức Hạnh (2015), “Tình hình ngộ độc thực phẩm tại Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2014”, Tạp chí Y tế công cộng, số 37, tr.33-38. Bài viết hồi cứu số liệu chi tiết toàn bộ các vụ ngộ độc thực phẩm đã xảy ra trên địa bàn thành phố Hà Nội trong 5 năm liên tục từ tháng 01/2010 đến tháng 12/2014 được ghi nhận trong báo cáo lưu tại Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm Hà Nội. Từ đó, bài viết khuyến nghị: tăng cường truyền thông phòng chống ngộ độc thực phẩm đến từng gia đình, thôn, xóm; tăng cường kiểm tra giám sát, thanh tra các cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm; kiểm soát, tuyên truyền thực hiện kiểm thực 3 bước và lưu mẫu phẩm. [10] - Lê Thị Hồng Ánh (2017), Giáo trình vệ sinh an toàn thực phẩm, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. Tài liệu trình bày về tầm quan trọng của vệ sinh an toàn thực phẩm; những mối nguy hiểm trong sản xuất thực phẩm; điều kiện và biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; công tác quản lý và một số văn bản pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm ở Việt Nam. [1] - Nguyễn Hữu Đại (2018), Những quy định pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm và công tác kiểm tra, giám sát, cấp giấy chứng nhận đối với cơ sở kinh doanh thực phẩm, Nxb. Lao động, Hà Nội. Tài liệu trình bày toàn văn luật an toàn thực phẩm và các quy định chi tiết thi hành; đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật và tăng cường quản lý của Nhà nước về an toàn thực phẩm; các quy trình thanh tra, kiểm tra, giám sát chất lượng an toàn thực phẩm; quy định điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh [11] 4
  11. - Đinh Thị Quế (2018), Pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Huế. Tài liệu hệ thống hóa những vấn đề lý luận về pháp luật xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm; phân tích thực trạng hệ thống pháp luật về an toàn thực phẩm và tình hình xử lý vi phạm về an toàn thực phẩm; đề xuất 8 giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm: hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm; xây dựng và nâng cao trình độ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công chức trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm; tuyên truyền, phổ biến pháp luật về an toàn thực phẩm; yêu cầu cam kết an toàn thực phẩm; tăng cường kiểm tra, xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm; nân cao vai trò của Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng; đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ trong thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm và xử lý nghiêm minh, kịp thời các vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. [19] - Nguyễn Văn Song, Lê Như Trang, Nguyễn Công Tiệp (2018), “Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Đông Anh, Hà Nội”, Tạp chí Tài nguyên và môi trường, số tháng 9, tr. 29-32. Bài viết là kết quả nghiên cứu thực trạng công tác quản lý nhà nước về VSATTP. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về VSATTP trên địa bàn huyện Đông Anh, bài viết đề xuất các giải pháp: 1) tăng cường sự lãnh đạo của các cấp chính quyền và các bộ phận liên quan đối với công tác bảo đảm ATTP; 2) nâng cao năng lực và chất lượng quản lý nhà nước về ATTP; 3) đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến thực sự về hành vi ATTP, đẩy mạnh xã hội hóa công tác ATTP; 4) tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật về ATTP trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm; và 5) nâng cấp cơ sở vật chất, nguồn vốn phục vụ quản lý nhà nước về VSATTP. [26] - Nguyễn Hoài Nam (2019), Thực thi pháp luật về an toàn thực phẩm trong kinh doanh thực phẩm tươi sống qua thực tiễn tỉnh Quảng Trị, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Huế. Tài liệu nghiên cứu và trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về vệ sinh an toàn thực phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm tươi sống trên địa 5
  12. bàn tỉnh Quảng Trị. Tài liệu đưa ra 2 nhóm giải pháp: hoàn thiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm và tổ chức thực hiện an toàn vệ sinh thực phẩm trong kinh doanh thực phẩm tươi sống. [16] - Nguyễn Thị Phi Yến (2020), “Xử lý vi phạm về an toàn thực phẩm tại thành phố Huế: thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả”, Tạp chí Công thương, số 4, tr. 18-24. Bài viết làm rõ 6 hạn chế, vướng mắc trong công tác xử lý vi phạm ATTP tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế: tỷ lệ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP còn thấp; công tác kiểm tra, xử phạt vi phạm về ATTP ở cấp cơ sở còn nhiều hạn chế; việc áp dụng chế tài hành chính trong xử phạt chưa thực sự hợp lý; việc xử lý vi phạm về ATTP vẫn còn chồng chéo về thẩm quyền; quá trình triển khai xử phạt còn chậm; tỷ lệ kiểm tra, thanh tra trên tổng số đối tượn cần kiểm tra còn thấp. Từ đó, bài viết đề xuất cần phải hoàn thiện một số quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm về ATTP; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về VSATTP; đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát; quyết liệt áp dụng chế tài xử phạt bằng tiền và kịp thời hơn đối với các vi phạm về ATTP; kiện toàn Ban Chỉ đạo về ATTP, phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo từ tỉnh đến xã, phường, thị trấn; đầu tư các nguồn lực cho hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực VSATTP. [43] Có thể thấy, không có nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội vi phạm quy định về ATTP, tuy nhiên cũng đã góp phần làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn có liên quan đến ATTP. Về lý luận, các công trình đưa ra khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, đặc điểm, đặc thù, quy định pháp luật về ATTP Về thực tiễn, các công trình phân tích thực trạng hệ thống pháp luật về ATTP; qui định về ATTP; vi phạm qui định về ATTP dưới góc độ pháp luật phi hình sự và pháp luật hình sự; tình hình xử lý vi phạm về ATTP Các công trình đưa ra nhiều giải pháp khác nhau dựa trên tình hình thực tiễn cụ thể, tuy nhiên, các công trình đều thống nhất 2 nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật về ATTP và tổ chức thực hiện ATTP. Mặc dù vậy đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề ATTP trên 6
  13. địa bàn TpHCM. Các công trình khoa học trên là nguồn tài liệu có giá trị cho hướng nghiên cứu của đề tài, là cơ sở để tác giả kế thừa phục vụ nghiên cứu đề tài. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Luận văn hệ thống những vấn đề lý luận pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP; làm rõ khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội; phân biệt tội vi phạm quy định về ATTP với một số tội khác; hệ thống quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP; phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP tại TpHCM. Từ đó, luận văn đề xuất các giải pháp áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP trên địa bàn TpHCM trong thời gian tới. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn làm rõ các nội dung: + Hệ thống những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về ATTP; Nghiên cứu, làm rõ quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP. + Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP trên địa bàn TpHCM giai đoạn 2018-2020. + Đề xuất một số giải pháp áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP trên địa bàn TpHCM. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Tội vi phạm quy định về ATTP theo Điều 317 của BLHS năm 2015 và các văn bản pháp luật khác dưới góc độ pháp luật hình sự. - Phạm vi nghiên cứu: + Về không gian: nghiên cứu trên địa bàn TpHCM. + Về thời gian: Luận văn nghiên cứu trong thời gian từ năm 2018 đến năm 2020 và đề xuất các giải pháp cho giai đoạn tới năm 2025. + Về chủ thể: Tòa án nhân dân TpHCM. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: 7
  14. Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, các học thuyết, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Luận văn đồng thời sử dụng lý thuyết về luật hình sự và tố tụng hình sự, các lý thuyết về khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về ATTP theo quy định của BLHS năm 2015. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thống kê: sử dụng phương pháp thống kê nhằm làm rõ tình hình vi phạm ATTP xảy ra trên địa bàn TpHCM cũng như số vụ, số bị cáo đã bị xét xử về tội phạm này. - Phương pháp phân tích và tổng hợp: Dựa trên những dữ liệu thống kê, tác giả tiến hành tổng hợp và phân tích cụ thể để chứng minh cho các luận điểm nêu ra trong luận văn. - Phương pháp so sánh: Cùng với phương pháp phân tích và tổng hợp, luận văn sử dụng phương pháp so sánh để phân tích các thông số, số liệu về tình hình tội vi phạm quy định về ATTP trên địa bàn TpHCM từ năm 2018 đến 2020. - Phương pháp nghiên cứu điển hình: tác giả đưa ra một số vụ án về vi phạm quy định về ATTP được TAND TpHCM xét xử để làm rõ các nhận định, đánh giá của mình. - Phương pháp chuyên gia: được sử dụng trong quá trình điều tra xã hội học nhằm thu thập số liệu thực tiễn từ các cơ quan chức năng tại thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Ý nghĩa lý luận: Luận văn nghiên cứu, hệ thống hóa, làm rõ các nội dung liên quan đến tội vi phạm quy định về ATTP. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn cung cấp hệ thống các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP và phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP trên địa bàn TpHCM trong thời gian 3 năm, từ năm 2018 đến năm 2020, đề xuất được một số giải pháp góp phần quan trọng. Kết quả nghiên cứu của luận văn đồng thời là tài liệu tham 8
  15. khảo có giá trị về tội vi phạm quy định về ATTP có thể được sử dụng trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương. Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Các giải pháp áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm 9
  16. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM 1.1. Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm 1.1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm 1.1.1.1. Khái niệm Theo Pháp lệnh VSATTP năm 2003: “Vệ sinh an toàn thực phẩm là các điều kiện và biện pháp cần thiết để bảo đảm thực phẩm không gây hại cho sức khỏe, tính mạng của con người.” [41, tr.1] Theo Luật ATTP năm 2010: “An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người.” [20, tr.1] Theo BLHS năm 2015: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” [23] Điều 317, BLHS năm 2015 quy định các hành vi sau đây là vi phạm các quy định về ATTP: [23] - Sử dụng chất cấm trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm hoặc bán, cung cấp thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm có sử dụng chất cấm. - Sử dụng hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, sơ chế, chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản và muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép trong sản phẩm. 10
  17. - Sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, chất xử lý cải tạo môi trường ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ hoặc không đúng quy định trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép trong sản phẩm. - Chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an toàn thực phẩm; sử dụng hóa chất, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm. Căn cứ vào các khái niệm ATTP, VSATTP, tội phạm và các hành vi vi phạm quy định về ATTP như trên, có thể đưa ra khái niệm tội vi phạm quy định về ATTP như sau: Tội vi phạm quy định về ATTP là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định tại Điều 317 BLHS năm 2015, sửa đổ bổ sung năm 2017, do người có năng lực trách nhiệm hình sự, cố ý hoặc vô ý sử dụng các chất cấm, hóa chất, kháng sinh, thuốc trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản, bán, cung cấp thực phẩm; vi phạm các quy định về ATTP gây tổn hại cho sức khỏe hoặc tính mạng của người tiêu dùng. Tội vi phạm quy định về ATTP hiện nay được quy định và phải bị xử lý hình sự theo BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. 1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý Từ khái niệm tội vi phạm quy định về ATTP, dựa vào quy định của Điều 317 BLHS, tội vi phạm quy định về ATTP được thể hiện qua các dấu hiệu pháp lý như sau: *Các dấu hiệu thuộc về khách thể Tội phạm xâm phạm đến những qui định, chế độ quản lý của Nhà nước về ATTP, đồng thời xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác (người tiêu dùng). Nhà nước ban hành các quy định về ATTP nhằm bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân vì thực phẩm là nhu cầu thiết yếu của người dân, liên quan trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng, tính mạng, sức khỏe của người tiêu dùng. *Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan 11
  18. Tội vi phạm quy định về ATTP được biểu hiện ở hành vi vi phạm một trong các quy định về ATTP trong hoạt động sản xuất, bảo quản, sơ chế, chế biến, cung cấp thực phẩm, cụ thể như sau: Một là, sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết là cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng trong sản xuất thực phẩm. Hai là, sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy theo quy định của pháp luật để chế biến thực phẩm hoặc cung cấp, bán thực phẩm mà biết là có nguồn gốc từ động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy. Hai hành vi trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong hai trường hợp: thứ nhất, thực phẩm được làm ra có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên; thứ hai, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều 317 BLHS hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Ba là, sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết là chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trong sản xuất thực phẩm. Hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc vào một trong hai trường hợp: thứ nhất là thực phẩm làm ra có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên; thứ hai là thực phẩm làm ra có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều 317 BLHS hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Bốn là, nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết là có sử dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng. Hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong các trường hợp: thứ nhất là thực phẩm có trị giá từ 100 triệu đồng trở lên; thứ hai là thu lợi bất chính từ 5 triệu đồng trở lên; thứ ba là đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều 317 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. 12
  19. Năm là, nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết là có sử dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được sử dụng hoặc chưa được lưu hành tại Việt Nam. Hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong các trường hợp: thứ nhất là thực phẩm có trị giá từ 100 triệu đồng trở lên; thứ hai là thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng trở lên; thứ ba là thực phẩm trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng hoặc thu lợi bất chính từ 20 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều 317 BLHS hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Sáu là, thực hiện một trong các hành vi nêu trên hoặc chế biến, cung cấp, bán thực phẩm mà biết là thực phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về ATTP gây ngộ độc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con người. Hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong các trường hợp: thứ nhất là gây ngộ độc từ 05 người trở lên; thứ hai là gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 30% trở lên. *Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý, người phạm tội nhận thức được thực phẩm không đảm bảo an toàn nhưng do cẩu thả hoặc tin rằng hậu quả tác hại không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vấn đề chế biến cung cấp cho người tiêu dùng, gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của người khác. *Các dấu hiệu thuộc về chủ thể Tội phạm được thực hiện bởi những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định và hoạt động trong lĩnh vực chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm. Chủ thể của tội phạm là bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt 16 tuổi trở lên và được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý. 13
  20. 1.1.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm với một số tội khác Bảng 1.1: Phân biệt tội vi phạm quy định về ATTP với tội giết người và tội vô ý làm chết người theo quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Tiêu chí Tội giết người Tội vi phạm quy định về ATTP Tội vô ý làm chết người so sánh Điều 123 Điều 317 Điều 128 Chủ thể Theo quy định tại Điều 12 của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì người từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Từ 16 tuổi trở lên chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Mặt Người phạm tội giết người nhận Người phạm tội vi phạm quy định về Người phạm tội vô ý làm chết người khách thức rõ hành vi của mình là nguy ATTP biểu hiện ở hành vi vi phạm tuy thấy chính hành vi của mình có thể quan hiểm cho xã hội, thấy trước hậu một trong các quy định về ATTP gây ra hậu quả chết người nhưng cho quả chết người có thể xảy ra và trong sản xuất, bảo quản, sơ chế, chế rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra còn mong muốn hậu quả đó xảy ra biến, cung cấp thực phẩm. có thể ngăn ngừa được hoặc người hoặc để mặc hậu quả chết người phạm tội không thấy hành vi của mình xảy ra. có thể gây ra hậu quả chết người mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Khách Hành vi của người phạm tội đã Hành vi của người phạm tội đã xâm Tội vô ý làm chết người là quan hệ thể xâm phạm đến tính mạng, sức phạm vào những quy định của Nhà nhân thân mà nội dung là quyền sống khỏe của con người. nước về ATTP, đồng thời xâm phạm của con người. Đối tượng tác động của đến tính mạng, sức khỏe con người. tội phạm này là con người. 14
  21. Mặt chủ Người phạm tội giết người luôn Người phạm tội vi phạm quy định về Người phạm tội vô ý làm chết người là quan thực hiện tội phạm này với lỗi cố ATTP thực hiện tội phạm này dưới hành vi phạm tội của mình dưới hình ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián hình thức lỗi cố ý (cố ý trực tiếp: thức lỗi do vô ý bao gồm cả vô ý do tiếp). nhận thức rõ hành vi trái pháp luật, cẩu thả và vô ý do quá tự tin. thấy trước được hậu quả của hành vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra) hoặc vô ý (người phạm tội nhận thức được thực phẩm không đảm bảo an toàn nhưng do cẩu thả hoặc tin rằng hâu quả tác hại không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được). Hậu quả Tội giết người yêu cầu phải có Hậu quả nghiêm trọnglà dấu hiệu bắt Tội vô ý làm chết người yêu cầu phải hậu quả chết người xảy ra thì buộc trong cấu thành tội phạm, cụ có hậu quả chết người xảy ra thì mới mới cấu thành tội. Thực tiễn rất thể đối với hành vi chê biến, cung cấu thành tội. Thực tiễn rất khó xác khó xác định yếu tố chủ quan cấp hoặc bán thực phẩm theo quy định yếu tố chủ quan của người phạm của người phạm tội. Thông định ở điểm d, khoản 1, đó là gây tội. thường sẽ xác định hậu quả đến tổn hại cho sức khoẻ của 01 người Thông thường sẽ xác định hậu quả đến đâu thì người phạm tội phải chịu mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đâu thì người phạm tội phải chịu trách trách nhiệm đến đó. đến 60% hoặc gây tổn hại cho sức nhiệm đến đó. khoẻ của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc thu 15