Luận văn Tội sử dụng trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội sử dụng trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_toi_su_dung_trai_phep_chat_ma_tuy_theo_phap_luat_hi.pdf
Nội dung text: Luận văn Tội sử dụng trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG VĂN VƯƠNG TỘI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ MÃ SỐ: 60.38.40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS VÕ KHÁNH VINH Hà Nội - 2006
- MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 2 4. Giả thuyết khoa học 3 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 3 6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 4 7. Phương pháp nghiên cứu 4 8. Đóng góp của luận văn 4 9. Cấu trúc của luận văn 4 .1.1 Chương 1: 5 .2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TỰ HỌC VÀ KĨ NĂNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN SƢ PHẠM 1.1 Vài nét lịch sử nghiên cứu vấn đề 5 1.1.1 Nghiên cứu ở nước ngoài 5 1.1.2 Nghiên cứu về tự học của tác giả trong nước 12 1.2 Một số vấn đề lí luận cơ bản về hoạt động học và hoạt động tự học của sinh viên Sƣ phạm 15 1.2.1 Sinh viên và sinh viên Sư phạm 15 1.2.2 Đặc điểm tâm lí nhân cách sinh viên 16 1.2.3. Hoạt động học tập và tự học của sinh viên Sư phạm 20 1.3. Lí luận về kĩ năng và kĩ năng tự học của sinh viên Sƣ phạm 27 1.3.1 Lí luận về kĩ năng và sự hình thành kĩ năng 27 1.3.2 Kĩ năng tự học (self- learned skill), các kĩ năng thành phần trong kĩ năng tự học của sinh viên 32 1.3.3 Các mức độ, thứ bậc kĩ năng tự học của sinh viên 40 1.3.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng tự học của sinh viên 42 Chương 2: TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 47 2.1 Cơ sơ phƣơng pháp luận nghiên cứu các kĩ năng tự học của sinh viên 47 2.2 Tiến trình nghiên cứu. 48 1
- 2.2.1 Tổ chức nghiên cứu lí luận 48 2.2.2. Khảo sát thăm dò 48 2.2.3 Khảo sát chính thức (15/03 đến 30/06/2006) 49 2.2.4 Nghiên cứu thử nghiệm: 50 2.2.5 Tiến hành xử lí số liệu và phân tích kết quả nghiên cứu thực trạng về kĩ năng tự học của sinh viên trường ĐHSP và CĐSP Hà nội với sự trợ giúp của phương pháp thống kê toán học và chương trình SPSS 50 2.3 Các phƣơng pháp nghiên cứu 50 2.3.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu lí luận, lí luận, văn bản 50 2.3.2 Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia 50 2.3.3 Phương pháp điều tra (xem phụ lục 2 mẫu phiếu từng câu hỏi) 51 2.3.4 Phương pháp quan sát và “chụp bản đồ thời gian tự học” của sinh viên 53 2.3.5 Phương pháp phỏng vấn sâu (interview – xem phụ lục 3 ) 54 2.3.6 Phương pháp nghiên cứu trường hợp cụ thể (case study) ở một số sinh viên 55 có kĩ năng tự học tốt 2.3.7. Phương pháp thử nghiệm 56 2.3.8 Phương pháp thống kê toán học 59 CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG BIỂU HIỆN CÁC KĨ NĂNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI VÀ CAO ĐẲNG SƢ PHẠM HÀ NỘI 61 3.1 Vài nét về khách thể nghiên cứu 61 3.1.1 Đặc điểm của sinh viên trường Đại học sư phạm và Cao đẳng sư phạm 61 3.1.2 Điều kiện môi trường sống ở trường ĐHSP và CĐSP Hà Nội có ảnh hưởng đến kĩ năng tự học của bản thân sinh viên 62 3.2 Kết quả khảo sát thực trạng biểu hiện các nhóm kĩ năng tự học của 63 sinh viên trường ĐHSP và CĐSP Hà Nội 3.2.1 Nhận thức của sinh viên về kĩ năng tự học 63 3.2.2 Kết quả nghiên cứu mức độ nhận thức và mức độ thực hiện từng nhóm kĩ năng tự học 74 3.2.3 Đánh giá các mức độ kĩ năng tự học của sinh viên 113 3.2.4 Phân tích một số trường hợp sinh viên có kĩ năng tự học tốt trong đó có kết 118 quả phỏng vấn sâu và chịu ảnh hưởng thời gian tự học 2
- 3.2.5 Kết qủa về các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng tự học của sinh viên Sư phạm 122 3.3 Kết quả thử nghiệm 50 sinh viên năm thứ nhất K.Toán và K.Sử trƣờng ĐHSP Hà Nội 128 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 134 139 .2.1.1.1 Danh mục tài liệu tham khảo PHỤ LỤC 145 3
- DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU Trang Sơ đồ 1: Mô hình dạy - tự học 25 Sơ đồ 2: Sơ đồ các giai đoạn hình thành kĩ năng 31 Bảng 3.1a: Quan niệm của sinh viên nói chung về vai trò của kĩ năng tự học 65 Bảng 3.1b1: Nhận thức của sinh viên về vai trò của kĩ năng tự học xét theo giới tính 68 Bảng 3.1b2: Nhận thức của sinh viên về vai trò của kĩ năng tự học xét theo giới tính 69 Bảng 3.2: Nhận thức của sinh viên về các kĩ năng thành phần trong kĩ năng tự học của sinh viên 71 Bảng 3.3: Nhận thức của sinh viên về sự cần thiết của các kĩ năng lập kế hoạch tự học 75 Bảng 3.4: Tự đánh giá biểu hiện việc thực hiện kĩ năng lập kế hoạch tự học của bản thân sinh viên 78 Bảng 3.5a1: Nhận thức của sinh viên về sự cần thiết của một số biểu hiện của kĩ năng đọc sách và tài liệu tham khảo 81 Bảng 3.5a2:Tự đánh giá việc thực hiện một số kĩ năng đọc sách và tài liệu tham khảo của bản thân sinh viên 85 Bảng 3.5a3: Cách thức sử dụng sách và tài liệu chuyên môn trong việc tự học của bản thân sinh viên 87 Bảng 3.5a4: Mức độ thường xuyên tìm đọc tài liệu tham khảo và sách của sinh viên 89 Bảng 3.5b1 : Nhận thức của sinh viên về sự cần thiết của các kĩ năng tự hệ thống hoá kiến thức 91 Bảng 3.5b2: Tự đánh giá việc thực hiện kĩ năng tự hệ thống hoá kiến thức của bản thân sinh viên 95 Bảng 3.5c1: Nhận thức của sinh viên về sự cần thiết của các kĩ năng làm đề cương Xêmina 98 B¶ng 3.5c2: Tù ®¸nh gi¸ biÓu hiÖn viÖc thùc hiÖn c¸c kÜ n¨ng lµm ®Ò c•¬ng Xªmina ë sinh viªn 101 4
- B¶ng 3.5d1: NhËn thøc cña sinh viªn vÒ sù cÇn thiÕt cña kÜ n¨ng «n tËp 103 B¶ng 3.5d2: Tù ®¸nh gi¸ biÓu hiÖn viÖc thùc hiÖn c¸c kÜ n¨ng «n tËp cña b¶n th©n sinh viªn 106 Bảng 3.6a: Việc tự kiểm tra các mức độ biểu hiện các kỹ năng tự học của sinh viên 109 Bảng 3.6b: Tự đánh giá của sinh viên về kết quả thực hiện các kỹ năng tự học của sinh viên 112 Bảng 3.7a: Nhận thức về sự cần thiết của các mức độ kĩ năng tự học của sinh viên 114 Bảng 3.7b: Đánh giá về mức độ thực hiện các kĩ năng tự học của sinh viên. 117 Bảng 3.8: Kết quả học tập năm ( 2005 – 2006 ) của 20 sinh viên năm thứ nhất và năm thứ hai của hai trường ĐHSP và CĐSP. 120 Bảng 3.9a- Những yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng tự học của sinh viên 123 Bảng 3.9b- Những yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng tự học của sinh viên 126 Bảng 10a1: Quan niệm của sinh viên về vai trò của kĩ năng tự học trước và sau thử nghiệm. 129 Bảng 3.10a2: Nhận thức và tự đánh giá của sinh viên về kĩ năng lập kế hoạch tự học trước và sau thử nghiệm 132 Biểu đồ 1: Quan niệm của sinh viên về vai trò của kĩ năng tự học trước và sau thử nghiệm 130 Biểu đồ 2: Tự đánh giá việc thực hiện kĩ năng lập kế hoạch tự học của sinh viên. 131 5
- CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN Đ Điều K Khoản BLHS Bộ luật hình sự CHXHCN Cộng hoà xã hội chủ nghĩa NXB Nhà xuất bản PC Phòng chống TN Tệ nạn PCTN Phòng chống tệ nạn TTLT Thông tư liên tịch NQ Nghị quyết NĐ Nghị định BCA Bộ công an TANDTC Toà án Nhân dân Tối cao VKSNDTC Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao CP Chính phủ HĐTP Hội đồng thẩm phán TNHS Trách nhiệm hình sự 6
- LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước vào thế kỷ XXI, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Suy thoái kinh tế toàn cầu tác động đến hầu hết các quốc gia trên thế giới, khủng bố, chiến tranh, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, thảm họa, thiên tai, dịch bệnh tiếp tục gia tăng gây ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh trật tự, an toàn xã hội nói chung và công tác đấu tranh phòng, chống ma túy nói riêng. Theo báo cáo tóm tắt tình hình ma tuý thế giới và khu vực 2008 tổng số người nghiện ma tuý trên thế giới khoảng trên 208 triệu người (4,9% dân số thế giới ở độ tuổi từ 15 - 54) đã sử dụng ít nhất một lần trong 12 tháng [1]. Báo cáo năm 1993 của Cục quản lý ma túy quốc tế đã viết: “Trong hơn hai mươi năm qua, toàn thế giới đang chú ý đến vấn đề “toàn cầu hóa” nạn ma túy. Trước đây mấy chục năm, nạn ma túy chỉ là vấn đề của một số ít quốc gia nhưng ngày nay, ngay cả những quốc gia chưa bị hại bởi tệ nạn hút, hít ma túy cũng đã không còn đứng ngoài cuộc. Ma túy lan tràn nguy hại khắp toàn cầu, làn sóng hút hít ma túy ngày càng lan rộng, càng kịch liệt, sản xuất ma túy phổ biến khắp nơi trên thế giới. Hoạt động buôn lậu ma túy hoành hành khắp nơi, ma túy không chỉ hủy hoại sức khỏe của nhân loại mà còn ảnh hưởng đến ổn định xã hội quốc tế. Vấn đề ma túy đã cấu thành sự uy hiếp rất lớn đối với sự sinh tồn của loài người và phát triển của xã hội”. Theo báo cáo của cơ quan phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên Hợp Quốc (UNODC), hoạt động buôn lậu ma tuý mỗi năm đem lại khoản lợi nhuận khoảng 500 tỷ USD chỉ đứng thứ hai sau hoạt động buôn bán vũ khí [2]. Việt Nam cũng không ngoại lệ, tính đến hết ngày 30/11/2008 ở Việt Nam có khoảng 173.603 người nghiện ma túy, trong đó đáng chú ý là cán bộ, công nhân, viên chức là 4.837 người và 288 người là học sinh, sinh viên [3]. Điều đáng lo ngại hơn là người nghiện ma túy có độ tuổi ngày càng trẻ 7
- (dưới 18 tuổi chiếm 4,5%, dưới 30 tuổi là 68,3% và 80% đang ở độ tuổi lao động, tỉ lệ nghiện ở nam giới là 95,47%, ở nữ giới chiếm 4,53% và vấn đề quan trọng là tỷ lệ tái nghiện sau khi cai (theo báo cáo là hơn 80% tỉ lệ rất cao). Đây là vấn đề nghiêm trọng hiện nay, đối tượng không chỉ tập trung ở nhóm người có trình độ dân trí thấp, không nghề nghiệp, có tiền án tiền sự mà còn lan sang cả những đối tượng có trình độ học vấn cao, công việc ổn định và kinh tế khá giả. Hiện tượng này đã gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng cho bản thân, gia đình và xã hội, hủy hoại sức khỏe, nhân cách của bản thân, phá vỡ hạnh phúc gia đình, thiệt hại về kinh tế, rối loạn trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tới sự phát triển của giống nòi. Trước tình hình đó, việc giảm thiểu tối đa số người nghiện ma túy, các hành vi vận chuyển, buôn bán, sử dụng trái phép chất ma túy là vấn đề cấp thiết cần được ngăn chặn. Nhiều biện pháp đã được đặt ra thể hiện trong chính sách pháp luật, chính sách xã hội của Nhà nước, thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về phòng, chống, xử lý các hành vi sử dụng, buôn bán trái phép chất ma túy. Nhận thức được hậu quả lâu dài của nó đối với kinh tế - xã hội, sự phát triển bền vững của giống nòi, nhân cách con người từ khi giành được độc lập cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật và các chính sách để giải quyết vấn đề này. Tuy nó chưa có tính hệ thống mà nằm rải rác ở các văn bản pháp luật cao nhất là trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã thể hiện được chính sách vì mục tiêu phát triển bền vững của con người. Cho đến nay hệ thống các văn bản pháp luật quy định tương đối đầy đủ về vấn đề này như Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007 và năm 2008, Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 và được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2008, đặc biệt trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và các văn bản pháp luật do các cơ quan ban ngành của Trung ương và địa phương đã thể hiện 8
- nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề như xử lý hành chính, hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về ma túy, các biện pháp cai nghiện, tạo điều kiện cho những người sau cai hòa nhập cộng đồng, tuyên truyền, giáo dục phòng, chống ma túy được thực hiện rộng rãi. BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985 đã quy định nhóm tội phạm về ma túy, nhưng đến lần sửa đổi, bổ sung thứ tư tại BLHS năm 1997, “Tội sử dụng trái phép chất ma túy” mới được quy định lần đầu tiên tại Điều 185i. Đến BLHS năm 1999, tội sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 199, song nội dung của điều luật không thay đổi so với Điều 185i BLHS 1997. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy điều luật này còn nhiều bất cập, sự tác động của quy phạm pháp luật hình sự vào loại quan hệ này không đạt được hiệu quả cao mà một phần nguyên nhân là do quy định của Điều 199 BLHS có chỗ chưa phù hợp với thực tế. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề trong điều luật, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm ma túy nói riêng là việc làm cần thiết. Do đó, việc có một công trình khoa học nghiên cứu và luận giải vấn đề “Tội sử dụng trái phép chất ma túy” là một yêu cầu cấp bách, thiết thực. Đây chính là lý do luận chứng cho việc tôi quyết định lựa chọn đề tài này làm Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Việc nghiên cứu Tội sử dụng trái phép chất ma túy là một vấn đề rất phức tạp, liên quan đến cả lý luận và thực tiễn, có thể nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau nhất là trong tình hình thực tế hết sức đa dạng và phức tạp của các loại tội phạm hiện nay. Trong phạm vi nhỏ bé của Luận văn này, tôi chỉ xin đặt ra mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu một số vấn đề sau: 9
- - Lịch sử các quy định của pháp luật hình sự đối với tội sử dụng trái phép chất ma túy - Chính sách hình sự của nhà nước ta về Tội sử dụng trái phép chất ma túy - Tìm hiểu thực trạng của tình hình sử dụng trái phép chất ma túy ở Việt Nam. - Làm rõ thêm quy định của Luật hình sự Việt Nam về loại tội này. - Tìm hiểu thực tiễn áp dụng quy phạm của Điều 199 BLHS trong thực tế. Đồng thời, xem xét chỉ ra một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, qua đó đóng góp một số biện pháp góp phần hoàn thiện quy phạm pháp luật và đấu tranh với loại tội phạm ma túy này. 3. Đối tƣợng, phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Phạm vi của Luận văn chỉ nghiên cứu về Tội sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 199 BLHS dưới góc độ luật hình sự. Nhưng trước đó cần phải xem xét tình hình sử dụng trái phép chất ma túy trên thực tế, từ đó tìm rút ra những vướng mắc và hướng giải quyết tương ứng. Để đạt được những mục đích như đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng hợp cũng như những thành tựu của khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự, xã hội học pháp luật, thống kê tư pháp, điều tra xã hội học trong công trình của các nhà khoa học, luật gia ở trong và ngoài nước để làm rõ vấn đề nghiên cứu. 4. Điểm mới của luận văn Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về Tội sử dụng trái phép chất ma tuý trên cả hai bình diện là Luật hình sự và tội phạm học, cụ thể: nghiên cứu và đánh giá về đặc điểm tình hình tội sử dụng trái phép chất ma tuý, làm rõ khái niệm về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý đưa ra các đặc điểm riêng biệt của loại tội phạm này để so sánh với một 10
- số loại tội phạm khác; phân tích một cách có hệ thống chính sách hình sự, nguyên tắc xử lý và TNHS đối với tội phạm này. Phân tích thực tiễn áp dụng TNHS đối với các tội phạm về ma tuý đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về loại tội này cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng và chống loại tội này trong thời gian tới. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau: - Chương 1. Những vấn đề chung về Tội sử dụng trái phép chất ma túy - Chương 2. Các dấu hiệu pháp lý hình sự của Tội sử dụng trái phép chất ma túy trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 - Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội sử dụng trái phép chất ma túy ở nước ta trong thời gian qua và việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về Tội sử dụng trái phép chất ma túy Bằng vốn kiến thức đã được trang bị ở nhà trường, nỗ lực của bản thân, kinh nghiệm thực tiễn và sự chỉ dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn GS.TS Võ Khánh Vinh và tổ bộ môn tư pháp hình sự, tôi không có tham vọng đưa ra được những giải pháp và phương hướng tối ưu cho cuộc đấu tranh phòng, chống và kiểm soát Tội phạm sử dụng trái phép chất ma túy hiện nay nhưng tôi mong muốn góp phần công sức của mình làm cơ sở, phương hướng cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội này trong thời gian tới. Ngoài ra, những nghiên cứu công phu của người viết ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập đến tội phạm này trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Do đó, nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành. 11
- CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 1.1. Chính sách hình sự của Nhà nƣớc ta về tội sử dụng trái phép chất ma túy Luật hình sự nói riêng và pháp luật nói chung là công cụ sắc bén trong công cuộc xây dựng, bảo vệ, củng cố các mối quan hệ xã hội mới và tiến bộ. Luật hình sự trong quá trình xây dựng, áp dụng và thi hành phải quán triệt, thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam – phản ánh ý chí, nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Chính sách xây dựng và áp dụng pháp luật của Đảng và Nhà nước ta được gọi là chính sách pháp luật và một trong những bộ phận quan trọng của chính sách pháp luật là chính sách hình sự. Trong toàn bộ các biện pháp tác động bằng pháp luật thì sự tác động của chế tài hình sự bao giờ cũng nghiêm khắc nhất, chế tài hình sự chỉ phải áp dụng khi mà những biện pháp nhẹ hơn như: giáo dục, kỷ luật, hành chính không đạt được hiệu quả như mong muốn. Chính sách hình sự là định hướng cho toàn bộ hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử. Chính sách hình sự được tuyên truyền, phổ biến trong nhân dân góp phần xây dựng và hình thành ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa trong nhân dân. “Suy cho cùng pháp luật chỉ phát huy được hiệu lực, chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước chỉ được thực hiện khi mà pháp luật, đường lối chính sách đó được thể hiện trong hoạt động thực tế của bộ máy nhà nước, trong đời sống hàng ngày, hàng giờ của mọi công dân”[4]. Hiện nay, trong khoa học pháp lý vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm về chính sách hình sự, nhưng nhìn chung các ý kiến đều thống nhất ở điểm cơ bản là: Chính sách hình sự là một bộ phận của chính sách pháp luật, là “chính sách của nhà nước trong lĩnh lực đấu tranh phòng, 12
- chống tội phạm”[5], chính sách hình sự thể hiện những quan điểm, đường lối, chính sách và những nguyên tắc do nhà nước đề ra trong xây dựng và sử dụng các biện pháp hình sự để đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chính sách hình sự đối với tội sử dụng trái phép chất ma tuý với tính cách là một bộ phận cấu thành chính sách hình sự, phải thể hiện được quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với Tội sử dụng trái phép chất ma túy, các nguyên tắc xử lý đối với các hành vi phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy thể hiện tính nhân đạo, công bằng của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Do tính nguy hiểm cao của hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và trước những tác hại to lớn do hành vi này gây ra trong thời gian qua, cùng với sự gia tăng của tệ nạn nghiện hút nên chính sách hình sự đối với hành vi của tội này luôn thể hiện tính nghiêm khắc. Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là kiên quyết đấu tranh tiến tới loại trừ tệ nạn ma túy ra khỏi xã hội. Do vậy, các hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đều bị xem xét khả năng xử lý bằng biện pháp hình sự. 1.1.1. Chính sách hình sự đối với Tội sử dụng trái phép chất ma túy theo Bộ luật Hình sự 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1997 Vào những năm 1980, tình hình sản xuất, lưu thông và sử dụng trái phép ma túy có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là buôn bán qua biên giới. Trước tình hình đó, Bộ luật Hình sự đầu tiên của Nhà nước ta được Quốc hội thông qua ngày 26/6/1985 đã quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi phạm tội liên quan đến ma túy tại 3 điều: Điều 97 Tội buôn bán hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới; Điều 166 Tội buôn bán hàng cấm và Điều 203 Tội tổ chức dùng chất ma túy [6]. Để tỏ rõ thái độ kiên quyết đấu tranh với tệ nạn ma túy và các tội phạm về ma túy của Đảng và Nhà nước ta, Hiến pháp năm 1992 tại Điều 61 đã quy định “ nghiêm cấm, sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma túy khác, Nhà nước quy định chế 13
- độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh nguy hiểm ”[7]. Để tạo sức mạnh tổng hợp cho cuộc đấu tranh phòng, chống ma túy, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 06/CP ngày 29/01/1993 về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng trong hoạt động lập pháp, cũng như thực tiễn đấu tranh chống các tội phạm về ma túy nhưng loại tội phạm này vẫn tiếp tục tăng nhanh và diễn biến phức tạp, thủ đoạn của chúng ngày càng tinh vi hơn và đối tượng phạm tội ngày càng liều lĩnh hơn. Nhận thấy đây là vấn đề nghiêm trọng cần phải có những biện pháp ngăn chặn kịp thời và có những biện pháp đủ mạnh để trừng trị loại tội này, mặt khác những quy định của những tội trước đó không đủ đáp ứng yêu cầu trong cuộc đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm về ma túy trong tình hình mới. Do vậy, ngày 10/5/1997 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, trong đó các tội phạm về ma túy được quy định có hệ thống, triệt để hơn và nghiêm khắc hơn. Trong lần sửa đổi, bổ sung này “Tội sử dụng trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 185i góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy và thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với loại tội này. 1.1.2. Chính sách hình sự đối với Tội sử dụng trái phép chất ma túy theo Bộ luật Hình sự năm 1999 Trong điều kiện đất nước ta đã và đang chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển theo cơ chế thị trường, mở cửa, hợp tác rộng rãi với các nước, từng bước hòa nhập với khu vực và thế giới. BLHS 1985, dù đã qua vài lần sửa đổi nhưng vẫn chưa theo kịp tình hình phát triển của xã hội. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải sửa đổi BLHS 1985 một cách toàn diện đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống các tội phạm nói chung và các tội phạm về 14
- ma túy nói riêng. Trên cơ sở đó BLHS 1999 đã ra đời. Trong lần sửa đổi này, các tội phạm về ma túy được quy định thành một chương riêng (Chương XVIII) với 10 tội danh khác nhau. Tội sử dụng trái phép chất ma túy được quy định lần đầu tiên trong lần sửa đổi bổ sung BLHS năm 1997, đến BLHS 1999 được quy định tại Điều 199 với nội dung không thay đổi. Điều này đã thể hiện chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc kiên quyết đấu tranh với các tội phạm về ma túy nói chung và đối với Tội sử dụng trái phép chất ma túy nói riêng. Chính sách hình sự cũng như các quy phạm pháp luật của Nhà nước ta đối với các tội phạm về ma túy từ năm 1945 đến nay luôn được xây dựng và bổ sung theo hướng ngày càng toàn diện hơn, bao quát hơn trong đó các hành vi sử dụng trái phép chất ma túy được xử lý bằng biện pháp hình sự. Tội sử dụng trái phép chất ma túy ra đời thể hiện công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy, thể hiện quyết tâm ngăn chặn và xóa bỏ tệ nạn ma túy, đấu tranh phòng, chống triệt để nhằm loại bỏ dần tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội. 1.2. Khái niệm về Tội sử dụng trái phép chất ma túy Xuất phát từ lập trường và nghề nghiệp khác nhau, con người có sự giải thích khác nhau. Về khái niệm “ma túy”. Từ góc độ y học, ma túy là một loại dược phẩm, là một trong những chất dùng để phòng bệnh, duy trì sức khỏe, chữa bệnh và làm giảm đau. Nó có thể làm cho người bệnh khôi phục và bảo vệ công năng sinh lý ở mức độ nhất định, có thể làm giảm mức độ trầm trọng thêm của một số bệnh nào đó, có thể kéo dài sinh mệnh hoặc làm cho người ta yên vui hoặc có thể có tác dụng trợ sản, tiết dục. Trong định nghĩa này ma túy cũng là dược phẩm, vấn đề là phải sản xuất, quản lý hợp lý và sử dụng chính đáng. Nếu sử dụng không chính đáng hoặc lạm dụng thì các chất được gọi là “dược phẩm” đó sẽ mất đi hàm ý, mất đi tác dụng về mặt y học, dần người ta coi là chất độc. Đứng trên quan điểm pháp 15
- luật mà xét, ma túy được lý giải là một chất đặc biệt, có hại nghiêm trọng đến con người và xã hội, thuộc chất bị cấm, là loại hàng hóa bị pháp luật quản lý nghiêm ngặt và khống chế sử dụng. Ngày nay, ngoài các sản phẩm của các cây thuốc phiện, cây cần sa, cây côca còn có các chất khác được tổng hợp trong phòng thí nghiệm cũng có tính chất gây nghiện. Vì vậy, khái niệm “ma túy” cũng được mở rộng về nội dung. Ở Việt Nam, cây thuốc phiện là loại cây được đưa vào trồng và sử dụng đầu tiên ở các tỉnh phía Bắc từ những năm 1600. Sau này, cây cần sa cũng được đưa vào trồng và sử dụng ở các tỉnh phía Nam. Thuật ngữ “ma túy” lần đầu tiên, chính thức được quy định tại Điều 203 của BLHS năm 1985 trong “Tội tổ chức dùng chất ma túy” Theo các chuyên gia nghiên cứu về ma túy của Liên hợp quốc cho rằng: “Ma túy là các chất hóa học có nguồn gốc tự nhiên và nhân tạo khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ có tác dụng làm thay đổi tâm trạng, ý thức và trí tuệ, làm con người bị lệ thuộc vào chúng, gây nên tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng”. Đây là khái niệm có tính khái quát cao, tuy nhiên có những điểm còn chưa triệt để và còn dài, chẳng hạn nói đến “chất hóa học” là những chất tổng hợp, trong khi đó ma túy không chỉ là các chất tổng hợp mà còn cả các chất tự nhiên. Mặt khác, dùng từ “thâm nhập” là chưa chuẩn xác bởi vì không phải ai sử dụng chất ma túy cũng bị lệ thuộc mà chỉ những người sử dụng trái phép chất ma tuý không theo hướng dẫn hoặc chỉ định của cơ quan chức năng hoặc người có thẩm quyền chuyên môn. Ở Việt Nam, một số nhà nghiên cứu về ma túy đã đưa ra khái niệm: “Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi được đưa vào cơ thể con người nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó. Nếu lạm dụng ma túy, con người sẽ lệ thuộc vào nó, khi đó nó gây tổn thương và nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng”. 16
- Từ những khái niệm trên ta có thể đưa ra được khái niệm tội sử dụng trái phép chất ma túy như sau: “Tội sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Điều 199 BLHS năm 1999, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước ta về chất ma túy”. Từ khái niệm cơ bản trên ta có thể phân tích vấn đề nghiện ma túy ở Việt Nam hiện nay và hậu quả của vấn đề này gây ra cho xã hội như thế nào. 1.3. Thực trạng nghiện ma túy ở Việt Nam và hậu quả của tệ nạn nghiện ma túy 1.3.1. Thực trạng nghiện ma túy ở Việt Nam Ở Việt Nam, tệ nạn ma tuý nói chung và tệ nạn nghịên ma tuý nói riêng cũng đã và đang được coi là vấn nạn của toàn xã hội, đến hết ngày 30/11/2008 số người nghiện là 173.603 người chiếm 0,21% dân số. Theo thống kê hiện nay có hơn 7.840 xã, phường, thị trấn trong toàn quốc của lực lượng công an các cấp thì có 4.154 xã, phường, thị trấn có tệ nạn ma tuý (chiếm tỷ lệ 52,98%); 431 xã, phường, thị trấn trọng điểm về tệ nạn ma tuý (chiếm tỷ lệ 5,49%). Tỷ lệ xã, phường, thị trấn có tệ nạn ma tuý tập trung cao ở các tỉnh thành phố: Hà nội (545/577 - chiếm 99,4%); Điện Biên (102/106 = 96,22%), Cần Thơ (67/76 = 88,15%); Lai Châu (85/98 = 86,7%); Thái Bình (242/286 = 84,61%) Bà Rịa - Vũng Tàu (68/82 = 82,92%); Sơn La (116/206 = 80,5%) [8]. Số người nghiện có sự diễn biến phức tạp theo từng năm, có năm tăng, năm giảm nhưng với sự cố gắng, nỗ lực của Đảng và Nhà nước, bằng nhiều hình thức khác nhau như tuyên truyền, giáo dục cũng như các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, nên chỉ sau 8 năm thực hiện Chương trình hành động phòng, chống ma tuý, tốc độ gia tăng người nghiện ma tuý đã có kiềm chế đáng kể (lần lượt từ 2001 đến 2008 là 12,7%; 24,67%; 13,14%; 6,06%; -7,03%; 0,63%; 11,82; -2,63%). 17
- Song do tác động của tình hình ma tuý trong khu vực và trên thế giới, nhìn chung số người nghiện ma tuý vẫn có xu hướng gia tăng. Bên cạnh số người nghiện mới và số người nghiện trở về từ các trại giam, cơ sở giáo dưỡng tái nghiện, thêm vào đó, gần đây nhiều địa phương làm tốt công tác thống kê người nghiện và đưa vào danh sách nhiều đối tượng sót lọt trong các đợt thống kê trước đây cũng làm cho số người nghiện được thống kê tăng lên. Năm 2001 cả nước có 113.903 người nghiện ma tuý. Năm 2002 là 142.001 người, tăng 28.098 người tương đương 24.67% so với năm 2001. Năm 2003 có 160.670 người nghiện tăng 18.669 người tương đương 13,15% so với năm 2002. Năm 2004 là 170.407 người, tăng 9.737 người tương đương 6,06% so với năm 2003, năm 2005, số người nghiện của cả nước giảm xuống còn 158.428 người, giảm 11.979 người tương đương - 7,03% so với cùng kỳ năm 2004, năm 2006 là 159.426 người tăng 998 người 0,63%, năm 2007 là 178.305 người tăng 18.879 người tương đương 11,84%, năm 2008 là 173.603 người giảm 4.720 người tương đương -2,63% (Riêng số người nghiện trong công nhân, viên chức: 4.837 tăng 144 người so với cuối năm 2007 [9] ). Như vậy, ta thấy mỗi năm (tính từ năm 2001 đến năm 2008), bình quân mỗi năm số người nghiện ở nước ta tăng khoảng 8,2%, song tốc độ gia tăng này không ổn định đặc biệt từ năm 2005 trở lại đây tỉ lệ tăng hàng năm giảm hơn so với những năm trước đó cụ thể từ năm 2005 đến năm 2008 tăng 2,1% trong khi đó từ năm 2001 đến năm 2005 tăng 14,1% có được thành quả như vậy là nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng và nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống ma tuý. Các tỉnh thành phố có nhiều người nghiện giảm như: Tuyên Quang (17,3%); Điện Biên (5.8%); Đồng Nai (17,4%); Quảng Ninh (10,3%); Bến Tre (41,9%); Đắc Nông (37,8%); Khánh Hoà (16,5%); Lạng Sơn (4,9%); Trà Vinh (19,2%). Có được điều đó là do số người nghiện ma tuý đã được cai và không tái nghiện và do một số nguyên nhân khác. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn 16 tỉnh, 18
- thành phố có người nghiện tăng nhiều điển hình là: Thành phố Hồ Chí Minh (67,3%); Hà Nội (79,9%); Hà Tây (143,6%); Thái Bình (89,9%); An Giang (106,4%); Quảng Nam (242,7%) Trong đó số người nghiện mới là 59.700 người so với năm 2001. Ta có thể thấy rõ hơn tình trạng nghiện ma túy ở Việt Nam qua biểu đồ dưới đây: Biểu đồ 1: Số người nghiện ma tuý ở Việt Nam (2001 – 2008) 200 170.407 178.305 173.603 160.67 158.428 159.426 142.001 150 113.903 100 50 Sèng•êi nghiÖn 0 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 N¨m (Nguồn: Uỷ ban PC AIDS, PCTN ma tuý, mại dâm) Thành phần người nghiện ma tuý rất đa dạng, ở khắp các địa bàn thành thị, nông thôn, song tập trung chủ yếu ở nhóm có trình độ văn hóa thấp, đối tượng có tiền án, tiền sự, gái mại dâm, người không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định, người trở về từ các khu đãi vàng. Người nghiện còn là lao động trong các hầm mỏ, công nhân cầu đường, công nhân lâm trường, giáo viên một số trường phổ thông vùng sâu, vùng xa, và một bộ phận thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên ăn chơi đua đòi, bị lôi kéo, thiếu ý thức vươn lên, thiếu sự quan tâm, giáo dục của gia đình, đoàn thể xã hội. Vừa nghiện ma tuý, nhiều đối tượng còn trực tiếp tham gia vào các đường dây buôn bán vận chuyển và tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý kiếm lời, khiến tình hình tệ nạn ma tuý đã phức tạp càng thêm phức tạp. 19