Luận văn Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_toi_su_dung_mang_may_tinh_mang_vien_thong_phuong_ti.pdf
Nội dung text: Luận văn Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THANH HÀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, NĂM 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ______ NGUYỄN THỊ THANH HÀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHAN ANH TUẤN HÀ NỘI, NĂM 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thanh Hà
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự CNTT Công nghệ thông tin TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh UBTVQH Ủy ban thường vụ Quốc Hội VKSND Viện Kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 8 1.1. Những vấn đề lý luận về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 8 1.2. Lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 27 1.3. Quy định của pháp luật hình sự một số nước về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 32 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 38 2.1. Khái quát tình hình xét xử Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 38 2.2. Thực tiễn định tội danh Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 41 2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 50 2.4. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp hình sự về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 59
- Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢO ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 67 3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 67 3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 70 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 PHỤ LỤC 85
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi một người sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Ngày 27/11/2015, Quốc hội thông qua Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, quy định hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là tội phạm - quy định tại Điều 290 Bộ luật Hình sự, và đến năm 2017 sửa đổi, bổ sung vẫn giữ nguyên tên điều luật như Bộ luật Hình sự năm 2015. Trước đây, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản - được quy định tại Điều 226b Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây gọi là BLHS năm 1999) với tên Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản và được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao ngày 10/9/2012 về việc hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông. Hiện nay, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 290 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS năm 2015) nhưng chưa có văn bản nào hướng dẫn. Theo thống kê cho thấy, từ năm 2016 đến năm 2020, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra 760 vụ với 334 bị can phạm tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Qua nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án và quy định của pháp luật về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả nhận thấy còn nhiều quan điểm khác nhau trong việc áp dụng pháp luật để xác định dấu hiệu hành vi khách quan và dấu hiệu định tội của tội danh này, cũng như những khó khăn, vướng mắc hiện nay 1
- mà các cơ quan tiến hành tố tụng gặp phải khi tiến hành xử lý hình sự tội phạm này. Do đó, việc nghiên cứu thực tiễn xét xử để hoàn thiện, hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với tội phạm quy định tại Điều 290 BLHS hiện hành là vô cùng cần thiết và quan trọng. Xuất phát từ cơ sở đó, nên tác giả quyết định chọn đề tài: “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ mang tính cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Các công trình nghiên cứu về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản hiện nay rất hạn chế và chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tập trung, đầy đủ và thống nhất. Các công trình nghiên cứu về tội phạm tại Điều 290 BLHS được công bố có thể kể đến sau: * Nhóm các giáo trình của các cơ sở đào tạo như: - Trường Đại học luật Hà Nội (2015), “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam tập II”, Nxb Công an nhân dân; - Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), “Giáo trình phòng chống và điều tra tội phạm máy tính”, Nxb Thông tin và Truyền thông; - Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm - Quyển 2)”, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam - Học viện Tư pháp (2011) “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam”, Nbx Tư pháp; Các giáo trình này cung cấp những kiến thức lý luận cơ bản về dấu hiệu pháp lý của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản làm cơ sở tham khảo cho luận văn nghiên cứu về lý luận và quy định của pháp luật hình sự về tội này. * Nhóm các sách bình luận Bộ luật hình sự và chuyên khảo liên quan đến nội dung đề tài có thể kể đến: 2
- - Nguyễn Đức Mai và các đồng tác giả (2010), “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, phần các tội phạm”, Nxb Chính trị quốc gia; - Phạm Văn Lợi và các đồng tác giả (2007),“Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin”, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Công trình này nghiên cứu chủ yếu một số đặc điểm của tội phạm Công nghệ thông tin (CNTT) nói chung. - Trần Minh Hưởng và đồng tác giả (2009), “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 tập I” , Nxb Lao động; Những sách nêu trên có nội dung chủ yếu chỉ dừng lại ở việc phân tích các dấu hiệu pháp lý của Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, lý luận chung về định tội danh. Đây là tài liệu quan trọng cho luận văn tham khảo khi nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý, lý luận về định tội danh đối với Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo luật Hình sự Việt Nam. * Nhóm các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành liên quan đến đề tài có thể kể đến như: - Đặng Trung Hà (2009), “Tội phạm công nghệ thông tin và sự khác biệt giữa tội phạm công nghệ thông tin với tội phạm thông thường”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số 3/2009, bài viết chủ yếu so sánh các tội phạm công nghệ cao với các tội phạm thông thường. - Lê Đăng Doanh (2006), “Về định tội danh đối với hành vi làm, sử dụng thẻ tín dụng giả hay các loại thẻ khác để mua hàng hóa hoặc rút tiền tại các máy trả tiền tự động của ngân hàng”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 17/2006; - Lê Đăng Doanh (2006), "Thực trạng tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản có sử dụng công nghệ cao và một số giải pháp đấu tranh phòng chống tội phạm nay ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 24/2006; - Phạm Minh Tuyên (2013), “Một số vướng mắc và biện pháp xử lý tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông ở Việt Nam”, Tạp chí Kiểm Sát, Số 23/2013; 3
- - Đào Anh Tới (2014), “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về chứng cứ điện tử trong phòng, chống tội phạm công nghệ cao”, Tạp chí Kiểm Sát, Số Xuân (01/2014); - Lê Tường Vy (2015), “Bàn về tội Sử dụng công nghệ cao thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, Tạp chí Kiểm Sát, Số 5/2015; - Đỗ Huyền Trang (2015), “Giải pháp xử lý, ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Số 22 (11/2015); - Nguyễn Đình Trung (2016), “Cảnh báo một số hành vi lừa đảo qua mạng máy tính, mạng internet hoặc sử dụng các phương tiện điện tử để lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Tạp chí Kiểm sát, Số 10/2016. Các bài viết trên đã nhận diện và làm sáng tỏ một số vấn đề về khái niệm, đặc trưng, các dấu hiệu pháp lý của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử hình sự tội phạm này; phân tích, đối chiếu và phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác trong Bộ luật hình sự và đề xuất giải pháp hoàn thiện Tuy nhiên, các công trình này chỉ nghiên cứu các nội dung riêng lẻ của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản chứ chưa nghiên cứu đầy đủ một cách có hệ thống về tội phạm này ở cả lý luận và thực tiễn. Do đó, việc nghiên cứu đầy đủ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là công trình mới, không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào, còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đối với Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, Luận văn tìm ra những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc thời gian qua; từ đó kiến nghị và đề xuất các giải 4
- pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau: - Hệ thống hóa, làm rõ các khái niệm, dấu hiệu pháp lý của Tội phạm sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 290 BLHS. Phân biệt Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản với các tội phạm khác. - Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án cụ thể về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, tìm ra những vấn đề khó khăn, vướng mắc mà các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp phải trong việc xác định dấu hiệu hành vi phạm tội. - Từ việc tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật, tác giả luận văn sẽ kiến nghị, đề xuất những giải pháp để hoàn thiện quy định của pháp luật về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án có liên quan tới tội phạm này trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là cơ sở lý luận, quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật trong xét xử đối với Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản được quy định tại điều 290 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Luận văn nghiên cứu Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 5
- - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các vụ án Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin với phép duy vật biện chứng khoa học và biện chứng khoa học lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để phục vụ cho việc nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, lịch sử. - Phương pháp phân tích và tổng hợp nhằm tiến hành phân tích và tổng hợp một cách khái quát các nội dung cần nghiên cứu trong Luận văn. Qua đó, phân tích thành từng vấn đề để tìm hiểu cụ thể quy định về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Đồng thời, Luận văn tiến hành tổng hợp từng vấn đề lý luận đã phân tích, nhằm làm rõ, đầy đủ và cụ thể về tội phạm này. - Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những điểm giống nhau và khác nhau trong quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác có liên quan và với quy định của tội phạm này trong luật hình sự một số nước trên thế giới. - Phương pháp bình luận án được sử dụng để bình luận các bản án trong thực tiễn xét xử vào nội dung đề tài nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận - Đề tài xây dựng được khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội phạm quy định tại Điều 290 BLHS. - Phân tích một cách toàn diện các quy định trong BLHS và văn bản hướng dẫn thi hành về tội phạm quy định tại Điều 290 BLHS, so sánh với các quy định của 6
- điều luật tương tự. Tìm ra những hạn chế, thiếu sót trong quy định của pháp luật về Điều 290 BLHS hiện hành - Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện về mặt pháp luật, làm cơ sở lý luận khoa học về tội phạm quy định tại Điều 290 BLHS; 6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn đã chỉ ra được những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về Điều 290 BLHS, từ đó, đưa ra các kiến nghị có cơ sở lý luận và thực tiễn để giải quyết các khó khăn, vướng mắc đó. Vì vậy, kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng để các cơ quan tiến hành tố tụng cả nước nói chung, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng quy định của BLHS về Điều 290 BLHS. Ngoài ra, những kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn đạt được còn có thể làm tài liệu tham khảo cho các học viên khác và cho những người có quan tâm trong quá trình công tác, học tập và nghiên cứu. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn bao gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Những vấn đề lý luận về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 1.1.1. Khái niệm về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản Trước khi tìm hiểu khái niệm về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, chúng ta cần tìm hiểu một số khái niệm sau về: mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, phương tiện điện tử, dữ liệu, thương mại điện tử, chiếm đoạt tài sản. - Mạng máy tính: là tập hợp nhiều máy tính kết nối với nhau, có thể chia sẽ dữ liệu cho nhau. - Mạng viễn thông: là một tập hợp các thiết bị viễn thông được liên kết với nhau bằng đường truyền dẫn để cung cấp dịch vụ viễn thông, dịch vụ ứng dụng viễn thông. Mạng viễn thông gồm có: Mạng viễn thông công cộng, mạng viễn thông riêng, mạng nội bộ. - Mạng Internet: là một hệ thống các mạng máy tính liên kết toàn cầu sử dụng chuẩn Internet Protocol Suite (TCP/IP) để phục vụ hàng tỷ người dùng trên khắp thế giới. Nó là mạng của các mạng, bao gồm hàng triệu mạng cá nhân, mạng cộng đồng, trường đại học, doanh nghiệp, chính phủ, từ từng địa phương đến phạm vi toàn cầu, liên kết với nhau. Internet chứa đựng phạm vi nguồn thông tin và dịch vụ vô cùng lớn, như World Wide Web (WWW) và hạ tầng hỗ trợ sử dụng thư điện tử ( Wikipedia.org/wiki/Internet). Theo quy định tại Điều 3 Luật viễn thông năm 2018 thì mạng Internet còn được hiểu là hệ thống thông tin toàn cầu sử dụng giao thức Internet và tài nguyên Internet đi cung cấp các dịch vụ và ứng dụng khác nhau cho người sử dụng dịch vụ viễn thông. 8
- - Phương tiện điện tử: là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện tử hoặc công nghệ tương tự như: Điện thoại, máy tính - Tội phạm: là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự. - Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là một trong những tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, hay còn gọi là tội phạm công nghệ cao. Dựa vào khái niệm tội phạm được quy định trong BLHS, có thể đưa ra khái niệm về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản như sau: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do một người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi thực hiện với lỗi cố ý bằng việc sử dụng phương tiện phạm tội là mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử nhằm xâm phạm và phá vỡ hoạt động cùng với sự an toàn của hệ thống công nghệ thông tin được pháp luật hình sự bảo vệ, qua đó xâm phạm quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân được pháp luật bảo vệ. 1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản Bộ luật hình sự năm 2015 quy định tại Điều 290 về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản như sau: 1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các 9
- trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; d) Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản; đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Có tính chất chuyên nghiệp; d) Số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới 200 thẻ; đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; e) Gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; g) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; c) Số lượng thẻ giả từ 200 thẻ đến dưới 500 thẻ. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: 10
- a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b) Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên; c) Số lượng thẻ giả 500 thẻ trở lên. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Điều 290 BLHS năm 2015 là căn cứ pháp lý để làm rõ cấu thành tội phạm của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phân biệt tội phạm này với những tội phạm khác. Đây là căn cứ pháp lý để Tòa án quy kết người nào đó có phạm tội Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản hay không. Khoa học pháp lý về hình sự xác định “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” có 04 yếu tố cấu thành tội phạm, đó là: khách thể của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm. Bốn yếu tố cấu thành tội phạm này có mối liên hệ mật thiết, bổ trợ lẫn nhau, cụ thể như sau: 1.1.2.1. Khách thể của tội phạm: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản được quy định tại Chương XXI - Các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Như vậy, có thể thấy việc sắp xếp tội trên trong Bộ luật Hình sự Việt Nam phản ánh khách thể của tội phạm này nằm trong khách thể loại của nhóm tội an toàn công cộng, trật tự công cộng. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là xâm phạm hoạt động bình thường của hệ thống công nghệ thông tin và còn xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân, gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về lợi ích vật chất cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Như vậy, khách thể trực tiếp của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là xâm phạm sự an toàn của hệ thống công nghệ thông tin (an toàn trong lĩnh vực công nghệ thông tin) và qua đó xâm hại quan hệ sở hữu của người khác. 11
- 1.1.2.2. Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là người có đầy đủ năng lực chịu TNHS và đạt độ tuổi do luật định. BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có nhiều quy định sửa đổi quan trọng về chủ thể tội phạm, trong đó có quy định về TNHS theo độ tuổi và TNHS của pháp nhân thương mại. Những sửa đổi này liên quan trực tiếp đến việc xác định TNHS của người thực hiện hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Theo quy định tại Điều 12 BLHS thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Điều luật cũng đã cụ thể các tội phạm mà người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, chủ thể của tội này là người từ đủ 14 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 76 BLHS năm 2015 về phạm vi chịu trách nhiệm của pháp nhân thương mại thì pháp nhân thương mại chỉ chịu TNHS với 32 tội danh. Cũng theo quy định này, pháp nhân thương mại không phải là chủ thể của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. 1.1.2.3. Mặt khách quan của tội phạm: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là những hành vi do người phạm tội thực hiện thông qua việc sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử. 12
- Việc sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử là dấu hiệu của tội phạm và là cơ sở để phân biệt tội phạm này với các tội xâm phạm sở hữu khác. So với Điều 226b BLHS năm 1999 quy định “người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện một trong các hành vi sau đây” thì Điều 290 BLHS năm 2015 nhà làm luật đã có cách quy định mới mang tính chất loại trừ về hành vi khách quan của tội phạm này, cụ thể: “người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này”. Như vậy, quy định này giúp cho việc áp dụng pháp luật được thống nhất, tránh trường hợp định sai tội danh giữa Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản với Tội trộm cắp tài sản (Điều 173) và Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174). Các hành vi khách quan của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015, bao gồm: - Thứ nhất, Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; Trong thực tiễn, các đối tượng phạm tội bằng nhiều cách có được thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân rồi từ đó thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, bằng các phương thức thực hiện như sau: + Dùng máy cà thẻ ghi trộm dãy số trên thẻ (Skimming); + Sử dụng phần mềm gián điệp để lấy thông tin gõ từ bàn phím; + Truy cập bất hợp pháp vào website, cơ sở dữ liệu để lấy cắp thông tin cá nhân, thông tin thẻ tín dụng; + Tạo ra một trang web ngân hàng hoặc trang web bán hàng giả rồi yêu cầu người dùng nhập user name, password trên trang web đó. Cách phổ biến nhất là lập ra các trang web ngân hàng giả, hoặc trang web bán hàng giả ở nước ngoài, sau đó 13
- gửi e-mail nặc danh với nội dung: Để đảm bảo an ninh, yêu cầu khách hàng đổi password hay khai lại những thông tin liên quan tài khoản ngay trên trang web, rồi từ đó lấy cắp được thông tin tài khoản; + Thu thập, mua bán thông tin thẻ tín dụng trên một số diễn đàn của hacker; + Lợi dụng vị trí công việc của mình (như: Nhân viên bảo trì hệ thống, an ninh mạng ) để truy cập trái phép và lấy cắp những thông tin đó; + Lợi dụng sự sơ hở của nhân viên ngân hàng và những thông tin của cá nhân, tổ chức rồi thực hiện việc rút tiền tại các ngân hàng một cách công khai mà ngân hàng không hề hay biết. Ví dụ: lấy chứng minh nhân dân của người khác rồi làm giả chữ ký của cá nhân và lấy các thông tin của cá nhân, tổ chức để hợp thức hóa rút tiền tại ngân hàng một cách bất hợp pháp. Vụ án điển hình: Nguyễn Anh Tuấn - nhân viên ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, lợi dụng sự hiểu biết nghiệp vụ ngân hàng và vị trí công tác của mình lấy cắp thông tin tài khoản của khách hàng để chiếm đoạt tài sản của các chi nhánh thuộc Vietcombank. Cụ thể, Tuấn đã dùng mã truy cập cá nhân được ngân hàng cấp cho mỗi nhân viên đột nhập vào nhiều tài khoản, trong đó có tài khoản Công ty TNHH Tiger Gold Co. Ltd (có trụ sở hoạt động ngoài lãnh thổ Việt Nam). Công ty này mở tài khoản giao dịch tại Sở Giao dịch Vietcombank do ông Đỗ Công Minh - Giám đốc Công ty làm chủ tài khoản, bà Nguyễn Hồng Xuân là người được ủy quyền chủ tài khoản. Sau khi vào mạng nội bộ của ngân hàng truy cập vào tài khoản này, Tuấn copy chữ ký của chủ tài khoản. Lúc này Công ty TNHH Tiger Gold Co.Ltd chưa đăng ký mẫu dấu và chữ ký kế toán công ty. Tuấn đã dùng giấy rút tiền theo mẫu in sẵn của Vietcombank, giả chữ ký của ông Đỗ Công Minh (chủ tài khoản) ký vào giấy rút tiền với nội dung “’Rút 15.000 USD, bán ngoại tệ cho ngân hàng lấy đồng Việt Nam”. Sau đó, Tuấn dùng chứng minh nhân dân mang tên Lê Khả Tuyên đến cửa giao dịch số 6 của Vietcombank Hải Dương để rút 240.105.000 đồng (tương đương 15.000 USD). Với thủ đoạn tương tự, Nguyễn Anh Tuấn tiếp tục giả chữ ký của ông Đỗ Công Minh ký vào giấy rút tiền với nội dung “Rút 50.113 USD, để thanh toán cho Công ty TNHH Flemig Co. Ltd”, rồi dùng chứng minh nhân dân 14