Luận văn Tội phạm và đấu tranh chống tội phạm trên biển theo luật biển quốc tế
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội phạm và đấu tranh chống tội phạm trên biển theo luật biển quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_toi_pham_va_dau_tranh_chong_toi_pham_tren_bien_theo.pdf
Nội dung text: Luận văn Tội phạm và đấu tranh chống tội phạm trên biển theo luật biển quốc tế
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHÙNG THỊ THU VÂN TỘI PHẠM VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG TỘI PHẠM TRÊN BIỂN THEO LUẬT BIỂN QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHÙNG THỊ THU VÂN TỘI PHẠM VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG TỘI PHẠM TRÊN BIỂN THEO LUẬT BIỂN QUỐC TẾ Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Bính HÀ NỘI - 2013 2
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 7 1.1. Khái lược về hoạt động tội phạm trên biển và đại dương 7 1.2. Tác động từ hoạt động tội phạm trên biển đến quan hệ và giao 22 thương quốc tế Chương 2: ĐẤU TRANH CHỐNG TỘI PHẠM TRÊN BIỂN THEO 26 LUẬT BIỂN QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM 2.1. Việc đảm bảo an ninh và phòng chống tội phạm trên vùng 26 biển nằm dưới quyền tài phán của quốc gia 2.1.1 Trong vùng nội thủy 26 2.1.2 Trong vùng lãnh hải 29 2.1.3. Trong vùng tiếp giáp lãnh hải 33 2.1.4. Trong vùng đặc quyền kinh tế 34 2.1.5. Trong thềm lục địa 38 2.2. Đấu tranh chống tội phạm trên vùng biển không nằm trong 41 vùng tài phán của quốc gia 2.2.1. Tội cướp biển 41 2.2.2. Tội buôn bán trái phép các chất ma túy, chất kích thích và các 50 chất hướng thần 2.2.3. Tội phát sóng trái phép từ biển cả 58 3
- 2.2.4. Tội chuyên chở nô lệ 59 2.2.5. Đưa người nhập cư hoặc đưa người ra nước ngoài trái phép 61 khiến một số người thành nạn nhân của nạn buôn người 2.2.6. Tội phá hoại hệ sinh thái biển 68 2.2.7. Tội phạm đe dọa an toàn hàng hải, an toàn trên các dàn khoan 76 2.2.8. Vận chuyển, buôn lậu hàng hóa bằng đường biển 80 2.2.9. Tội khủng bố trên biển 82 Chương 3: VIỆT NAM VÀ VIỆC THỰC THI CÁC BIỆN PHÁP ĐẤU 89 TRANH CHỐNG TỘI PHẠM TRÊN BIỂN 3.1. Tình hình gia nhập và bảo đảm thực thi các điều ước quốc tế 89 có liên quan đến đấu tranh chống tội phạm trên biển của Việt Nam 3.2. Tình hình hợp tác đấu tranh chống tội phạm trên biển tại 96 Việt Nam 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh 101 chống tội phạm trên biển đối với Việt Nam KẾT LUẬN 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111 4
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Xu thế hội nhập quốc tế đã và đang trở nên phổ biến trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội trong đó có sự hội nhập giữa các quốc gia về đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội nói chung và công tác phòng, chống tội phạm nói riêng. Đặt trong bối cảnh thế giới hiện nay, cùng với việc áp dụng các thành tựu về khoa học kỹ thuật, tình hình tội phạm ngày càng có xu hướng gia tăng về số lượng và mức độ nguy hiểm, được thực hiện dưới nhiều vỏ bọc, nhiều hình thức tinh vi khó phát hiện và xử lý nhất là các cuộc khủng bố đe dọa an ninh chính trị, đe dọa về sức khỏe tính mạng của công dân. Bên cạnh sự gia tăng về tội phạm ở trên đất liền, các hành vi phạm tội trên biển cũng diễn ra ngày càng nhiều và nguy hiểm đe dọa an toàn hàng hải đối với vùng biển cả nằm ngoài vùng tài phán của các quốc gia và trong vùng biển nằm dưới quyền tài phán của các quốc gia đặc biệt là các hành vi cướp có vũ trang, bắt giữ tàu và người trái phép. Điều đó đặt ra thách thức cho cộng đồng quốc tế và mọi quốc gia (bao gồm các quốc gia có biển, ven biển hoặc không có biển nhưng tiếp giáp biển hoặc có lợi ích trong vùng biển cả) phải cùng nhau hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên biển nhằm giữ vững hòa bình, an ninh hàng hải và trật tự trên biển. Hội nghị quốc tế về luật biển lần thứ nhất do Liên hợp quốc tổ chức tại Geneve (Thụy sĩ) năm 1958 đã thông qua 4 Công ước: Công ước về lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải; Công ước về biển cả; Công ước về thềm lục địa; Công ước về đánh cá và bảo vệ tài nguyên sinh vật ở biển cả. Hội nghị lần thứ ba về luật biển đã được Liên hợp quốc tổ chức từ năm 1973 đến năm 1982 và thông qua Công ước Luật biển năm 1982-UNCLOS. Công ước Luật biển năm 1982 là căn cứ pháp lý đặc biệt quan trọng trong phân định các vùng biển và 5
- quy chế pháp lý của đại dương. Trên cơ sở định chế của Công ước Luật biển năm 1982 các quốc gia ven biển và các quốc gia quần đảo được đảm bảo quyền và nghĩa vụ xác định các vùng biển theo quy định của Công ước, giải quyết các vùng chồng lấn, các vùng có quy chế pháp lý, giải quyết các xung đột giữa các quốc gia trong hoạt động ở biển và đại dương. Cùng với Công ước về biển cả năm 1958; Công ước Liên hợp quốc năm 1982 về luật biển, các điều từ Điều 14 đến Điều 21 và từ Điều 100 đến Điều 107 đã quy định về đấu tranh chống hải tặc trên biển - một trong những vấn nạn lớn của ngành hàng hải thế giới. Công ước năm 1958 về biển cả cũng quy định trách nhiệm về hợp tác quốc tế giữa các quốc gia, Công ước Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 đã cụ thể hóa các hành vi cướp biển. Ngoài ra, còn một số các văn bản quốc tế quan trọng khác có liên quan như: Công ước quốc tế về các quy tắc quốc tế cảnh báo va chạm tàu thuyền trên biển năm 1972; Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng con người trên biển năm 1974; Bộ luật quốc tế về an ninh tàu biển và cảng biển năm 2002; Công ước Roma năm 1988 về đấu tranh chống các hành vi trái luật xâm phạm an toàn, an ninh hàng hải; Nghị định thư năm 1988 về trấn áp các hành vi trái luật xâm phạm an toàn các công trình cố định trên thềm lục địa, các Nghị quyết, Khuyến nghị và các Hướng dẫn của Tổ chức hàng hải quốc tế (International Maritime Organization - IMO) v.v Các hành vi trái luật của bọn khủng bố liên quan đến hoạt động của tàu thuyền trên biển và ở đại dương trong những năm gần đây đã đe dọa an ninh của ngành thủy vận và cuộc sống của con người trên biển. Những tên khủng bố Chechen chiếm phà của Thổ Nhĩ Kỳ "Avrasia" năm 1996, vụ khủng bố nổ tàu khu vực Mỹ "Coul" năm 2000; vụ tàu chở dầu của Pháp "Limbua" năm 2002; các vụ cướp biển của bọn hải tặc Somalia (như vụ bắt giữ tàu chở vũ khí MV Faina của Ucraine; và tàu chở dầu siêu lớn Sirius Star của Saudi Arabia) trong năm 2008 ở vùng vịnh Aden đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của khu vực. Các sự kiện đó đòi hỏi phải có sự quan tâm đúng mức của Liên 6
- hợp quốc, mặc dù Hội đồng Bảo an đã kịp thời thông qua 4 Nghị quyết cho phép tấn công bọn hải tặc. Trên thực tế NATO, Hoa Kỳ, Trung Quốc và các quốc gia châu Âu đã trực tiếp tham gia đấu tranh chống bon cướp biển tại khu vực này. Thông qua việc nghiên cứu các quy định của Luật biển quốc tế, các quốc gia ký kết phê chuẩn công ước nâng cao trách nhiệm của mình trong việc chống tội phạm trên biển và hợp tác quốc tế đảm bảo tài nguyên sinh vật biển và đảm bảo an ninh trên biển. Các quốc gia chủ động đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ chủ quyền an ninh lãnh thổ đối với vùng biển nằm trong vùng tài phán của quốc gia. Đồng thời tạo đà cho sự giao lưu, ký kết các công ước, nghị định thư, hiệp định tương trợ tư pháp liên quan đến tội phạm nói chung và tội phạm trên biển nói riêng. Thế kỷ XXI được coi là thế kỷ hướng ra biển. Các quốc gia hướng tới việc phân định chủ quyền quốc gia trên biển, giải quyết các tranh chấp liên quan và đẩy mạnh hợp tác về an ninh biển. Để đấu tranh với các loại tội phạm quốc tế có hiệu quả thật sự, đòi hỏi mọi chủ thể của luật quốc tế phải thượng tôn pháp luật, tự nguyện tuân thủ các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật quốc tế, tham gia ký kết các điều ước mới, và quan trọng hơn là cần có sự hợp tác quốc tế để tuyên chiến với loại tội phạm này nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Là một học viên chuyên ngành luật quốc tế, tôi nhận thấy đây là một đề tài mới mẻ, quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao, do đó tôi đã chọn đề tài "Tội phạm và đấu tranh chống tội phạm trên biển theo Luật biển quốc tế" để nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp chuyên ngành luật quốc tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến vấn đề biển, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu và bài viết về các nội dung cơ bản của Công ước Luật biển năm 1982, vấn đề phân định biển, vấn đề khai thác chung trên biển Tuy nhiên, riêng đối với lĩnh 7
- vực "tội phạm và đấu tranh chống tội phạm trên biển" đến nay có rất ít đề tài nghiên cứu có liên quan. Có thể kể ra một số nghiên cứu sau: "Một số điều ước quốc tế liên quan đến việc bảo đảm an ninh và phòng, chống tội phạm trên biển" của tác giả Nguyễn Trường Giang; "Khủng bố dưới góc nhìn của các nhà nghiên cứu" và "Vai trò của Liên hợp quốc trong đấu tranh chống khủng bố" của Tiến sĩ Lê văn Bính - Giảng viên Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, trong đó có những nội dung liên quan đến tội phạm khủng bố nói chung và khủng bố trên biển; "Cơ chế giải quyết tranh chấp trên biển theo Công ước Luật biển 1982" của PGS.TS Nguyễn Bá Diến và ThS. Nguyễn Hùng Cường, Giảng viên Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Luật học 25(2009) cũng có những nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu; "Trấn áp nạn cướp biển ở biển Đông, hướng tới thiết lập một quan hệ hợp tác mới" của Giáo sư ZouKeyuan trường Đại học Luật Lancashire (Anh). Nhìn chung, các tác giả đã đi sâu phân tích đánh giá các khía cạnh liên quan đến tội phạm trên biển nhưng chủ yếu là tội cướp biển, khủng bố trên biển, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ về các hành vi tội phạm và đấu tranh chống tội phạm trên biển theo Luật biển quốc tế. 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài Đây là một đề tài mới, đến nay rất ít đề tài có cùng nội dung được công bố. Tính mới của của đề tài là khai thác, phân tích, làm rõ các quy định của các văn bản quốc tế liên quan đến đấu tranh chống tội phạm trên biển, Công ước năm 1958 về biển cả, Công ước Luật biển 1982 đồng thời viện dẫn, đối chiếu các tài liệu khác có liên quan từ đó đánh giá tầm quan trọng của vấn đề đấu tranh chống tội phạm trên biển, vấn đề hợp tác giữa các quốc gia và có các kiến nghị nhằm bổ sung, sửa đổi cho các văn bản này. Thành công của đề tài này có thể làm phong phú thêm kho tàng lý luận cho luật quốc tế ở Việt Nam, cũng như nguồn tài liệu tham khảo cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của các cơ sở đào tạo luật học nói chung và luật quốc tế nói riêng. 8
- 4. Mục tiêu, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu: Luận văn tập trung đi sâu phân tích các quy định có liên quan trong Công ước Luật biển 1982 đồng thời cũng viện dẫn, đối chiếu các văn bản pháp luật quốc tế khác về biển có liên quan đến việc đấu tranh chống tội phạm trên biển, cũng như bảo đảm an toàn, an ninh trên biển Đối tượng nghiên cứu: Công ước Luật biển năm 1982 (chủ yếu), bốn Công ước Geneve về biển năm 1958 và các văn bản pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia có liên quan, các thông tin, tài liệu trên truyền hình, báo, đài, các ấn phẩm, bài viết đã được đăng tải trên các kênh thông tin chính thống và các tạp chí chuyên ngành. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về các hành vi phạm tội trên biển cả và các vùng biển nằm trong vùng quyền tài phán quốc gia. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng bốn phương pháp nghiên cứu chủ yếu gồm: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp và phương pháp so sánh Luận văn đã kết hợp bốn phương pháp trên để thống kê, tổng hợp, phân tích các quy định về các hành vi phạm tội và đấu tranh chống tội phạm trên biển trong các điều ước quốc tế đưa ra những đánh giá cụ thể về thực trạng quy phạm điều ước về các loại tội này, có sự so sánh giữa các quy định trong Luật Biển quốc tế với các điều ước quốc tế có liên quan. Việc phân tích các quy định đối với từng loại tội phạm trên biển theo điều ước quốc tế đều lồng ghép viện dẫn số liệu thống kê cụ thể về tình hình tội phạm trên biển quốc tế và phân tích, trích dẫn các quy định tương ứng có liên quan của hệ thống pháp luật Việt Nam. Đồng thời, luận văn cũng phân tích, đánh giá về tình hình gia nhập và thực thi các điều ước quốc tế đặc biệt là công tác "nội luật hóa" các quy phạm pháp luật quốc gia và những thành tích đã đạt được trong quá trình hợp tác 9
- đấu tranh chống tội phạm trên biển trong thời gian qua, những khó khăn và đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian tới. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung. Chương 2: Đấu tranh chống tội phạm trên biển theo Luật biển quốc tế và pháp luật Việt Nam. Chương 3: Việt Nam và việc thực thi các biện pháp đấu tranh chống tội phạm trên biển. 10
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 1.1. KHÁI LƢỢC VỀ HOẠT ĐỘNG TỘI PHẠM TRÊN BIỂN VÀ ĐẠI DƢƠNG Luật quốc tế là tổng thể những nguyên tắc và quy phạm pháp lý do các quốc gia và các chủ thể khác thỏa thuận xây dựng nên nhằm điều chỉnh quan hệ phát sinh trong đời sống quốc tế. Luật quốc tế là hệ thống pháp luật tồn tại song song và độc lập với hệ thống pháp luật của các quốc gia, có chức năng điều chỉnh các quan hệ phát sinh về an ninh, chính trị, thương mại, giáo dục, y tế, môi trường trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các chủ thể của luật quốc tế (gồm quốc gia - chủ thể cơ bản, tổ chức liên chính phủ- chủ thể hạn chế, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết -chủ thể đặc biệt). Đặc trưng cơ bản của Luật quốc tế là không có cơ quan lập pháp quốc tế để điều chỉnh các quan hệ quốc tế, không có quốc gia nào có thẩm quyền đặt ra các quy tắc xử sự để bắt buộc các quốc gia khác phải tuân thủ và thực hiện. Tất cả các quy phạm pháp luật quốc tế được các chủ thể của luật quốc tế tự nguyện chấp nhận thông qua hành vi ký kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế, hoặc thừa nhận các quy phạm tập quán quốc tế đã tồn tại trong thực tiễn để điều chỉnh các quan hệ quốc tế phát sinh giữa họ với nhau. Hệ thống pháp luật quốc tế cũng không tồn tại một cơ quan, tổ chức cũng như quốc gia nào có thể đơn phương xác định giá trị đẳng cấp và thứ bậc của các loại nguồn luật quốc tế. Quan hệ pháp luật quốc tế được xây dựng và tồn tại trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia do vậy, cũng như cơ chế xây dựng luật quốc tế, cơ chế thực thi, tuân thủ pháp luật quốc tế mang tính chất tự điều chỉnh với những đảm bảo về pháp lý do các chủ thể luật quốc tế thỏa thuận tạo ra. Chính vì vậy hệ thống pháp luật quốc tế không tồn tại một bộ máy "hành pháp" và "tư pháp" chung, đứng trên các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế để tổ chức thực hiện hoặc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thực thi 11
- luật quốc tế mà chính lợi ích thiết thực, sống còn và nhu cầu hợp tác cùng phát triển của các quốc gia đã hình thành ý thức tự tuân thủ và thực thi pháp luật quốc tế của các chủ thể. Luật quốc tế chỉ có thể thực hiện một cách thống nhất và có hiệu quả khi các chủ thể của luật quốc tế thực thi và tuân thủ một cách tự nguyện. Trong trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế, căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm của chủ thể mà các biện pháp cưỡng chế của luật quốc tế sẽ được áp dụng một cách tương xứng. Biện pháp cưỡng chế trong luật quốc tế có thể là các biện pháp cưỡng chế phi vũ trang như đình chỉ một phần hoặc toàn bộ quan hệ kinh tế, đường sắt, hàng hải, hàng không, bưu chính, ngoại giao và biện pháp dùng sức mạnh vũ trang (sử dụng vũ lực) nếu xét thấy những biện pháp phi vũ trang là không thích hợp hoặc đã tỏ ra không thích hợp. Biện pháp cưỡng chế vũ trang chỉ do Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc quyết định trong trường hợp đặc biệt cần thiết nhằm mục đích bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế và được cụ thể hóa tại Hiến chương Liên hợp quốc. Khi quyết định áp dụng các biện pháp nhằm bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc chỉ nhân danh các quốc gia, thay mặt các quốc gia thành viên Liên hợp quốc chứ không phải nhân danh Hội đồng bảo an hay bất cứ quốc gia thành viên nào của Hội đồng bảo an vì đây không phải là cơ quan "tối cao" đứng trên các quốc gia để áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành luật quốc tế đối với các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Ngày nay, một nhân tố quan trọng góp phần bảo đảm thực hiện một cách có hiệu quả luật quốc tế đó là sức mạnh của dư luận tiến bộ và sự đấu tranh của nhân dân trên toàn thế giới vì hòa bình dân chủ, tiến bộ và văn minh. Mặc dù không mang tính quyết định nhưng dư luận tiến bộ thế giới sẽ có tác động và sức ép chính trị nhất định đối với các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế trong việc thực thi, tuân thủ luật quốc tế một cách triệt để hơn. Trong khoa học luật quốc tế, quy phạm pháp luật quốc tế được hiểu là những quy tắc xử sự do các chủ thể của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên hoặc thừa nhận giá trị pháp lý của chúng để điều chỉnh các quan hệ quốc tế. 12
- Quy phạm pháp luật quốc tế là công cụ cơ bản và quan trọng nhất có chức năng điều chỉnh các quan hệ diễn ra giữa các chủ thể luật quốc tế và là hạt nhân trong cấu trúc của hệ thống pháp luật quốc tế. Khác với các quy phạm pháp luật của mỗi quốc gia do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nước- quan hệ đối nội, hệ thống quy phạm pháp luật quốc tế do các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận thừa nhận hoặc xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, là công cụ điều chỉnh các quan hệ vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ và pháp luật của mỗi quốc gia - quan hệ đối ngoại, quan hệ quốc tế. Quy phạm pháp luật quốc tế là sản phẩm thể hiện sự thỏa thuận về ý chí, lợi ích của các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Nội dung của quy phạm pháp luật quốc tế luôn chứa đựng các quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế của các chủ thể luật quốc tế với nhau. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng, nội dung của các quy phạm pháp luật quốc tế là cơ sở pháp lý để đánh giá tính pháp lý của các hành vi của các chủ thể khác khi tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế. Mọi hành vi vi phạm các quy định của pháp luật quốc tế là cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với các chủ thể luật quốc tế. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế chính là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm và có giá trị bắt buộc chung (juscogens) đối với mọi chủ thể của luật quốc tế và được áp dụng trong mọi điều kiện, hoàn cảnh và trong mọi lĩnh vực của quan hệ quốc tế. Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thể hiện tập trung nhất những tư tưởng chính trị pháp lý và cách xử sự của các chủ thể của luật quốc tế trong quá trình thiết lập và thực hiện các quan hệ quốc tế đồng thời cũng là những tư tưởng chỉ đạo cho quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật quốc tế. Luật quốc tế hiện đại thừa nhận các nguyên tắc cơ bản sau đây: - Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia - Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực 13
- - Nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế - Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác - Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau - Nguyên tắc dân tộc tự quyết. Hiện nay, các ngành luật độc lập của pháp luật quốc tế như Luật ngoại giao và lãnh sự, Luật hàng không dân dụng quốc tế, Luật môi trường quốc tế, Luật nhân đạo quốc tế, Luật kinh tế quốc tế và các nguyên tắc, các quy phạm tiến bộ trước đó ngày càng được củng cố và hoàn thiện có tính kế thừa để điều chỉnh các quan hệ quốc tế vì hòa bình, an ninh quốc tế và tiến bộ xã hội. Trong các ngành luật trên cũng cần kể đến sự phát triển không ngừng của ngành Luật biển quốc tế. Công ước của Liên Hợp quốc về luật biển năm 1982-UNCLOS (gồm 17 phần, 320 điều và 9 phụ lục) là kết quả đấu tranh gay go để giải quyết nhiều loại mâu thuẫn phức tạp khác nhau về lợi ích giữa nhiều loại quốc gia nhưng chủ yếu là cuộc đấu tranh giữa các nước độc lập dân tộc đang phát triển được các nước xã hội chủ nghĩa ủng hộ nhằm chống lại những âm mưu và hành động xấu xa của các nước đế quốc và tư bản chủ nghĩa trên biển và đại dương. Việc thông qua Công ước là một bước quan trọng trên con đường xây dựng một chế độ pháp lý toàn diện của đại dương thế giới, là một đóng góp quan trọng vào việc gìn giữ hòa bình, công lý và tiến bộ cho tất cả các dân tộc trên thế giới đặc biệt là những điều khoản liên quan đến việc thiết lập chế độ pháp lý đối với biển cả và đại dương đã tạo điều kiện cho việc sử dụng công bằng và có hiệu quả những nguồn tài nguyên của chúng, việc liên lạc quốc tế, công tác nghiên cứu, bảo vệ môi trường biển cũng như bảo vệ tài nguyên sinh vật biển. Công ước cũng thể hiện sự hợp tác quốc tế nhiều mặt trên cơ sở bình đẳng tôn trọng chủ quyền và cùng có lợi giữa các quốc gia trên các vùng biển khác nhau nhằm sử dụng biển và các tài nguyên biển vì lợi ích chính đáng của mọi quốc gia và vì lợi ích của hòa bình và an ninh quốc tế. 14
- Bên cạnh đó, các quốc gia công nhận các nguyên tắc cơ bản của Luật biển quốc tế bao gồm: nguyên tắc tự do biển cả, nguyên tắc đất thống trị biển, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc sử dụng biển cả vì mục đích hòa bình, nguyên tắc gìn giữ di sản chung của nhân loại, nguyên tắc sử dụng hợp lý và bảo vệ sinh vật sống trên biển, nguyên tắc bảo vệ môi trường biển. Trong quá trình thực thi và tuân thủ pháp luật quốc tế nói chung cũng như quá trình thiết lập và thực hiện các quan hệ pháp lý quốc tế nói riêng, bên cạnh sự tuân thủ, thực hiện nghiêm chỉnh các quy tắc ứng xử của các chủ thể luật quốc tế thì hiện tượng chủ thể luật quốc tế có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế là không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, muốn xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế thì cần phải xác định các chủ thể đó có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế hay không. Xét về phương diện khoa học luật quốc tế, vi phạm pháp luật quốc tế là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp luật quốc tế do chủ thể của luật quốc tế thực hiện, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trong quan hệ quốc tế và xâm hại đến quan hệ quốc tế được luật quốc tế xác lập và bảo vệ. Vi phạm pháp luật quốc tế là sự kiện pháp lý quốc tế và là cơ sở truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế. Xét về mặt lý luận chung: Tội phạm là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền với Nhà nước và giai cấp nên khái niệm tội phạm cũng luôn vận động và biến đổi cùng với những vận động của xã hội. Tội phạm là một hiện tượng xã hội mang tính chất hình sự - pháp lý, có nguồn gốc và nguyên nhân từ xã hội bởi thế nó chịu ảnh hưởng trực tiếp của những nhân tố thuộc tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Sự thay đổi của tồn tại xã hội và ý thức xã hội sẽ làm cho tình hình tội phạm biến đổi cả về tình trạng lẫn động thái. Dưới góc độ là một hiện tượng xã hội, tội phạm chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự tác động của ý thức đạo đức (là sự thể hiện những nguyên tắc, những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh, đánh giá các hành vi ứng xử giữa con người với con người, con người 15
- với xã hội). Bên cạnh đó, tội phạm cũng là một hiện tượng xã hội mang tính chất hình sự - pháp lý nên nó chịu sự tác động sâu sắc của ý thức pháp quyền (thể hiện ý chí của giai cấp thống trị xã hội, được thể hiện bằng pháp luật, nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong cộng đồng xã hội nhất định). Xét trong tổng thể các quy định của Luật quốc tế hiện đại thì tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật quốc tế do đó tội phạm theo Luật quốc tế mang đầy đủ các đặc điểm của vi phạm pháp luật quốc tế và được cấu thành bởi ba yếu tố chủ thể, mặt khách quan và khách thể (khác với vi phạm pháp luật thông thường gồm 4 yếu tố: chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan), cụ thể: - Chủ thể của vi phạm pháp luật quốc tế: chính là các chủ thể của luật quốc tế, trước tiên và chủ yếu là hành vi vi phạm pháp luật quốc tế của các quốc gia. Bởi lẽ quốc gia là chủ thể cơ bản và chủ yếu của luật quốc tế đồng thời là chủ thể tham gia vào tất cả các quan hệ pháp luật quốc tế. Bên cạnh quốc gia, các tổ chức quốc tế liên chính phủ, các vùng lãnh thổ có quy chế pháp lý đặc biệt có tư cách chủ thể luật quốc tế như Đài Loan, Hồng Kông, Vatican và các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết cũng là chủ thể của tội phạm quốc tế nếu các chủ thể này có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế. - Mặt khách quan của vi phạm pháp luật quốc tế: bao gồm hành vi khách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Hành vi vi phạm pháp luật quốc tế được thực hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động, trái luật quốc tế và gây thiệt hại cho các chủ thể khác hoặc xâm hại đến các quan hệ quốc tế xác lập và bảo vệ như quyền con người, môi trường, y tế, tàng trữ vũ khí . Để xác định chính xác trách nhiệm pháp lý quốc tế cần thiết phải xác định hậu quả (thiệt hại) mà hành vi trái pháp luật quốc tế của các chủ thể đã gây ra trên thực tế cho các chủ thể khác hoặc cộng đồng quốc tế cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật quốc tế và hậu 16
- quả do hành vi đó gây ra (có thể là thiệt hại vật chất hoặc tinh thần). Để truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với chủ thể luật quốc tế, vấn đề đặc biệt quan trọng là phải xác định có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả xảy ra hay không vì đây là cơ sở để xác định chính xác chủ thể nào gây thiệt hại và là căn cứ để xác định trách nhiệm pháp lý tương ứng. - Khách thể của vi phạm pháp luật quốc tế: là những quan hệ quốc tế được luật quốc tế xác lập và bảo vệ nhưng đã bị các hành vi vi phạm pháp luật quốc tế xâm hại. Không đặt ra yếu tố lỗi khi xác định hành vi vi phạm pháp luật quốc tế vì lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, không xác định được trạng thái tâm lý của các quốc gia và các chủ thể của luật quốc tế. Trên thực tế tội phạm quốc tế khác với hành vi thiếu thân thiện trong quan hệ quốc tế giữa các chủ thể của luật quốc tế. Tội phạm quốc tế luôn là hành vi trái pháp luật do chủ thể thực hiện hoặc không thực hiện đúng các nghĩa vụ pháp lý quốc tế gây thiệt hại cho chủ thể khác hoặc cộng đồng quốc tế thì hành vi thiếu thân thiện không phải là hành vi vi phạm pháp luật quốc tế nhưng gây thiệt hại cho chủ thể khác của luật quốc tế (có thể là hành vi thiếu nhiệt tình trong việc cứu hộ, cứu nạn hoặc hành vi hạn chế của người nước ngoài trên lãnh thổ nước mình, quốc hữu hóa tài sản của cá nhân tổ chức nước ngoài gây thiệt hại cho quốc gia, tổ chức, cá nhân nước ngoài). Có thể phân loại tội phạm quốc tế theo tính chất và mức độ nguy hiểm (được cụ thể hóa tại Điều 6 Quy chế Tòa án Nuremberg và theo Quy chế của Tòa Hình sự quốc tế ICC 1998, Quy chế Roma ngày 17/7/1998), theo lĩnh vực vi phạm (kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, môi trường ), theo chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật quốc tế (quốc gia, tổ chức quốc tế, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết). Theo Điều 6 Quy chế Tòa án Nuremberg quy định 03 nhóm tội phạm quốc tế sau đây: 17
- - Tội phạm chống hòa bình với các hành vi: âm mưu, chuẩn bị, tuyên truyền và tiến hành chiến tranh xâm lược hoặc chiến tranh vi phạm các điều ước quốc tế, các thỏa thuận và đảm bảo quốc tế. - Tội phạm chống lại loài người với các hành vi: diệt chủng, phân biệt chủng tộc, giết hại, nô dịch, đày ải, hủy diệt và các hành vi dã man khác đối với con người, vi phạm nghiêm trọng các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế về quyền con người. - Tội phạm chiến tranh là các hành vi chà đạp lên các tập quán quốc tế và quy phạm pháp lý quốc tế trong chiến tranh với các hành vi: giết hại tù binh, con tin, phá hủy thành phố, làng mạc Trong quy chế Roma, cũng liệt kê các hành vi phạm tội quốc tế theo 3 nhóm tội phạm trong đó: - Tội diệt chủng là hành vi thực hiện nhằm tiêu diệt toàn bộ hay một nhóm dân tộc, sắc tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo (giết các thành viên của nhóm, gây tổn hại nghiêm trọng hoặc thể xác hoặc tinh thần cho các thành viên của nhóm, áp đặt các biện pháp triệt sản trong nhóm ); - Tội chống nhân loại là hành vi thực hiện như một phần của sự tấn công có hệ thống hoặc trên diện rộng nhằm vào bất kỳ một cộng đồng dân thường nào với nhận biết về sự tấn công đó (giết người, hủy diệt, bắt làm nô lệ tình dục, phân biệt chủng tộc ); - Tội phạm chiến tranh là những hành vi vi phạm nghiêm trọng nhất chống lại loài người hay tài sản được bảo hộ theo Luật nhân đạo quốc tế (cố ý giết người, bắt giữ con tin, tra tấn đối xử vô nhân đạo .). Trách nhiệm pháp lý quốc tế là một trong những chế định cơ bản của Luật quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia và các chủ thể khác của pháp luật quốc tế khi có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế (hoặc hành vi luật quốc tế không cấm) gây thiệt hại cho chủ thể khác hoặc cho cộng đồng quốc tế. Trách nhiệm pháp lý quốc tế có thể được hiểu theo hai nghĩa khác nhau: 18
- - Theo nghĩa tích cực: trách nhiệm pháp lý là nghĩa vụ của pháp lý của một chủ thể phải thực hiện một hành vi, hành động nào đó theo yêu cầu của pháp luật quốc tế. - Theo nghĩa tiêu cực: trách nhiệm pháp lý chính là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu do chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Theo đó, chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế có nghĩa vụ loại bỏ, khắc phục thiệt hại đã gây ra hoặc một số yêu cầu của chủ thể bị thiệt hại kể cả việc gánh chịu những biện pháp trả đũa hoặc trừng phạt do chủ thể bị thiệt hại hoặc cộng đồng quốc tế thực hiện trên cơ sở luật quốc tế. Như vậy, có thể thấy: trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh khi chủ thể quốc tế đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật quốc tế và cả những hành vi mà pháp luật quốc tế không cấm mà không cần yếu tố lỗi. Trách nhiệm pháp lý quốc tế chỉ bao gồm các hình thức thực hiện như bồi thường thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần chứ không bao gồm hình phạt (khác với trách nhiệm pháp lý quốc gia bao gồm cả bồi thường và sự trừng phạt). Trách nhiệm pháp lý quốc tế là trách nhiệm giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau. Trách nhiệm pháp lý quốc tế là cơ sở đảm bảo cho việc thực thi và tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật quốc tế, đảm bảo cho việc bảo vệ khôi phục các quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của các chủ thể bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật kể cả hành vi luật không cấm của chủ thể vi phạm gây ra. Đây chính là "công cụ" pháp lý để các chủ thể luật quốc tế đảm bảo sự thực thi và tuân thủ pháp luật quốc tế. Bên cạnh đó, trách nhiệm pháp lý quốc tế là cơ sở để giải quyết các quan hệ pháp luật pháp lý quốc tế phát sinh giữa các chủ thể của luật quốc tế khi xảy ra sự kiện pháp lý xâm hại đến lợi ích chính đáng của chủ thể luật quốc tế hoặc lợi ích của cộng đồng quốc tế và là cơ sở để chủ thể bị thiệt hại và cộng đồng quốc tế áp dụng các biện pháp truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế. 19