Luận văn Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_toi_huy_hoai_tai_san_tu_thuc_tien_tinh_dong_nai.pdf
Nội dung text: Luận văn Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NHUNG TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NHUNG TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG Hà Nội, năm 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ Luật học “Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của cô PGS.TS. Đỗ Thị Phượng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Nhung
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN 7 1.1. Những vấn đề lý luận về tội hủy hoại tài sản 7 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hủy hoại tài sản 17 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN TẠI TỈNH ĐỒNG NAI 33 2.1. Tình hình xử lý tội phạm tại tỉnh Đồng Nai 33 2.2. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về tội hủy hoại tài sản tại tỉnh Đồng Nai 34 2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong việc áp dụng quy định về tội hủy hoại tài sản 41 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN 59 3.1. Yêu cầu áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội hủy hoại tài sản 59 3.2. Giải pháp đảm bảo áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội hủy hoại tài sản 63 KẾT LUẬN 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật Hình sự Bộ CA: Bộ Công an Bộ TP: Bộ Tư pháp NĐ: Nghị định NĐ-CP: Nghị định Chính phủ NXB: Nhà xuất bản TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TNHS: Trách nhiệm hình sự TTLT: Thông tư liên tịch VKSND: Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Tình hình về một số tội danh đã xét xử trong giai đoạn 2016 - 2020 344 Bảng 2.2. Tội hủy hoại tài sản được xét xử theo các khoản của Điều 143 BLHS năm 1999 từ năm 2016 đến năm 2017 của tỉnh Đồng Nai 37 Bảng 2.3. Tội hủy hoại tài sản được xét xử theo các khoản của Điều 178 BLHS năm 2015 từ năm 2018 đến năm 2020 của tỉnh Đồng Nai 37 Bảng 2.4. Hình phạt áp dụng cho Tội hủy hoại tài sản 39 Bảng 2.5. Hình phạt áp dụng cho Tội hủy hoại tài sản 40 .
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước từ khi Đảng lãnh đạo nhân dân ta giành được chính quyền, pháp luật luôn là công cụ sắc bén để bảo vệ thành quả cách mạng đã đạt được. Hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ luật Hình sự có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là bảo vệ các quan hệ xã hội phát sinh trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, việc nghiên cứu về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự là rất cần thiết. Cùng với các ngành luật khác, pháp luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức và Nhà nước thông qua việc quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu bị coi là tội phạm và quy định các mức hình phạt tương ứng. Bộ luật Hình sự quy định các tội xâm phạm sở hữu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Mặc dù các cơ quan tư pháp hình sự trong quá trình áp dụng quy định của các điều luật thuộc Chương. Các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật Hình sự nhìn chung là thuận lợi nên kết quả điều tra, truy tố, xét xử nhóm tội xâm phạm sở hữu trong thời gian qua từng bước được nâng cao, bảo vệ quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân, góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phục vụ nhiệm vụ bảo vệ đất nước nhưng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm vẫn còn nhiều hạn chế trong khi đó diễn biến của tình hình tội phạm nói chung cũng như các tội xâm phạm sở hữu nói riêng hết sức phức tạp và đang có xu hướng gia tăng. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung các quy định về tội hủy hoại tài sản (Điều 178 BLHS) cho phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về tội hủy hoại tài 1
- sản còn tồn tại những vướng mắc, bất cập, hạn chế, sai sót dẫn tới làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đặc biệt là việc phân định ranh giới giữa tội hủy hoại tài sản với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt chưa được rõ ràng. Đồng thời, còn nhiều quan điểm khác nhau trong việc định tội danh, quyết định hình phạt đối với Tội hủy hoại tài sản khi áp dụng các quy định của pháp luật hình sự; vẫn còn tồn tại bất cập trong việc xác định giá trị tài sản bị hủy hoại. Do đó, tác giả đã quyết định chọn đề tài: “Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong khoa học pháp lý hình sự, việc nghiên cứu Tội hủy hoại tài sản thực sự được các nhà khoa học và các cán bộ làm công tác thực tiễn quan tâm. - Ở cấp độ giáo trình: Các giáo trình Luật hình sự chỉ đề cập, bình luận về tội hủy hoại tài sản một cách khái quát như: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, “Chương XX-Các tội xâm phạm sở hữu” Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Tập II) do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên), “Chương XX-Các tội xâm phạm sở hữu”, TS. Trần Minh Hưởng (chủ biên), Chương XIV-Các tội xâm phạm sở hữu, Trong sách: Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam, phần các tội phạm, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2013; - Ở cấp độ bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, có cuốn sách của ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm), Tập II- "Các tội xâm phạm sở hữu", Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tái bản 2010; Bình luận khoa học của PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa và TS. Phan Anh Tuấn (đồng chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Chương XIII- "Những điểm mới về các tội xâm phạm sở hữu", Nxb Hồng Đức, 2017; Bình luận khoa học của TS. 2
- Trần Văn Biên và TS. Đinh Thế Hưng (đồng chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm), Chương XVI - "Các tội xâm phạm sở hữu", Nxb Thế Giới, 2017; PGS.TS. Trần Văn Luyện, PGS.TS. Phùng Thế Vắc, TS. Lê Văn Thư và tập thể tác giả, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 (phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2017; trong đó có bình luận tội hủy hoại tài sản. - Ở cấp độ luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: Hiện nay chưa có nhiều luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ luật học nghiên cứu về tội phạm này. Chủ yếu tội phạm này được nghiên cứu chung với các tội phạm khác trong luận án nghiên cứu về các tội xâm phạm sở hữu như "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu" của tác giả Nguyễn Ngọc Chí, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 2000; “Định tội danh tội hủy hoại tài sản theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Thanh Hòa, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2019. - Ở cấp độ các bài báo cáo khoa học: có một số bài viết đơn lẻ đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến tội hủy hoại tài sản và nhóm tội xâm phạm sở hữu, như: Tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, Tạp chí Tòa án nhân dân số 17/2007 của ThS. Mai Bộ; Những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng Điều 178 BLHS về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử (19/12/2020) của tác giả Nguyễn Tất Trình (Tòa án quân sự khu vực I, quân khu 5); Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo BLHS năm 2015, Tòa án Kiểm sát online (04/5/2018) của Ths Vũ Thị Hiền, Các công trình trên đã nghiên cứu về các dấu hiệu pháp lý của tội hủy hoại tài sản như khái niệm, khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm; đồng thời nghiên cứu về đường lối xử lý, vấn đề TNHS đối với người phạm tội hủy hoại tài sản. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu nghiên cứu các quy định về tội hủy hoại tài sản theo quy định của BLHS năm 1999 mà chưa nghiên cứu các quy định của BLHS năm 2015 về tội phạm 3
- này. Đặc biệt là chưa tập trung nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu về tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn ở địa bàn cụ thể là tỉnh Đồng Nai để tìm ra những vướng mắc, bất cập và đưa ra những đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng đúng các quy định của BLHS năm 2015 về tội hủy hoại tài sản. Đây là nội dung mà tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu trong phạm vi luận văn này. 3. Mục đích, đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến pháp luật hình sự Việt Nam, áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hủy hoại tài sản và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đồng Nai để đưa ra những đề xuất, kiến nghị một số giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội phạm này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: - Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật về tội hủy hoại tài sản, phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác có liên quan. - Đánh giá các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hủy hoại tài sản, chỉ ra những khó khăn, hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó. - Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hủy hoại tài sản. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định Bộ luật Hình sự và các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về tội hủy hoại tài sản và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tội hủy hoại tài sản. 4
- 4.2 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về không gian: Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi lý luận chuyên ngành Luật hình sự về: “Tội hủy hoại tài sản” thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam trong xét xử tại tỉnh Đồng Nai. Phạm vi về thời gian: luận văn nghiên cứu thời gian từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn nghiên cứu dựa vào cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nước về áp dụng pháp luật hình sự trong công tác phòng, chống và đấu tranh với tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp của khoa học luật hình sự, thống kê, khoa học lịch sử, so sánh kết hợp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp chuyên gia, phương pháp quy nạp, diễn dịch, dự báo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận chuyên ngành luật hình sự về một tội phạm cụ thể. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa trong thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm này; có thể dùng làm tài liệu tham khảo để học tập, nghiên cứu và giảng dạy. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: 5
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hủy hoại tài sản Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hủy hoại tài sản tại tỉnh Đồng Nai Chương 3: Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hủy hoại tài sản 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN 1.1. Những vấn đề lý luận về tội hủy hoại tài sản 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội hủy hoại tài sản Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ thì “Hủy hoại” là động từ ghép, có nghĩa là: “làm cho hư hỏng đi, phá đi, cho tan nát” [34, tr.208]. Hủy hoại tài sản được thực hiện bằng các phương pháp, cách thức khác nhau làm cho tài sản bị biến dạng hoặc làm cho tài sản mất hẳn không còn giá trị sử dụng như hiện trạng ban đầu. Hình thức thực hiện hành vi hủy hoại tài sản có thể được thực hiện dưới dạng hành động phạm tội như đập phá tài sản, đốt tài sản, nhưng cũng có thể thực hiện dưới dạng không hành động phạm tội như cố ý không tắt máy, không ngắt điện khi có sự cố dẫn đến máy hư hỏng hoàn toàn . Chương XVI Các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015), về số lượng các điều luật (gồm 13 Điều luật) không thay đổi so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong BLHS năm 2015 từ Điều 168 BLHS đến Điều 180 BLHS. Tội phạm là một trong những chế định quan trọng được nghiên cứu trong pháp luật hình sự. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tội phạm: Theo GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS.Lê Thị Sơn thì: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt” [10, tr.259]. Đồng quan điểm trên, trong cuốn giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, theo định nghĩa nội dung về tội phạm, thì “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt” [30,tr.60]. 7
- Theo TS.Trịnh Tiến Việt thì “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến một hoặc nhiều quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ” [36, tr.2]. Dựa vào các định nghĩa về tội phạm nêu trên có thể đưa ra khái niệm tội hủy hoại tài sản như sau: “Tội hủy hoại tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, được thực hiện một cách cố ý như đốt, đập phá tài sản xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản của chủ sở hữu và theo quy định phải bị xử lý hình sự”. Từ khái niệm tội hủy hoại tài sản, tội phạm này có 4 đặc điểm, đó là: - Thứ nhất, về tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội hủy hoại tài sản được hiểu là những hành vi cố ý đốt, đập, phá tài sản trái phép của chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp tài sản, xâm phạm tới quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt) của chủ tài sản, đây là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Hành vi hủy hoại tài sản bị coi là tội phạm trước tiên phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức đáng kể. Nếu hành vi hủy hoại tài sản có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội chưa đến mức đáng kể thì không được xem là tội phạm. [30, tr.62-64]. - Thứ ba, về tính được quy định trong BLHS. Tội hủy hoại tài sản được được quy định trong BLHS cụ thể tại Điều 178 BLHS. Đây là đặc điểm thể hiện hình thức pháp lý của tội phạm. Hành vi hủy hoại tài sản tuy có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đến mức đáng kể nhưng không được quy định trong BLHS thì cũng không phải là tội phạm [30, tr.67-68]. - Thứ tư, về tính phải chịu hình phạt của tội phạm này. Hành vi hủy hoại tài sản có tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội đáng kể, hành vi đó do chủ thể thực hiện với hình thức lỗi cố ý và được quy định trong BLHS coi là tội phạm thì tất yếu người thực hiện hành vi đó sẽ bị xử lý hình sự tức là phải chịu hình phạt và có thể bị áp dụng các biện pháp tư pháp. Hình phạt đối với 8
- hành vi hủy hoại tài sản chính là hình thức thể hiện bản chất nguy hiểm của tội hủy hoại tài sản, thể hiện tính cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất nhằm răn đe và phòng ngừa đối với loại hành vi nguy hiểm đáng kể này [30, tr.69-70]. Giữa tính phải chịu hình phạt với các đặc tính ở trên có mối quan hệ với nhau, qua đó tạo cơ sở để phân biệt tội hủy hoại tài sản với hành vi hủy hoại tài sản vi phạm pháp luật khác không bị xử lý bằng chế tài nghiêm khắc của pháp luật hình sự. Như vậy, tội hủy hoại tài sản có đầy đủ các đặc điểm chung của tội phạm. Từ đó, là cơ sở phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội hủy hoại tài sản quy định tại Điều 178 BLHS năm 2015. “Tội hủy hoại tài sản là hành vi cố ý làm cho tài sản của người khác bị mất giá trị sử dụng ở mức độ không còn khả năng khôi phục lại được” [11, tr.306]. Hành vi hủy hoại tài sản cấu thành tội phạm khi tài sản bị hủy hoại phải có trị giá từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều 178 BLHS mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội hủy hoại tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; Tài sản là di vật, cổ vật. 1.1.2. Phân biệt tội hủy hoại tài sản với một số tội phạm khác có liên quan 1.1.2.1. Phân biệt tội hủy hoại tài sản với tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180 BLHS) - Thứ nhất, hành vi khách quan của tội hủy hoại tài sản là hành vi làm cho tài sản mất hoàn toàn giá trị sử dụng hoặc làm mất một phần giá trị sử dụng của tài sản. BLHS năm 2015 quy định những hành vi trên chỉ bị coi là tội phạm nếu tài sản bị hủy hoại có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định tại điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều 178 BLHS năm 2015. 9
- Đối với tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản thì hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi vi phạm (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đúng, không đầy đủ) những quy định của pháp luật hoặc quy tắc sinh hoạt xã hội thông thường liên quan đến bảo vệ tài sản. Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho tài sản của người khác có giá trị từ 100.000.000 đồng trở lên. - Thứ hai, về mặt chủ quan của tội phạm. Về dấu hiệu lỗi, ở tội hủy hoại tài sản quy định tại Điều 178 BLHS năm 2015, lỗi của người thực hiện hành vi hủy hoại tài sản thực hiện với lỗi cố ý. Còn ở tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản quy định tại Điều 180 BLHS năm 2015 thì lỗi của người phạm tội thực hiện với lỗi vô ý. Dưới hình thức lỗi vô ý do quá tự tin, người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của người khác trị giá 100.000.000 đồng trở lên nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Còn dưới hình thức vô ý do cẩu thả, người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại cho tài sản của người khác trị giá 100.000.000 đồng trở lên, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó [40, tr.214]. - Thứ ba, chủ thể của tội hủy hoại tài sản là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu TNHS. Chủ thể của tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 180 BLHS năm 2015 là bất kỳ người nào có năng lực TNHS. Theo đó, chủ thể của tội phạm nay phải là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên. - Thứ tư, hình phạt áp dụng đối với người phạm tội hủy hoại tài sản nặng hơn so với hình phạt áp dụng đối với người phạm tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. Cụ thể, các hình phạt chính áp dụng trong tội hủy hoại tài sản có hình phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù. Đối với hình phạt chính trong tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là 10
- hình phạt cảnh cáo hoặc phạt cải tạo không giam giữ. Đối với hình phạt tù, tội hủy hoại tài sản quy định mức phạt cao nhất đến 20 năm, còn tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản quy định mức phạt cao nhất đến 02 năm. Ngoài ra, tội hủy hoại tài sản còn quy định người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 178 BLHS năm 2015. 1.1.2.2. Phân biệt tội hủy hoại tài sản với tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản (Điều 242 BLHS) Khách thể của tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản là các quan hệ xã hội về bảo vệ và sử dụng hợp lý những nguồn lợi thủy sản. Nguồn lợi thủy sản là tài nguyên sinh vật trong vùng nước tự nhiên, có giá trị kinh tế, khoa học để phát triển nghề khai thác thủy sản, bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản [40, tr.464]. Còn khách thể của tội hủy hoại tài sản là quyền sở hữu tài sản của nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đối tượng tác động trực tiếp của tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản là các loài thủy sản sinh sống dưới nước. Còn đối tượng tác động của tội hủy hoại tài sản là tài sản bao gồm vật, tiền và giấy tờ có giá. Như vậy đối tượng tác động của tội phạm này không bao gồm các loại tài nguyên thiên nhiên và nguồn nước, các loại động vật, thực vật trong quần thể của hệ sinh thái dưới nước (ao, hồ, biển, sông, suối, kênh, rạch, ) Nếu có hành vi hủy hoại các tài nguyên thiên nhiên (rừng nguyên sinh, nguồn nước tự nhiên .) thì bị xử lý về các tội phạm tương ứng trong Chương XIX của BLHS. 1.1.2.3. Phân biệt tội hủy hoại tài sản với tội hủy hoại rừng (Điều 243 BLHS) Thứ nhất, Về khách thể, tội hủy hoại tài sản xâm hại đến quan hệ sở hữu, còn tội hủy hoại rừng xâm phạm các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường. Về đối tượng tác động, tội hủy hoại tài sản có đối tượng tác động là tài sản. Còn tội hủy hoại rừng có đối tượng tác động là các loại thực vật, thảm 11
- thực vật, các loại sinh vật trong môi trừng sinh thái rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Thứ hai, về chủ thể của tội phạm, tội hủy hoại tài sản do cá nhân có năng lực TNHS và đạt từ đủ 14 tuổi trở lên. Còn chủ thể của tội hủy hoại rừng có thể là cá nhân có năng lực TNHS và đạt 16 tuổi trở lên hoặc pháp nhân thương mại đủ điều kiện chịu TNHS. Thứ ba, hành vi khách quan của tội hủy hoại tài sản được thực hiện bằng các hành vi phá, đập, đốt tài sản làm cho tài sản mất hoàn toàn giá trị sử dụng hoặc làm mất một phần giá trị sử dụng của tài sản. Những hành vi trên chỉ bị coi là tội phạm nếu tài sản bị hủy hoại có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định tại điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều 178 BLHS năm 2015. Đối với tội hủy hoại rừng hành vi khách quan là các hành vi đốt, phá rừng trái phép hoặc có hành vi khác hủy hoại rừng, những hành vi này xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về bảo vệ sự phát triển và hoạt động bình thường của môi trường sinh thái. 1.1.2.4. Phân biệt tội hủy hoại tài sản với tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về ANQG (Điều 303 BLHS) Khi nghiên cứu dấu hiệu pháp lý đặc trưng mô tả trong cấu thành tội phạm hủy hoại tài sản và tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về ANQG, có vấn đề liên quan đến đối tượng tác động cần lưu ý: Đối tượng tác động của tội hủy hoại tài sản không bao gồm các công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia. Hành vi phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia cấu thành tội phạm theo quy định tại Điều 303 BLHS. Vì vậy, trong quá trình định tội danh đối với hành vi hủy hoại tài sản, cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định đối tượng bị xâm hại có phải là công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an 12
- ninh quốc gia hay không? Trước khi ban hành Pháp lệnh số 32/2007/PL- UBTVQH11 và Nghị định số 126/2008/NĐ-CP, việc định tội danh đối với tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia gặp nhiều khó khăn trong quá trình định tội danh. Các cơ quan tiến hành tố tụng không có tiêu chí cụ thể để xác định đâu là công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; chỉ có một số lĩnh vực cụ thể có văn bản hướng dẫn để xác định nhưng cũng chưa bao quát hết tất cả công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia, làm cho quá trình xác định công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia trong một số lĩnh vực còn nhiều cảm tính, chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng do đó làm cho thực tiễn định tội danh đối với hành vi này khác nhau ở các địa phương. Theo quy định của Điều 11 Pháp lệnh số 32/2007/PL-UBTVQH11, tiêu chí để xác định công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia gồm: “1. Công trình tập trung bí mật nhà nước hoặc là nơi lưu giữ, bảo quản hiện vật, tài liệu có giá trị đặc biệt quan trọng hoặc là nơi bảo quản vật liệu, chất đặc biệt nguy hiểm đối với con người, môi trường sinh thái hoặc là cơ sở vật chất đặc biệt quan trọng khác liên quan đến an ninh quốc gia. 2. Công trình đòi hỏi phải áp dụng công tác bảo vệ đặc biệt, tuyệt đối an toàn trong quá trình khảo sát, thiết kế, xây dựng, quản lý và sử dụng” [33, tr.2]. Sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 32/2007/PL-UBTVQH11 và Chính phủ ban hành Nghị định số 126/2008/NĐ- CP, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành các Công văn số 99/TANDTC- KHXX ngày 01-7-2009, Công văn Số 144/TANDTC-KHXX ngày 20/08/2009 yêu cầu các Tòa án địa phương khi xét xử về tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia thì “để được coi là công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia thì công trình đó phải nằm trong danh mục do Thủ tướng Chính phủ quyết định”, trong trường hợp chưa được quy định trong danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia thì 13
- chỉ được coi là “công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia” khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định số 126/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ. Những quy định này đã tạo sự thống nhất trong quá trình xác định công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia và truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 303 BLHS. Đây là căn cứ quan trọng để phân biệt tội hủy hoại tài sản (Điều 178 BLHS) với tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia. 1.1.2.5. Phân biệt tội hủy hoại tài sản với tội hủy hoại vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự (Điều 413 BLHS) Đối tượng tác động của tội hủy hoại tài sản, về nguyên tắc, không bao gồm vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự. Nếu quân nhân tại ngũ hoặc người khác (công nhân, viên chức quốc phòng; quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện; dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được trưng tập vào phục vụ trong Quân đội) từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực TNHS mà có hành vi hủy hoại vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự, nếu không thuộc trường hợp được quy định tại Điều 114 và Điều 303 của BLHS, thì phạm tội hủy hoại vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự theo Điều 413 BLHS [40, tr.994]. Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt, nếu có hành vi phá vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự mà người thực hiện hành vi này không phải là quân nhân tại ngũ hoặc người khác (công nhân, viên chức quốc phòng; quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện; dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được trưng tập vào phục vụ trong Quân đội), không thuộc trường hợp được quy định tại Điều 114 và Điều 303 của BLHS, thì phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178 BLHS). 14
- 1.1.3. Ý nghĩa, mục đích của quy định tội hủy hoại tài sản 1.1.3.1. Ý nghĩa của quy định tội hủy hoại tài sản Ngay từ khi tuyên bố độc lập, Nhà nước ta cũng rất chú trọng trong việc xây dựng pháp luật. Bằng việc Nhà nước ta ban hành những văn bản pháp luật hình sự quy định tội phạm và hình phạt trừng trị những hành vi xâm phạm đến sở hữu của Nhà nước và công dân, góp phần bảo vệ các quan hệ xã hội. Pháp luật hình sự thời kỳ này tuy chỉ là những quy định rất cơ bản nhưng đã khái quát và luật hóa cụ thể một số tội phạm về những hành vi xâm phạm sở hữu của Nhà nước và công dân xảy ra trên thực tế làm căn cứ, cơ sở pháp lý cho Tòa án xét xử. Tội hủy hoại tài sản được xem xét và được quy định trong các văn bản pháp luật ban hành thời kỳ đầu. Việc sớm quy định tội hủy hoại tài sản trong luật hình sự Việt Nam cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của tội danh này. Nó không chỉ góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội mà còn bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân, tổ chức và Nhà nước [18, tr.19]. Việc ghi nhận tội hủy hoại tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam còn thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản của Nhà nước và nhân dân. Điều này đã được ghi nhận trong tinh thần của Điều luật qua các bản Hiến pháp ở các thời kỳ khác nhau cũng như trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Quyền sở hữu đối với tài sản là quyền quan trọng được pháp luật bảo vệ, Nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của Nhà nước, của tổ chức và mọi công dân. Hơn nữa, việc ghi nhận tội hủy hoại tài sản trong Bộ luật Hình sự còn tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh phòng chống các tội phạm nói chung và tội hủy hoại tài sản nói riêng. Ngoài ra, việc quy định tội hủy hoại tài sản trong BLHS Việt Nam còn góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự cần thiết phải tuân thủ các quy định của pháp luật 15
- trong việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của Nhà nước và nhân dân. Đồng thời việc hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng quy định tội hủy hoại tài sản của các cơ quan có thẩm quyền còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó thực hiện đúng đắn những quy định về tội phạm này trong thực tiễn. BLHS là luật nội dung, việc quy định tội hủy hoại tài sản có ý nghĩa quan trọng để làm cơ sở thống nhất khi định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội hủy hoại tài ản, căn cứ chủ yếu là BLHS [18, tr. 20]. 1.1.3.2. Mục đích của qui định tội hủy hoại tài sản Việc quy định tội hủy hoại tài sản trong luật hình sự Việt Nam ngoài mục đích tạo cơ sở thiết lập hành lang pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản còn có mục đích thể chế hóa tinh thần của các bản Hiến pháp trước đó cũng như trong Hiến pháp năm 2013. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”. Và tại Điều 51 Hiến pháp 2013 quy định: “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa”. Quyền sở hữu đối với tài sản là quyền quan trọng được pháp luật bảo vệ, Nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của Nhà nước, của tổ chức và mọi công dân. Việc quy định tội hủy hoại tài sản nhằm mục đích đảm bảo Nhà nước ta thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế về quyền con người, vì quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của con người mà pháp luật quốc gia và quốc tế đều quan tâm bảo vệ. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam tại Điều 32 cũng quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ” [20, tr. 32]. 16